Trong bài Thánh Thư Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Hội Thánh đã dùng Vinh Tụng Ca kết thức Thư gửi tín hữu Rôma của Thánh Phaolô để ca tụng Mầu Nhiệm đã được giấu kín từ đời đời nhưng nay được bày tỏ cho các Dân Ngoại để họ vâng phục trong Đức Tin. Hôm nay Lễ Hiển Linh, Hội Thánh cũng nhắc lại mầu nhiệm này qua Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữi Êphêxô. Thánh Phaolô cho chúng ta biết rằng Đức Kitô đến không phải chỉ để cứu Dân Do Thái mà còn cứu Dân Ngoại và mời gọi họ trở thành những tảng đá sống động trong ngôi nhà Hội Thánh. Đây là một mầu nhiệm được Đức Kitô mặc khải cho các Tông Đồ và các Ngôn Sứ cùng ban cho các ngài sứ vụ rao giảng và ban phát các ân sủng cho mọi người.
Câu 2 và 3a - Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm
Vì không thuộc về Nhóm Mười Hai nên Thánh Phaolô bị nhiều người chống đối và cho rằng ngài không phải là một Tông Đồ chính hiệu. Hơn nữa, nhiều người Do Thái còn tố cáo ngài là xúi dục dân chúng chống lại Lề Luật. Nhưng đối với các tín hữu, Thánh Nhân là người được Chúa trao cho thừa tác vụ rao giảng Tin Mừng và ban phát ân sủng cho Dân Ngoại. Thánh Phaolô ý thức rất rõ ràng về sứ vụ của ngài trong chương trình Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong các thư, ngài đã nhiều lần nhắc lại ơn gọi này đặc biệt là với các tín hữu Côrinthô (x. 1 Cor. 9:1-2). TrongThư gửi tín hữu Galatê, ngài còn xác định rằng chính Chúa đã trao nhiệm vụ làm Tông Đồ Dân Ngoại cho ngài (x. Gal 2:8).
Khi trao nhiệm vụ này cho ngài, Chúa cũng mặc khải cho ngài một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này đã được nói đến trong đoạn kết của Thư Rôma. Ở đây ngài nhắc lại rằng giờ đây qua việc rao giảng Tin Mừng của các Tông Đồ, mọi người dù là Doi Thái hay Dân Ngoại được mời gọi gia nhập vào cùng một Nhiệm Thể của Đức Kitô là Hội Thánh, có cùng một Đức Tin.
Nếu không được Thiên Chúa mặc khải cho thì không ai có thể biết mầu nhiệm này vì đó là “Điều mà mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề nghĩ đến, là điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cor 2:9). Nhưng một khi được ơn mặc khải thi ai cũng có thể hiểu được mầu nhiệm này. Đối với Thánh Phaolô, Đức Kitô mặc khải cho ngài biềt về mầu nhiệm này khi hiện ra với ngài trên đường đi Đamascô. Cuộc gặp gỡ ấy là một khúc quanh lịch sử trong đời ngài, và ảnh hưởng đến toàn thể sứ vụTông Đồ của ngài trong tương lai.
Nhờ đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh, chúng ta cũng được thấu hiểu mặc khải này. Mặc khải này mở ra cho chúng ta có một liên hệ đầy ý nghĩa với Đức Kitô. Nhờ đó chúng ta được gặp Người. Không những thế, mặc khải này còn cho chúng ta thấy rõ căn tính của mỗi người trong chúng ta. Quả thật, khi Thiên Chúa tỏ Mình ra cho con người, Ngài cũng tỏ cho con người biết về chính họ là một tạo vật được dựng nên giống hình ảnh Ngài và có một phẩm giá vô cùng cao quý. Hơn nữa, khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, mỗi người chúng ta còn được Thiên Chúa trao cho sứ vụ làm tông đồ cho người khác, được cộng tác vào sứ vụ mà Chúa Con đã trao cho các Tông Đồ. Ngài luôn ban ân sủng để giúp chúng ta chu toàn sứ vụ này. Tất cả mọi ơn gọi đều dựa trên ân sủng, là hồng ân Chúa ban. Bất cứ ai đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa và hợp tác với ân sủng Ngài ban đều có thể chu toàn sứ vụ của mình.
Câu 5 - mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần.
Khi nói rằng con cái loài người các thế hệ khác không được biết, Thánh Phaolô không có ý nói rằng đây là một điều “bí mật” chỉ được tỏ ra cho một số người xuất chúng hay một nhóm người thông thái nào đó. Nhưng Thiên Chúa có ý tỏ “mầu nhiệm” này ra cho mọi người. Các Tông Đồ cũng như các Tiên Tri hay Ngôn Sứ không phải là “những tay trong” của Thiên Chúa, nhưng là những sứ giả có nhiệm vụ đặc biệt là rao giảng và truyền bá mầu nhiệm của Ngài. Nhờ biết khiêm nhường và vâng phục trong Đức Tin, các ngài đã nghe lời Chúa Giêsu rao giảng và hiểu được điều Thiên Chúa muốn mặc khải cho nhân loại. Nội dung của mầu nhiệm này không phải là một sứ điệp được viết trong một quyển sách hay qua lời rao giảng, nhưng là một con người: Con người Đức Chúa Giêsu Kitô. Đức Kitô vừa là sứ điệp, vừa là Đấng rao giảng sứ điệp ấy. Thánh Kinh nói về Đức Kitô và những công việc của Người. Thánh Kinh chỉ cho chúng ta phương pháp sư phạm của Thiên Chúa đối với Dân Ngải, về lòng kiên nhẫn và nhân hậu vô bờ của Ngài. Các Tông Đồ và các Ngôn Sứ không phải là Thầy dạy chúng ta mà chính Đức Kitô, vị Thầy Duy Nhất, dùng các ngài mà giảng dạy cho chúng ta. Còn Đức Kitô thì xác nhận rằng Người giảng dạy giáo huấn của Thiên Chúa Cha chứ không phải của riêng Người. Vì thế những ai được trao phó sứ mạng rao giảng Đức Kitô phải luôn nhớ lời Người: “Giáo huấn của Tôi không phải là của chính Tôi, nhưng là của Ðấng đã sai Tôi” (Ga 7:17).
Mầu nhiệm này được tỏ ra cho các Tông Đồ và các Tiên Tri hay Ngôn Sứ. Như đã nói ở trên, Tông Đồ là những sứ giả được Chúa sai đi rao giảng và truyền bá mầu nhiệm này cho muôn dân. Các Tiên Tri hay Ngôn Sứ ở đây nên được hiểu là các Ngôn Sứ của Tân Ước (x. Eph 4:11; 1 Cor 12:28tt; Cv 11:27). Chúa Thánh Thần đã mặc khải mầu nhiệm cho họ “để họ có thể rao giảng Tin Mừng, khơi động Đức Tin vào Chúa Giêsu, là Đấng Mêsia, và là Chúa, và tụ họp lại thành Hội Thánh” (Dei Verbum, 17).
Chúa Thánh Thần là Đấng giúp chúng ta hiểu mầu nhiệm của Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã hứa. “Khi Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt các con đến tất cả chân lý” (Ga 16:13); Ngày nay nhiều người không nhận ra được mầu nhiệm này vì họ hoàn toàn dựa vào khoa học thực nghiệm và sự hiểu biết của họ. Họ coi khoa học hơn Thiên Chúa, vì thế họ không thể chấp nhận được Thần Chân Lý vì họ không thấy và cũng không biết Ngài theo khoa học. Còn chúng ta, nếu muốn hiểu biết chân lý thì phài chấp nhận Chúa Thánh Thần và mời Ngài đến ngự giữa chúng ta, và trong mỗi người chúng ta (x. Ga 14:17).
Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong Hội Thánh. Ngài “là linh hồn của Hội Thánh. Chính Ngài là Đấng giải thích cho các tín hữu ý nghĩa sâu xa của giáo huấn của Chúa Giêsu và mầu nhiệm của Người. Chính Chúa Thánh Thần, hôm nay, cũng như thời Hội Thánh sơ khai, hoạt động trong bất cứ nhà truyền giáo nào để cho Ngài chiếm đoạt và dẫn dắt mình. Chúa Thánh Thần đặt trên miệng người ấy những lời mà người ấy không thể tự mình tìm ra, đồng thời, Chúa Thánh Thần sửa soạn tâm hồn người nghe để họ cởi mở và sẵn sang chấp nhận Tin Mừng cùng với Nước Trời được loan báo” (Phaolô VI, Evangelii nuntiandi, 75).
Câu 6 - Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
Các Dân Ngoại được biết đến mầu nhiệm này là nhờ nghe biết và tin vào Tin Mừng. “Nhưng làm sao mà họ sẽ được nghe, nếu không có người rao giảng? Làm sao mà họ rao giảng, trừ khi được sai đi? Như có lời viết, ‘Ðẹp thay bước chân những người loan báo tin mừng!’ Nhưng không phải tất cả mọi người đã vâng theo Tin Mừng. Vì ngôn sứ Isaia đã nói, ‘Lạy Chúa, ai đã tin những điều họ nghe chúng con giảng?’ Như vậy, đức tin có được là nhờ nghe, mà nghe là nghe rao giảng lời Ðức Kitô” (Rom 10:14-16). Mọi tín hữu, qua Bí Tích Rửa Tội đều có sứ vụ mang Tin Mừng đến cho những người chung quanh mình.
Nhờ tin vào lời rao giảng của chúng ta mà họ được đồng thừa tự với Dân Do Thái lời Thiên Chúa hứa với Tổ Phụ Abraham và Vua Đavid. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã hứa với Tổ Phụ Abraham rằng nhờ miêu duệ của ông mà mọi dân tộc sẽ được chúc phúc (x. St 12:3; Hc 44:21). Đồng thời Ngài cũng hứa với Vua Đavid rằng Ngài sẽ làm cho triều đại ông được bền vững đến muôn đời (x. 2 Sam 7:12-16), nhưng Ngài không cho các ông biết việc ấy sẽ xảy ra thế nào. Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện các lời hứa ấy qua việc gửi đến một Đấng Mêsia quyền thế, và Ngài sẽ cho dân Israel làm bá chủ hoàn cầu đến muôn đời.
Nhờ Thiên Chúa mặc khải Thánh Phaolô hiểu rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những lời hứa ấy cách khác. Đó là qua Đức Kitô, Ngài sẽ đưa Dân Ngoại vào Dân Mới của Ngài là Hội Thánh. Trong Hội Thánh này, dù là Do Thái hay Dân Ngoại, mọi người đều bình đẳng như những chi thể của một thân thể duy nhất là Nhiệm Thể Đức Kitô, tức là Hội Thánh. Trong Nhiệm Thể ấy Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người một nhiệm vụ riêng với những đặc sủng riêng để xây dựng Hội Thánh (x. Eph 4:11-12).
Kết Luận
Chúa Giêsu giảng trần để cứu độ toàn thể nhân loại. Việc ba nhà Đạo Sĩ dõi theo ánh sao đến gặp Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người là cảnh mở màn chương trình Cứu Độ cho Dân Ngoại này. Trong khi Chúa Giêsu còn tại thế, Người chỉ giảng dạy cho con cái Isreal. Nhưng trước khi về Trời, Người đã truyền cho các môn đệ đi rao giảng cho muôn dân. Không những thế, Người còn đích thân đánh ngã Thánh Phaolô trên đường Đamascô và đặc biệt truyển chọn ngài để rao giảng cho Dân Ngoại. Ngày nay chúng ta được tham gia vào chính mầu nhiệm này của Thiên Chúa trong Hội Thánh, không phải vì tài năng của mình, nhưng vì ân sủng của lòng thương vô biên của Ngài Chúa. Cho nên chúng ta cũng có nhiệm vụ là những ánh sao dẫn người khác đến cùng Thiên Chúa qua những hoạt động truyền giáo và đặc biệt là qua cách sống của mình, để ý muốn của Thiên Chúa “cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” ( Tim 2:3-4) được sớm thể hiện trên thế gian, để mọi người được đồng thừa lời hứa ngàn xưa của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con ý thức được trách nhiệm Ngôn Sứ mà Chúa đã trao phó cho con trong ngày gia nhập Hội Thánh để con luôn sống xứng đáng là một phần tử của Nhiệm Thể Chúa trong lời nói, việc làm và cách sống của con, ngõ hầu qua con người khác có thể nhận ra Chúa, yêu mến Chúa cùng gia nhập Nhiệm Thể Chúa, để họ cũng được thừa hưởng lời Chúa đã hứa với Tổ Phụ Abraham tự ngàn xưa. Amen.
Câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận
-
Mầu nhiệm mà Thánh Phaolô nói đến là gì? Bạn hiểu mầu nhiệm ấy khi nào và mầu nhiệm ấy bén rễ trong lòng bạn thế nào?
-
Đối với cuộc đời bạn, mầu nhiệm ấy có ý nghĩa gì?
-
Làm sao để bạn có thể chia sẻ mầu nhiệm ấy với người khác mà không làm cho họ tự ái, đồng thời giúp họ tin?
-
Bạn đang sống mầu nhiệm ấy thế nào?
I. Lời Chúa trong Đời Sống Hội Thánh:
1. Việc Thờ Phượng Chung
Lời Chúa, hiện diện trong Thánh Kinh, là trung tâm của đời sống phụng vụ của Hội Thánh. Đó là lý do tại sao chúng ta công bố Lời Chúa mỗi lần tụ họp để dâng Thánh Lễ, mỗi cuộc cử hành bí tích, và trong giờ Kinh Phụng Vụ (Nhật Tụng). Chúng ta công bố những đoạn từ Cựu Ước, là những điều báo trước việc Chúa Giêsu đến, và từ Tân Ước, là sách dạy chúng ta việc chương trình cứu độ của Thiên Chúa được hoàn thành như thế nào nơi Đức Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta tin rằng Ngôi Lời, Đấng đã làm người và ngự giữa chúng ta đang hiện trong Lời mà chúng ta công bố. Chúng ta tin rằng Hội Thánh nuôi “các tín hữu bằng Bánh Hằng Sống, được lấy từ bàn tiệc Lời Chúa và Từ Mình Đức Kitô” (Sách GLCG, số 103). Nhờ cả Thánh Thể lẫn Thánh Kinh, mà chúng ta có một liên hệ mật thiết với Đức Kitô Phục Sinh đang ngự giữa chúng ta.
2. Giáo Huấn
Truyền lại và giải thích Lời Chúa cho mọi thế hệ một cách trung thực là nhiệm vụ của Hội Thánh. Một cách mà trong đó Hội Thánh là tông truyền là dạy những gì mà các Thánh Tông Đồ đã dạy về Đức Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, bởi vì mỗi thế hệ đón nhận Lời Chúa trong một môi trường xã hội khác so với các thế hệ trước, cho nên Hội Thánh phải nhờ sự linh hứng của Chúa Thánh Thần mà giải thích và áp dụng Lời Chúa vào mỗi môi trường.
Một trong những món quà quý hóa mà Hội Thánh đã tặng cho chúng ta trong thế kỷ thứ 20 là Hiến Chương về Mặc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum) của Công Đồng Vaticanô II. Trong tài liệu này Hội Thánh dạy chúng ta phải hiểu Lời Chúa mà chúng ta đã đón nhận như thế nào.
Chúng ta được dạy trở thành những người hiểu theo văn cảnh trong việc giải thích Thánh Kinh của mình:
Biết rằng trong Thánh Kinh, Thiên Chúa phán qua con người bằng cách thức của loài người, cho nên người chú giải Thánh Kinh, nếu muốn biết chắc chắn điều gì Thiên Chúa muốn truyền thông cho chúng ta, phải cẩn thận tìm tòi ý nghĩa mà các thánh sử thực sự có ý trình bày.. . . Như thế, các nhà chú giải phải tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp xác định, thánh sử đã muốn diễn tả và thực sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hóa của họ, qua các lối văn được dùng thời đó.(Dei Verbum, số 12).
Hội Thánh, qua nhiều kỷ nguyên, hướng dẫn các tín hữu bằng các giáo huấn của mình, được bắt nguồn từ Thánh Kinh. Truyền Thống này của Hội Thánh, là Truyền Thống đã cho chúng ta Thánh Kinh lúc ban đầu, và bây giờ giải thích Thánh Kinh trong mọi môi trường văn hóa và lịch sử, cũng là một cách diễn tả Lời Chúa.
3. Cầu Nguyện Riêng
Thêm vào việc mặc khải các chân lý phổ quát và vĩnh cửu, Thánh Kinh cũng là Lời Hằng Sống, là ánh sáng soi đường chúng ta, là cách cho chúng ta đàm đạo riêng với Thiên Chúa. Chính Thánh Kinh đã xác nhận: “Quả thật, Lời Thiên Chúa sống động, linh nghiệm và sắc bén hơn gươm hai lưỡi, xuyên qua giữa linh hồn và thần trí; gân và tủy, và có thể phân biệt các toan tính và suy tư của lòng người” (Dt 4:12). Vì lý do đó mà Lời Chúa trong Thánh Kinh là nòng cốt của đời sống cầu nguyện riêng của chúng ta. Qua Thánh Kinh, Lời Hằng Sống của Thiên Chúa đến và nói với chúng ta cách cá nhân và riêng tư.
II. Lời Chúa trong Sứ Vụ của Hội Thánh
Hội Thánh không những chỉ đón nhận, cử hành và sống Lời Chúa, Hội Thánh còn được sai đi với sứ vụ rao giảng Lời cho muôn dân. Chúng ta là một dân tộc truyền giáo. Lời Chúa là nguồn mạch, là đề tài, và là phương tiện mà nhờ đó chúng ta công bố Tin Mừng của Đức Chúa Giêsu Kitô.
Mẫu gương làm nhà truyền giáo và nhà giáo của chúng ta là Đức Mẹ Maria, mà trong Ngài Lời đã nhập thể. Chúng ta được mời gọi để được hình thành bởi Lời Chúa, như Đức Mẹ khi Ngài thưa, “Xin thực hiện nơi tôi như lời ngài” (Lc 1:38b). Chúng ta được mời gọi để trở thành những người cưu mang Đức Kitô, như Đức Mẹ đã cưu mang. Chúng ta phải mang Đức Kitô đến cho tất cả những người chúng ta gặp gỡ.
Là Kitô hữu, chúng ta đặc biệt nhớ đến nhiệm vụ và vinh dự, mà nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, được làm nhân chứng cho Lời Chúa trong mọi bình diện của đời sống chúng ta: ở nhà, ở sở làm, trong việc chúng ta dùng thì giờ nhàn rỗi thế nào, trong việc chúng ta sử dụng các tài nguyên của mình ra sao. Chúng ta phải là những Giáo Lý viên – là những người vang vọng Lời Chúa qua thời gian và không gian - đến mọi thế hệ.
Nguyện xin cho chúng ta làm những chứng nhân trung tín của Lời Chúa, là Đấng đã dựng nên chúng ta, đã cứu chuộc chúng ta, kêu gọi chúng ta, yêu thương chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta, và hướng dẫn chúng ta trên mọi bước đường trong cuộc hành trình của cuộc đời chúng ta. Amen
Phaolô Phạm Xuân Khôi
soạn theo tài liệu Chúa Nhật Giáo Lý 2008 của HĐGMHK
Mc 1, 7 – 11
Nói đến phép rửa, người ta thường liên tưởng đến một thời Gioan Tiền Hô đã được hân hạnh tiếp đón Chúa Giêsu nơi dòng sông Giorđan và chỉ cho các môn đệ của Ông, và mọi người biết Đấng Cứu Thế. Phép rửa của Gioan Tẩy Giả là phép rửa sám hối. Phép rửa của Gioan Tiền Hô chỉ là bước đầu tiên của một cuộc hành trình. Chúa Giêsu xếp hàng giữa các tội nhân dù Ngài hoàn toàn vô tội là để làm gương cho nhân loại thấy sám hối cần thiết như thế nào ! Gioan làm phép rửa để chuẩn bị cho phép rửa bằng lửa và Thánh Thần của Chúa Giêsu.
TẠI SAO CHÚA GIÊSU XẾP HÀNG GIỮA CÁC TỘI NHÂN ?:
Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả, muôn trùng, Ngài xếp hàng giữa những tội nhân. Đây là một điều kỳ lạ hay nói đúng hơn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm Con Thiên Chúa sống giữa nhân loại, sống giữa con người. Có ngờ đâu, có ai hiểu thấu được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện tuyệt đối, lại xin Gioan làm phép rửa. Chiêm ngắm Ngài, con người sẽ nhận ra và hiểu thế nào là tình yêu. Đức Giêsu đã yêu thương nhân loại, yêu thương mỗi người bằng chính con người đầy chạnh thương, tha thứ của Ngài. Ngài là Thiên Chúa mà đã khước từ vinh quang, xuống mặc xác phàm, sống như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Chỉ có tình yêu mới giúp con người nhận ra việc làm của Chúa Giêsu. Chỉ có tình yêu mới vén mở cho con người, cho nhân loại hiểu được tấm lòng cao cả, yêu thương vô bờ của Đấng Cứu Thế. Chỉ có tình yêu mới giúp con người hiểu được mầu nhiệm Giáng –Sinh-Con-Thiên -Chúa –làm- người. Chỉ có tình yêu mới làm con người hiểu được Đấng Cứu Độ lại sống như cần phải sám hối và cần được cứu độ.
GIOAN TẨY GIẢ BÁO TRƯỚC PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU :
Chính Gioan đã làm sáng tỏ phép rửa của Chúa Giêsu: ” Tôi rửa anh em bằng nước để làm dấu hiệu cho thấy anh em đã ăn năn sám hối, nhưng có một Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và lửa. Ngài cao trọng hơn tôi nhiều và tôi chẳng xứng đáng xách giày cho Ngài “( Mt 3, 11 ). Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ của Ngài: ” Các con hãy đi đến với mọi người khắp thế gian, rao giảng cho họ về Nước Trời. Hãy rửa tội cho họ nhân danh cha và Con và Thánh Thần” ( Mt 28, 19 ). Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa tái sinh. Thánh Phaolô đã giải thích về phép rửa này như sau: ” Khi được rửa tội là anh em được an táng với Đức Kitô, và trong phép rửa tội anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã từng bị chết về mặt tinh thần nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô “ (Cl 2, 12-13 ).Phép rửa của Chúa Giêsu giúp con người chia sẻ đời sống thần linh của Ngài.
BÀI TRƯỜNG CA TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊSU:
Chúa Giêsu chịu phép rửa bầu trời mở ra…Ở đây xuất hiện cả Ba Ngôi Thiên Chúa và như thế, nó cho thấy bản trường ca tình yêu của Chúa Giêsu: Ngài bị liệt vào hàng những kẻ tội lỗi ( Lc 7, 34 ), Ngài bị người nhà, họ hàng cho là kẻ đã bị mất trí, bị xua đuổi ra khỏi thành Giêrusalem, bị lên án như một tội nhân nguy hiểm, bị kết án tử hình, bị treo lên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Chúa Giêsu coi cuộc khổ nạn của Ngài là một phép rửa. Phép rửa của Ngài là dùng cái chết để xóa tội cho nhân loại, cho con người: ” Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất “( Lc 12, 50 ). Đây là bản trường ca tình yêu của Chúa Giêsu, bởi vì Ngài đã xuống thế gian vì yêu thương, chết vì yêu thương, Ngài nói và đã thể hiện: ” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG: Kitô hữu là người đã được tái sinh để trở nên con cái Chúa và con cái của Giáo Hội. Chúa mời gọi mọi Kitô hữu loan báo Tin Mừng cứu độ. Chúa gọi mời mọi Kitô hữu đem tình thương đến cho mọi người như “đem an bình vào nơi tranh chấp, đem tình thương vào nơi thù hận, đem niềm vui đến chốn lao tù vv…”. Người môn đệ của Chúa Giêsu phải là người luôn sống bác ái yêu thương, luôn chứng tỏ có Chúa đang hiện diện nơi mình. Người môn đệ Chúa không được hờ hễnh, lơ là và hầu như thơ ngây trước những người đau khổ. Zundel đã viết một câu thật ý nghĩa: ” Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống bí tích rửa tội cách nhiệt tâm và mau mắn loan báo Tin Mừng cứu độ. Amen.
Mẫu gương hiệp nhất sâu thẳm và tuyệt vời nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi dạy cho con người muôn vàn bài học cao siêu. Bài học đầu tiên của sự hiệp nhất thánh thiện ấy chính là tình yêu và lòng khiêm hạ. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương và chỉ có yêu thương, yêu thương đến nỗi Tình Yêu trở thành một sức mạnh vô biên, trở thành một Ngôi Vị quyền năng vô cùng. Và Thiên Chúa Ngôi Hai, cao cả uy quyền, đã “tự hạ mình và vâng lời cho đến chết” như lời Thánh Phaolô. Chính Đức Kitô đã mạc khải: “… vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt.11,29). Con người chia rẽ vì họ không học được bài học tiên quyết này từ Thiên Chúa của họ. Nguyên nhân chia rẽ đầu tiên chính là sự ganh tị vốn đi cùng con người qua mọi thời đại và trong mọi tình huống, mọi công đoàn. Dường như cám dỗ lớn lao nhất trong cuộc đời mà tổ tông loài người đã kinh nghiệm, ấy là cám dỗ của lòng ganh tị và muốn bằng, thậm chí hơn đồng loại của mình, để được bằng Đấng Tạo Thành. Ganh tị là hình thức khác của lòng kiêu ngạo. Khi người ta bước vào một cộng đoàn, họ có khuynh hướng muốn làm thầy, muốn chỉ đạo dù Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Các con đừng gọi ai dưới đất là cha (…), là thầy (…), và là người chỉ đạo” (Mt.23,8-10). Trong lịch sử nhân loại nói chung, lòng kiêu căng và ganh tị thường đi đôi với nhau như bóng với hình. Và đó là kẻ thù lớn lao của sự hiệp nhất. Khi hai người con của ông Giêbêđê muốn xin được “ngồi bên hữu và bên tả Chúa Giêsu”, tức là xin được quyền cao chức trọng, lập tức sự ganh tị lan ra, và mối bất hoà cũng lan theo. May thay, Chúa Giêsu phân xử kịp thời một cách khéo léo để giảng hoà mọi người.
Đã có lòng yêu thương khiêm hạ, con người sẽ biết tôn trọng nhau, và do đó sẽ có sự hiệp nhất trọn vẹn. Tôn trọng nhau chính là nhìn nhận phẩm giá của nhau vì hiểu rằng phẩm giá ấy đã được Đức Giêsu Kitô dùng Máu mình mà tẩy rửa và nâng lên hàng siêu việt. Tôn trọng nhau như vậy là tôn trọng con người, cá tính, ý tưởng, sự chọn lựa và cả những việc làm nhỏ bé nhất của nhau. Lòng ganh tị ngăn cản, không cho chúng ta đi đến chỗ tôn trọng này. Ngồi dò xét, chê trách, chỉ đường… là những thái độ của sự ấu trĩ trong tâm hồn, và sâu xa hơn, nó bắt nguồn từ những mặc cảm nào đó trong đời mình. Và do đó, con người tưởng mình hơn người khác mà hoá ra lại tự đặt mình vào chỗ thấp kém hơn, ít là xét về cách hành xử. Có những người nắm trong tay quyền lực, nhưng lại có những hành động cho xã hội thấy rằng quyền lực ấy được vung lên từ một tâm hồn run rẩy.
Muốn được hiệp nhất, con người cần có một mục tiêu chung để theo đuổi. Đức Khổng Tử cho rằng “quân tử hoà nhi bất đồng; tiểu nhân đồng nhi bất hoà”, người quân tử có thể hoà thuận, chấp nhận nhau dù khác biệt, còn kẻ tiểu nhân dù có giống nhau cũng chia rẽ”. Đó là lý tưởng của các cộng đoàn, nhưng rõ ràng là càng có nhiều điểm chung, con người càng dễ đến gần với nhau hơn. Trong tác phẩm “Cõi Người Ta”, Saint Exupéry viết: “Yêu nhau không phải là nhìn nhau, nhưng cùng nhìn về một hướng”. Chỉ đọc câu ấy thôi, ta chưa cảm được ý nghĩa sâu xa mà tác giả muốn gửi đến. Phải nhìn đến hoàn cảnh bi đát của ba con người bị tai nạn máy bay, rơi vào trong sa mạc hoang vắng, chỉ có chờ chết mà thôi. Khi họ ngồi nhìn nhau trong nỗi thất vọng chán chường, tác giả, trong tình huống ấy và trong nỗi lo sợ chết người ấy, mới bật lên một ý tưởng nghe mới mẻ quá mà thật ra Đức Kitô đã nói lên từ ngàn xưa: ““Như Maisen đã giương con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin Con Người thì sẽ được sống muôn đời”. (Gn. 3:11-13, 15). Tình Yêu là ở đó, ở chính nơi Con Người bị treo lên làm hy tế, và tất cả những tâm hồn cùng hướng về Người sẽ hiệp nhất với nhau và được cứu trong cộng đoàn yêu thương. Mục tiêu để theo đuổi của chúng ta là gì nếu không phải là chính Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và là cùng đích của mọi loài thụ tạo, và là Đấng mà ngày hôm nay con người muốn chối bỏ và loại ra khỏi cuộc đời họ. Ở Việt nam, trong các môn học, người ta tìm mọi cơ hội để loại Thiên Chúa ra khỏi lòng học sinh. Và như thế, sự chia rẽ ngày càng trầm trọng là điều vô cùng dễ hiểu. Giáo Hội, nhất là Giáo Hội Việt Nam, chỉ thật sự hiệp nhất khi tất cả con cái Giáo Hội đồng lòng chiêm ngắm những mầu nhiệm cao cả và cùng lúc ấy cũng la vang lên khát vọng công lý và hoà bình của mình, để cùng nhau lao vào giành giật lấy công lý và hoà bình từ tay những kẻ muốn gói công lý hoà bình vào bọc nylông đem quăng ở bãi rác có nhiều tên gọi mỹ miều. Chúng tôi may mắn có những đàn anh là linh mục, tu sĩ và giáo dân nhiệt thành. Họ thổi vào chúng tôi lý tưởng đẹp. Nhưng thỉnh thoảng lý tưởng ấy cũng bị người khác chế ngự, và chính lúc bị chế ngự như thế, chúng tôi hiểu được rằng mình phải dồn hết mọi nỗ lực vào mục tiêu thật của đời mình để Thánh Ý Đức Kitô nên trọn vẹn.
Bước vào tuần lễ cầu nguyện cho hiệp nhất các Kitô hữu, việc đầu tiên chúng ta cần làm là nhận ra kẻ thù của hiệp nhất và loại trừ nó ngay tức khắc. Việc loại trừ những mầm mống kiêu căng, chỉ trích và phá phách làm cho mầu nhiệm hiệp nhất đơm hoa kết trái, và nhờ đó, Thiên Chúa đi vào lịch sử và vận mạng con người một cách “thanh thản” hơn. Không phải sau tuần hiệp nhất là tất cả có thể hiệp nhất trọn vẹn, nhưng dịp này phải là cơ hội cho những ai còn ham chia rẽ, những ai còn đứng ngược hướng với các phong trào đòi công lý hoà bình, những ai còn ngại ngùng không dám chỉ ra những gian tà của thế gian, biết dừng lại và suy ngắm lời Đức Kitô “Ut Sint Unum”, Để Chúng Nên Một.
Minh Sư bảo họ: "Nếu như thầy không rời xa các con, làm sao các con thấy được?"
Các đệ tử hỏi lại: "Chúng con không thấy được cái gì khi thầy còn ở với chúng con?"
Nhưng Minh Sư im lặng, ngài không nói lời nào. Khi ngài sắp lìa trần, một lần nữa các đệ tử hỏi thêm: "Chúng con sẽ thấy được gì khi thầy đã ra đi?"
Với một cái chớp mắt, Minh Sư nói: "Tất cả những gì thầy đã làm là ngồi bên bờ sông và phân phát nước sông. Sau khi thầy ra đi, chắc chắn các con sẽ nhìn thấy giòng sông…" (Anthony de Mello, trích trong “One Minute Wisdom”)
***
Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa nhật thứ I mùa Thường niên hôm nay cũng nhắc đến một dòng sông có tên là sông Gio-đan, nơi Chúa Giêsu đã đến sau 30 năm sống âm thầm ẩn dật ở Nazareth. Bên dòng sông này, Chúa Giêsu đã chịu Phép Rửa từ tay Gioan Tẩy giả để bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai về Nước Thiên Chúa.
Việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa từ tay Gioan là sự hạ mình sâu thẳm và là một cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Cựu ước và Tân ước. Biến cố này không chỉ loan báo trước cuộc khổ nạn của Đức Giêsu mà còn loan báo về sự phục sinh vinh quang của Người.
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mông ghe thuyền qua lại thì dòng sông Gio-đan nơi Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng sông Gio-đan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Gio-đan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Gio-đan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Đức Giêsu đã chọn dòng sông bé nhỏ này, không phải như Môi-sen hay Giô-sua xưa kia giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng sông nhỏ bé cùng với những tội nhân lãnh nhận phép rửa từ tay Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu Long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạng gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Gio-đan bé nhỏ.
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì dòng sông Gio-đan bé nhỏ ấy là dòng sông quen thuộc nhất đối với Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Đức Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc.1,5) và chịu “phép rửa sám hối để được ơn tha tội” (Mc.1,4) lại có cả Đức Giêsu. Ngài là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối ? Ngài là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy ?
Trong đêm Giáng Sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá như một tên trộm cướp chỉ vì yêu thương.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu của con Thiên Chúa làm người !
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân - Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô, vị ngôn sứ của thời kỳ mới.
Cuộc gặp gỡ này không phải là một cuộc tranh cãi dành ưu thế, nhưng thật thú vị tuyệt vời khi cả hai đại biểu đều khiêm nhường đón nhận nhau trong sứ vụ. Đức Giêsu từ tốn bước xuống dòng sông Gio-đan và xin Gioan làm phép rửa cho mình. Gioan hân hạnh xin Đức Giêsu rửa cho mình vì ông nhìn thấy đây mới chính là nhân vật ban phép rửa trong Thánh Thần như ông đã loan báo.
Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này, Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần hiên diện như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao. Từ nay Đức Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với niềm hy vọng mọi sự sẽ tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha.
Cuộc gặp gỡ giữa hai Đấng tại sông Gio-đan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo hội chọn làm khởi điểm cho mùa thường niên là mùa phụng vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng Tin mừng của Chúa Giêsu.
Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần khí và Nước, giữa Tân ước và Cựu ước. Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí tích Rửa tội của Chúa Giêsu, chúng ta nhận được ấn tín của Chúa Thánh Thần, trở nên con cái Thiên Chúa.
Chúa Giêsu chịu phép rửa từ tay Gioan là một sự hạ mình sâu thẳm, một sự khiêm nhường cao cả đã làm cho cửa trời mở ra, ân sủng tuôn đổ, ơn cứu độ được trao ban và lan truyền. Mỗi người Kitô qua bí tích rửa tội, được thần linh ngự xuống, được nghe tiếng Chúa Cha vang dội: “Này là con yêu dấu của Ta, Ta đặt trọn vẹn yêu thương trên con”. Và tâm hồn mỗi người trở nên Đền Thờ Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ước mong mỗi tín hữu chúng ta luôn nhớ mình đã được xức dầu, được mặc áo trắng tinh tuyền, được trao nến sáng Phục sinh, được thanh tẩy trong nước và Thánh Thần để sống xứng đáng mỗi ngày mỗi hơn với ân huệ đã lãnh nhận.
Lm Nguyễn Hồng Giáo OFM
Trong bài Du Xuân trên cuốn sách nhỏ nhan đề Sài Gòn Chợ Lớn Rong Chơi (nxb Văn Nghệ Tp HCM, 1999), nhà văn Lý Lan kể:
“Tôi còn đứng ngần ngừ [giữa chợ tết] thì một bà cụ mặc đồ nâu sồng nhỏ nhẹ nói với tôi: ‘Xin cô cho chùa ít trái cà’. Tôi hỏi ra mới biết bà vãi đi xin đồ cho chùa ăn tết. Chùa ở nơi hẻo lánh, chỉ có các ni cô với bà vãi, không nằm trong danh mục các thắng cảnh du lịch hành hương nên ít khách vãng lai.Tôi thực sự vui mừng nói: ‘Bà lựa bao nhiêu tuỳ ý’. Bà vãi ngồi xuống, sẽ sàng lượm mấy trái cà dập. Tôi nói: ‘Bà cứ lựa mấy trái tốt, mình mua mà, tôi trả tiền’. Bà vãi ngước nhìn chị nhà quê nói: ‘Lựa hết trái tốt rồi cổ khó bán lắm, nhà chùa ăn sao cũng được mà’. Tôi hỏi bà cặn kẽ đường đi lên chùa. Chẳng phải tôi đã tặng bà một thúng rau quả dập, mà chính bà đã tặng tôi một câu chuyện hay”.
Tôi thấy trong câu chuyện này có hai cách lý luận, hai thứ lô-gích, cái nào cũng hợp lý cả nhưng rõ ràng không có giá trị ngang nhau. Lý luận của nhà văn kể chuyện là: Bà vãi có thể và có quyền lựa những trái cà tốt, thậm chí tốt nhất, vì mình mua, mình trả tiền sòng phẳng, chứ không phải xin xỏ gì người bán. Đây là lý luận dựa trên sự công bằng, hoàn toàn đúng. Đàng khác, tuy không nói rõ ra, nhưng nhà văn có thể đã suy nghĩ trong lòng theo cách lý luận quen thuộc của “xã hội”, rằng bà vãi càng nên lựa những trái tốt vì “ khi đã có người khác trả tiền thay cho, thì “thật là khờ dại nếu chỉ lựa những trái chưa đáng mấy đồng xu mà lấy”. Cũng không thể coi lý luận này là bất hợp lý. Thậm chí còn được coi là khôn nữa! Nhưng trong một hoàn cảnh khác, nó có thể trở thành lý luận của lòng tham, chẳng khác gì trường hợp mấy ông cán bộ, công chức vào chợ mua thả dàn hay vào nhà hàng gọi những món ăn đắt tiền nhất mà chẳng cần tính toán gì về giá cả “vì người trả tiền là cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, không phải là mình”. Lý luận này của mấy ông “quan tham” có vẻ không trái với lô-gích (không phi lý) nhưng trái với đạo đức. Đạo đức có cái lô-gích riêng của nó.
Đối lại lý luận của nhà văn là lý luận của bà vãi. Bà chỉ lấy những trái cà dập, và bà có lý của mình: Mình lựa hết trái tốt rồi, chỉ còn lại toàn trái xấu thì làm sao cô hàng bán hết được? Nhà cô ta chắc nghèo lắm vì đến mấy trái cà dập mà cũng đem đi bán, mong kiếm thêm được ít đồng cho gia đình ăn tết. Lý luận này là của tấm lòng nhân ái, không còn là của sự công bằng, của sự trao đổi sòng phẳng nữa, mà nằm ở mức cao hơn. Vì thế chính Lý Lan đã thừa nhận nhà tu hành đã tặng cho chị một câu chuyện hay, một bài học hay.
Lô-ghích của Chúa và lô-ghích của con người
Trong Kinh Thánh, nhất là trong Tân Ước, và đặc biệt các sách Tin Mừng, chúng ta gặp rất nhiều những cách lý luận, lập luận hay lô-gích khác nhau, thậm chí trái ngược nhau như: lô-ghích của tình yêu và lẽ công bằng, của sự khôn ngoan của Chúa và khôn ngoan thế gian, của Lề luật cũ và tự do Nước Trời, của tập tục lỗi thời và lẽ phải, của thể diện và sự chân thật, của đạo cũ và đạo mới, của quan điểm chính trị và quan điểm Tin Mừng, của người giàu (như nhà phú hộ) và người nghèo (như anh La-gia-rô), của kẻ tự coi là công chính và của người biết mình là tội lỗi, v.v. Nhìn chung, những va chạm hay mâu thuẫn đã xảy ra thường là giữa cái lô-ghích mới mẻ của Chúa Giêsu và nhiều thứ lô-ghích khác, nghĩa là nói cho cùng, giữa những giá trị mới của Chúa và một số giá trị khác, vì những giá trị này bị tương đối hoá hoặc bị vượt qua hoặc đơn giản bị phủ nhận bới các giá trị Chúa rao giảng và thực hành. Thử lấy vài ví dụ.
Đức Giêsu và người Pharisêu
Mâu thuẫn giữa Chúa Giêsu và phái Pharisêu thường xảy ra chung quanh việc giữ lề luật mà tiêu biểu là luật cấm làm việc ngày sabát. Họ đã đẩy tính bó buộc của luật này đến mức chi ly, gần như vô lý như không đi đường dài, không bứt dù chỉ là vài bông lúa trong tay mà ăn, không khiêng vật nặng … Nhóm sùng đạo Ét-xê-niên còn khắt khe hơn, chẳng hạn họ không dám nấu mà chỉ hâm đồ ăn trong ngày sabát. Khi làm như thế, họ quên mất mục đích nguyên thủy của luật cấm làm việc ngày sabát là gì, mà cái mục đích đó mới là quan trọng.
Phúc Âm kể: Hôm đó là ngày sabát, tại một hội đường, Chúa Giêsu gặp một người bị bại một tay. Người ta hỏi Người: “Có được phép chữa bệnh ngày sabát không?’ Họ hỏi thế không phải vì thật lòng muốn biết câu trả lời của Người, nhưng cốt để tố cáo Người bởi họ đoán chắc trước rằng thế nào Người cũng lại chữa bệnh cho người bại tay. Chúa hỏi lại: “Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sabát, lại không nắm lấy nó mà kéo lên sao? Mà người thì quý hơn chiên biết mấy! Vì thế, ngày sabát được phép làm điều lành.” Rồi Chúa nói với người bại tay: “Anh giơ tay ra!” Người ấy giơ tay ra và tay liền trở lại lành mạnh như tay kia. Và bài tường thuật của thánh Mátthêu thêm: “Ra khỏi đó, nhóm Pharisêu bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu (x. Mt 12, 10-14).
Lý luận của Chúa, hay lô-ghích của Người dựa trên nguyên tắc: điều tốt, điều lành thì bao giờ cũng nên làm, và luật lệ là phương tiện, không phải là cùng đích. Vấn đề không phải là có được “làm việc ngày sabát” hay không mà là có nên làm một việc tốt cho một con người bất hạnh trong ngày sabát hay không? Nếu người ta bớt “nguyên tắc”, bớt “lý thuyết” suông đi và đưa vấn đề vào cụ thể chắc hẳn người ta sẽ dễ tìm ra câu trả lời đúng hơn. Người Pharisêu, nếu họ suy nghĩ cách bình thường, tất cũng sẽ hành động như Chúa Giêsu mà thôi, bằng chứng là họ không dám trả lời câu hỏi của Chúa: “Ai trong các ông có một con chiên [mà lại là con chiên] độc nhất bị sa hố ngày sabát, v.v.?” Họ làm thinh vì sợ tự mâu thuẫn khi phải trả lời rằng chính mình cũng sẽ kéo con chiên ra khỏi hố ngày sabát- (đó là vấn đề “lương tri”)-, thế nhưng họ lại không chấp nhận cho Người chữa lành một con người vốn còn cao quý hơn gấp bội so với một con chiên! Lý luận lành mạnh của họ bị méo mó bởi một đầu óc tôn giáo lệch lạc. Họ lúng túng vì óc vụ luật -luật lệ trên hết mọi sự!-, họ muốn trung thành tuyệt đối với luật vì thế dễ rơi vào mâu thuẫn với cuộc sống thực tế và thường chỉ còn giữ luật cho có hình thức mà thôi.
Chúa Giêsu cũng giữ ngày sabát như mọi người Do Thái đạo đức như đi cầu nguyện và nghe giảng Sách Thánh tại hội đường (x.Lc 4,16-22), nhưng Người đi sâu vào ý nghĩa, nội dung của luật Người không tuyệt đối hoá nó nhưng coi nó cũng chỉ là một phương tiện phụng sự Thiên Chúa và vì thế, nó không được phép ngăn cản bổn phận bác ái đối với con người (x. Mc 2,27; Lc 13,10-16; 14,1-5). Người tuyên bố: “Ngày sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát” (Mc 2,27). Vì tinh thần vụ luật nên hành động của người Pharisêu, ngay cả hành động tôn giáo, thường rơi vào sự giả hình, -một sự thiếu ăn khớp (bất hợp lý, thiếu lô-ghích) giữa hành động bên ngoài và thái độ thật bên trong.
Chúa Giêsu và các Tông Đồ
Tôi muốn nêu lên hai trường hợp. Trước hết là chuyện ông Simon-Phêrô. Sau khi Chúa Giêsu tiên báo lần thứ nhất cho các môn đệ biết Người sẽ lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ phục sinh, ông Phêrô kéo riêng Người ra và trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Chúa nghiêm khắc bảo ông: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,21-23). Vậy mà ngay trước đó, Phêrô –nhờ Chúa Cha mạc khải cho- đã tuyên xưng rất đúng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và vì thế ông được Thầy khen là “có phúc” (Mt 16,17). Còn bây giờ, lời trách của Chúa thật quá bất ngờ, quá nặng nề, Phêrô bị coi như Sa-tan vì Sa-tan đã từng cám dỗ Chúa trong sa mạc hãy đi theo con đường vinh quang trần thế mà chính nó bày vẽ ra hòng lôi cuốn Người. Chắc chắn Phêrô có lý lẽ riêng của ông để can ngăn Thầy, chắc chắn về mặt chủ quan ông cũng chỉ muốn điều tốt cho Thầy mà thôi, nhưng suy nghĩ và ý muốn của ông lại ngược với suy nghĩ và ý muốn của Chúa Giêsu, cũng là ý muốn của Thiên Chúa Cha. Thiện tâm, thiện ý mà thôi chưa đủ!
Trường hợp thứ hai liên quan tới hai ông Giacôbê và Gioan, cũng là những tông đồ “ruột” (thân tín) của Chúa Giêsu như Phêrô. Chuyện cũng xảy ra sau khi Chúa tiên báo cuộc Thương Khó của Người lần thứ hai. Hôm ấy, Thầy trò từ Galilê lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước, vào một làng Samari để chuẩn bị cho Người đến sau. Dân làng từ chối đón tiếp Người vì Người đang đi về hướng Grêrusalem. Nên biết dân Samari và dân Do Thái thù ghét nhau sâu sắc. Thấy thế, Giacôbê và Gioan nói với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy bọn chúng không?” Nhưng Chúa quay lại quở mắng hai ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác (x. Lc 9, 51-56).
Chúa Giêsu kêu gọi các Tông Đồ đừng vội nóng giận, vì những người Samari từ chối không đón tiếp Chúa trong dịp này đâu đáng trách hơn những người Do Thái đóng cửa không tiếp đón người Samari vì người này là kẻ đối nghịch? Cách phản ứng của hai Tông Đồ Giacôbê và Gioan bề ngoài có vẻ bênh vực Chúa nhưng thật ra lại rất trái với tinh thần của Chúa. Cách phản ứng ấy rất dễ đưa tới cuồng tín và hận thù tôn giáo giữa những người khác đạo. Chúa Giêsu không ngả theo thứ cuồng tín đó. Người dạy ta đừng lẫn lộn chính nghĩa của Thiên Chúa với chính nghĩa của chúng ta hay với lợi ích tập thể tôn giáo chúng ta. Như vậy, ở đây có hai lô-ghích không thể hoà hợp.
Còn Kitô hữu chúng ta theo cách lý luận hay theo lô-ghích nào?
Khi làm một việc hay khi chọn một lập trường, một thái độ cư xử, chúng ta có thể có nhiều thứ lý luận, nhiều thứ lô-ghích vì có thể đứng trên những bình diện hay quan điểm khác nhau. Nhưng là người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta luôn luôn còn phải tự hỏi thêm: Tôi đã tính đến lô-ghích của Chúa, của Tin Mừng chưa? Những lô-ghích kia có đi đôi được với Tin Mừng không? Nói cách đơn sơ, tinh thần nào, tư tưởng thâm sâu nào đang thực sự chi phối ta?
Thật rất khó để nhìn mọi việc theo cái nhìn của Chúa Kitô. Đối với cá nhân Kitô hữu đã thế mà đối với những tập thể Kitô hữu, ngay cả đối với Giáo Hội nữa. Kinh nghiệm của các thánh Tông Đồ cũng như kinh nghiệm bản thân và lịch sử Giáo Hội cho thấy rõ điều đó. Chúng ta (và có khi cả Giáo Hội ở cấp này cấp kia) không dễ gì mà tránh khỏi những phản ứng, những chọn lựa không mang tính Tin Mừng chút nào, mà ít nhiều theo cách thế gian, theo cái khôn trần tục, theo toan tính hẹp hòi, đôi khi thâm sâu là một chọn lựa “ý thức hệ” được nguỵ trang… Thế nhưng, chúng ta lại thường dễ dàng đặt cách nhìn riêng của mình trong hào quang của chân lý tôn giáo và vì thế rất khó để nhìn sự việc theo quan điểm của người khác, nói gì tới việc chấp nhận quan điểm ấy! Chẳng hạn, không phải chỉ vì ta muốn bênh vực quyền lợi của Chúa (hay của Giáo Hội) mà đương nhiên việc ta làm đã phù hợp với tinh thần của Chúa. Như trên đã nói, thiện tâm thiện ý và mục đích tốt chưa đủ.
Thật khó đi vào lô-ghích của Tin Mừng vì cái thuận lý của Tin Mừng lắm khi lại là nghịch lý đối với ta, và cái ta cho là hợp lý rất có thể là bất hợp lý đối với Tin Mừng. Quả thực, nào ai dễ chấp nhận –trên lý thuyết mà nhất là trong thực tế- tinh thần của Tám Mối Phúc? Hay những lời dạy như: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Phải tha thứ cho kẻ xúc phạm đến anh em, không phải dăm bảy lần mà luôn luôn. Hãy lấy điều lành đáp lại điều ác của tha nhân… Trong đáy lòng, ta vẫn nghĩ rằng làm đúng như Chúa Giêsu dạy là dại dột, là thiệt thòi, thiếu thực tế và rút cuộc khó tồn tại trên đời. Ta nghĩ thế, bởi vì “thế gian”, hay “con người cũ” (nói theo thánh Phaolô) vẫn còn và vẫn tìm cách chi phối người Kitô hữu và Hội Thánh.
Trở lại bài học của nhà tu hành Phật Giáo đầu bài này, ta thán phục vì bà đã phản ứng, chọn lựa, hành động một rất tự nhiên, rất dễ dàng theo tinh thần Đức Phật mà bà đã thấm nhuần sâu xa. Ước gì tinh thần Phúc Âm cũng thấm nhậpvà trở thành máu thịt trong ta để trong mọi hoàn cảnh ta biết một cách tự nhiên (gần như bản năng) mình phải làm gì cho xứng với danh hiệu môn đệ Chúa Kitô và mau mắn hành động theo!
5/1/2009
![]() |
| N2T |
Một chủ của cửa hiệu tạp hóa nhỏ chuẩn bị suy sụp đến nói với đại sư rằng, tiệm tạp hóa của ông ta đối diện với một cửa hiệu liên hoàn rất lớn, sắp đè bẹp việc làm ăn của ông ta. Nhà của ông ta mọi đời đều làm ăn buôn bán nhỏ đã có trăm năm lịch sử rồi, phút chốc mất nó là tuyệt lộ, do đó, ngoài việc mở tiệm buôn bán ra, thì ông ta không biết làm thứ gì cả.
Đại sư nói: “Nếu con sợ hãi ông chủ của cái tiệm sản xuất liên hoàn ấy, thì con sẽ hận ông ta, thù hận biến con thành kẻ tuyệt lộ.”
- “Vậy thì con phải làm thế nào ?” ông chủ tiệm tạp hóa nhỏ này tâm tình hoảng loạn đến cực điểm.
- “Mỗi ngày vào mỗi buổi sáng trước khi ra khỏi cửa tiệm của con, trên đường đi con chúc phúc cho tiệm tạp hóa của con được thịnh vượng. Sau đó con lại chúc phúc phúc cho cái tiệm sản xuất liên hoàn ấy cũng như thế.”
- “Cái gì ? Chúc phúc cho đối thủ của con à, có mà tự sát.”
- “Nếu con biết chúc phúc tất cả, thì tất cả biến thành may mắn và sẽ trở về với con. Nếu con chúc dữ mọi việc, thì cũng như thế, sự tuyệt lộ sẽ đến trên mình con.”
Sáu tháng sau, ông chủ cửa hiệu tạp hóa nhỏ ấy đến báo cáo với đại sư tình huống gần đây: Nếu ông ta lo lắng như trước đây thì ông ta nhất định phải đóng cánh cửa may mắn, nhưng, trước mắt ông ta đang phụ trách kinh doanh của cửa hiệu sản xuất liên hoàn ấy, vả lại công việc buôn bán có phần thịnh đạt hơn trước.
(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)
Suy tư:
Chúc phúc cho tha nhân thì sự chúc phúc ấy sẽ trở lại với mình, đó là chân lý và là nguyên nhân đem lại bình an trong tâm hồn.
Có một vài người Ki-tô hữu cũng chua xót than thở người này làm “bể” nồi cơm của họ, người kia chơi xỏ mình, nên cũng có những lúc nặng lời chúc dữ người khác, nhưng cuối cùng thì vẫn như cũ, mà tâm hồn lại càng bất an hơn.
Chúa Giê-su dạy các môn đệ của mình rằng: vào nhà nào hãy chúc bình an cho nhà ấy.
Vậy thì nên chúc bình an hơn là chúc dữ, nên nói lời khiêm nhu hơn là nói lời cộc cằn, nên thông cảm hơn là lên án.v.v...đó chính là tinh thần của Phúc Âm vậy.
Chúc lành với nụ cười trên môi là truyền giáo cách tuyệt vời nhất.
![]() |
| N2T |
59. Chỉ có Thiên Chúa mới thánh hóa con người, giống như chỉ có lửa mới có thể làm nóng chảy các đồ vật vậy.
(Thánh Thomas Aquinas)![]() |
| N2T |
4. Con người ta hoàn toàn không phải vì đẹp đẽ mà dễ thương, nhưng vì dễ thương mới đẹp đẽ.
Trong khi con số thương vong gia tăng tại Gaza, Đức Thánh Cha một lần nữa kêu gọi hòa bình
John Thavis (Catholic News Service)
VATICAN ngày 5, tháng 1, 2009 (CNS) – Trong khi Do Thái tiếp tục tấn công Gaza từ trên không và trên bộ, Benedict XVI một lần nữa kêu gọi việc ngưng chiến và cầu nguyện cho bao nhiêu nạn nhân.
Đức Thánh Cha đã nói buổi trưa ngày 4 tháng 1, khi ban phép lành tại Vatican,"Các tin tức buồn thảm từ Gaza chứng tỏ là việc từ chối không đối thoại có thể đưa dẫn tới những tình trạng gây nên đau khổ ghê gớm cho những người dân, một lần nữa lại là nạn nhân của thù hận và chiến tranh.”
Ngài tuyên bố như vậy vào lúc Do Thái gửi chiến xa và bộ binh vào Gaza, trong khi tiếp tục oanh tạc các mục tiêu bên trong lãnh thổ Palétin bằng phi cơ và đại bác. Các giới chức y tế Palétin cho hay đã có trên 500 người Palétin, kể cả ít ra cũng có 100 đàn bà và trẻ em bị thương vọng trong 10 ngày chiến tranh đầu tiên.
Đức Thánh Cha nói ngài ủng hộ các nỗ lực của các vị chủ chăn các Giáo xứ tại Đất Thánh, khi họ xin mọi người cầu nguyện cho hòa bình và công lý tại Gaza. Ngài yêu cầu người Công Giáo cầu nguyện cho các nạn nhân và những người bị thương, và những người chịu đau khổ cách khác trong cuộc chiến.
Đức Thánh Cha nói "Chiến tranh và thù hận không phải là giải pháp cho các vần đề, lịch sử gần đây đã khẳng định điều này.” Ngài kêu gọi các chính quyền Do Thái và Palétin hãy hành động tức khắc để “chầm dứt tình trạng đau thương hiện nay.”
Do Thái bắt đầu tấn công ngày 27 tháng 12, 2008 với mục đích ngăn chặn các vụ oanh tạc của Hamas bằng hỏa tiễn vào Miền Nam Do Thái. Hamas là tổ chức bán quân sự của Palétin đang cai quản giải đất Gaza.
Từ nhiều tháng qua thế giới đã rơi vào cơn lốc khủng hoảng tài chánh kinh tế chưa từng thấy kể từ 70 năm nay. Các ngân khoản khổng lồ hàng trăm tỷ mỹ kim hay Euros, do các chính quyền trích ra để cứu các ngân hàng khỏi phá sản, đã không ổn định được tình hình thị trường chứng khoán thế giới trồi sụt. Và mặc dù giá dầu xăng đã giảm, cuộc sống vẫn mắc mỏ khó khăn khiến cho hàng triệu gia đình phải lâm cảnh ”thắt lưng buộc bụng” nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh đang lan sang các kãnh vực khác bắt đầu là kỹ nghệ sản xuất xe hơi. Sau khi Thượng Viện Hoa Kỳ bỏ phiếu chống chương trình yểm trợ ngân qũy cho các hãng sản xuất xe hơi, ngành sản xuất xe hơi tại Mỹ gặp khó khăn, bắt đầu hạn chế việc sản xuất và sa thải nhân viên, vì số xe bán ra giảm sút không đủ thu nhập để trả lương cho các nhân viên. Ảnh hưởng tiêu cực của vụ khủng hoảng kỹ nghệ chế tạo xa hơi Hoa Kỳ tạo ra phản ứng dây chuyền trên kỹ nghệ sản xuất xe hơi trên toàn thế giới, kể cả hãng Toyota của Nhật Bản.
Sự kiện một số ngân hàng khai phá sản đã phơi bầy những khía cạnh xấu xa và vô luân của hệ thống kinh tế tài chánh của xã hội tư bản. Nói một cách nôm na, chúng là hệ thống ”biển thủ hay ăn cướp” tiền trong qũy tiết kiệm của hàng chục triệu người trên thế giới, mà không bị luật lệ trừng phạt.
Ngày 12 tháng 12 vừa qua ông Bernard Madoff, nguyên giám đốc thị trường chứng khoán Nasdaq tại Wall Street trong nhiều thập niên, đã bị bắt và bị tố cáo là đã lừa đảo và biển thủ 50 tỷ mỹ kim trong chương trình làm ăn có tên gọi là "Lược đồ Ponzi”. Ông Madoff đã là người thành lập tổ chức "Đầu tư an Ninh” hồi thập niên 1960. Tổ chức cố vấn đầu tư này của ông phục vụ từ 11 đến 25 khách hàng với ngân khoản lên tới hơn 17 tỷ mỹ kim. Các khách hành này đến lượt họ cũng có các ngân qũy khác với hàng trăm khách đầu tư, và những người này cũng có các ngân qũy khác với nhiều khách hàng đầu tư theo đội hình kim tự tháp. Ông Madoff đã là giám đốc điều hành ”Lược đồ Ponzi” này ít nhất từ năm 2005 tới nay. Hồi năm 2004 số tiền lời đầu tư là từ 7,3 tới 9%. Trong tuần đầu tháng 12 năm vừa qua ông Madoff cho ủy ban điều hành biết khách hàng đầu tư đòi trả lại họ 7 tỹ mỹ kim, và ông đang lo chạy cho đủ số tiền để trả lại cho họ. Lý do là vì cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh khiến cho họ sợ bị mất vốn vì các công ty bị phá sản. Ông Madoff là thành viên của nhóm Công Ty Nasdaq OMX và hãng của ông là thị trường của 350 tổ chức đầu tư Nasdaq, bao gồm cả các hãng lớn như Apple, EBay và Dell. Ông bị bắt và bị tố cáo lừa đảo vì ngân qũy thiếu hụt 50 tỷ mỹ kim. Đây là vụ lừa đảo lớn nhất lịch sử đầu tư tại Hoa Kỳ, sau vụ hãng năng lượng khổng lồ Enron khai phá sản vì thiếu nợ 63,4 tỷ mỹ kim hồi năm 2001.
Lừa đảo trong các vụ đầu tư làm ăn bằng cách khai phá sản là một trong các trang đen đủi bẩn thỉu và là một thứ quái vật của xã hội tư bản. Hồi tiền bán thế kỷ XX đã có ba văn sĩ công giáo Pháp từng lên tiếng ”ngôn sứ” mạnh mẽ phê bình các con quái vật của xã hội tân tiến hiện đại, trong đó có hệ thống tài chánh kinh tế. Đó là văn sĩ Charles Péguy sinh năm 1873 qua đời năm 1914, thi sĩ Paul Claudel sinh năm 1868 qua đời năm 1955, và văn sĩ Georges Bernanos sinh năm 1888 qua đời năm 1948.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Jacques Julliard, chuyên viên viết khảo luận kiêm sử gia và nhà xuất bản. Ông đã cho ấn hành cuốn sách tựa đề ”Tiền, Thiên Chúa và Ma Qủy. Péguy, Bernanos và Claudel đối diện với thế giới tân tiến”.
HỎI: Thưa ông Julliard, tương quan của ông với ba văn sĩ công giáo Pháp Péguy, Bernanos và Claudel đã nảy sinh như thế nào?
ĐÁP: Đây là ba khuôn mặt đã nắm giữ một vai trò quan trọng trong việc đào tạo trí thức của tôi. Đã từ lâu tôi chú ý tới thái độ của các nhà trí thức đối với xã hội tân tiến ngày nay. Và tôi thấy thái độ đó thường bị giản lược vào một việc phê bình chỉ trích khá quy ước. Trái lại ba văn sĩ công giáo Pháp của chúng ta là Péguy, Bernanos và Claudel phê bình chỉ trích xã hội tân tiến hiện đại nhân danh bản vị con người và vị thế mà con người có trong vũ trụ này. Đây không phải là các phê bình chỉ trích mỹ thuật hay chống giới trung lưu, mà là loại phê bình chỉ trích nhân chủng học và tôn giáo. Đôi khi tôi không tán đồng các tư tưởng chính trị hay tôn giáo của ba văn sĩ Pháp, nhưng tôi luôn nhận thấy nơi họ một sự đích thực khiến cho họ nếu không là bậc thầy của tôi, thì cũng luôn luôn có các châm chích thường hằng đối với xã hội tân tiến hiện đại. Tôi công nhận rằng cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay có thể giúp chúng ta hiểu sứ điệp của ba văn sĩ Pháp nhiều hơn. Trong các tháng qua chúng ta cảm nhận được vai trò của tiền bạc như là yếu tố tàn phá xã hội.
HỎI: Đâu là các lý do khiến ông khuyên người ta nên đọc lại các tác phẩm của ba văn sĩ công giáo Pháp Charles Peguy, Georges Bernanos và Paul Claudel?
ĐÁP: Hai nhà văn Peguy và Bernanos xem ra là những người nuối tiếc chế độ cũ. Thi sĩ Claudel thì ít nuối tiếc hơn. Dầu sao đi nữa thái độ của họ là thái độ giữ khoảng cách phê phán đối với thế giới hiện đại. Nhưng mà thái độ này thay vì đưa họ ngược về qúa khứ lại dự phóng họ tới tương lai. Rất nhiều lời phê bình chỉ trích của họ đối với thế giới, một cách mâu thuẫn, lại được tìm thấy trong các phong trào duy tân thời. Có người đã khám phá ra Péguy vào năm 1968 là năm người trẻ nổi loạn đập phá chống lại các quyền bính và cơ cấu trong xã hội tân tiến ngày nay. Hay có người trích các tư tưởng của họ để tố cáo thế giới ngày nay đã bị biến thành một sự trao đổi hàng hóa thuần túy.
HỎI: Ba nhà văn nói trên của Pháp đã coi thế giới hiện đại như thế nào thưa ông?
ĐÁP: Họ cho rằng thế giới ngày nay là một thế giới, trong đó mọi sự đều được quy hướng về tiền bạc. Trong các xã hội cổ điển, lãnh vực tiền bạc có các giới hạn của nó. Chúng ta hãy nghĩ tới triết gia Pascal là người phân biệt thế giới vật chất hay thế giới của thân xác và của sức mạnh với thế giới tinh thần. Nhà văn Péguy nhận ra sự gẫy đổ của ranh giới này, và đó là điểm mà ông phê bình trong chế độ tư bản tân tiến. Nhưng mà nói cho cùng cả Adam Smith là lý thuyết gia của thuyết tự do cũng đã ý thức được rằng một thế giới thuần túy thương mại thì thế nào cũng sẽ tan rã. Trong các xã hội thượng lưu, đặt ra ranh giới cho tiền bạc thương mại được coi như là một danh dự. Đối với Kitô giáo đó là bổn phận của lòng bác ái. Trong chế độ xã hội thì có sự đòi buộc của tình liên đới.
HỎI: Thế thì trong quan điểm của ba văn sĩ Pháp nói trên, tiền bạc có luôn luôn duy trì được quyền lực của nó nuốt trửng mọi sự và tàn phá mọi sự hay không?
ĐÁP: Không. Paul Claudel cũng rất là nhậy cảm đối với một hình thức tái phục hồi tiền bạc, vì nó là một dụng cụ giúp giải phóng hơn là một dụng cụ nô lệ hóa con người. Như là một yếu tố phổ quát tiền bạc cho phép con người có được các tự do mà họ đã không có được dưới chế độ phong kiến.
HỎI: Thưa ông, suy tư về tiền bạc và suy tư về các bất đồng ý kiến luân lý có liên hệ gì với nhau không?
ĐÁP: Có, đặc biệt trong các tiểu thuyết văn sĩ Bernanos là các sáng tác thường tập trung nơi cuộc chiến đấu cá nhân chống lại sự dữ. Đồng thời sự dữ được diễn tả bằng tiền bạc và một loại tinh thần suy tư không nội dung. Trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng tựa đề ”Ông Ouine” Bernanos miêu tả chân dung của một nhà trí thức luôn luôn bị treo lơ lửng giữa cái có và cái không, khiến cho ông ta đắn đo suy tính và sau cùng khước từ mọi hình thức dấn thân. Sự suy tư qúa đáng biến thành một hình thức của sự gian ác. Đối với nhà văn Bernanos André Gide đã là biểu tượng sống động của một nhà trí thức như thế.
HỎI: Thưa ông, trong trường hợp của văn sĩ Péguy, ông nhấn mạnh cả trên quan niệm về các biến cố như trường dậy trí thức vá dân sự, có đúng thế không?
ĐÁP: Nhà văn Péguy có một loại khiêm tốn trước biến cố. Như là người trí thức ông ta đã không bao giờ tìm cách choàng lên trên thực tại một quan điểm trừu tượng được chế tạo ra ở một nơi khác. Và theo tôi đây là thái độ rất có tinh thần kitô. Đó là khả năng tiếp nhận người và vật trong tình trạng đang nảy sinh. Có tinh thần sẵn sàng, nhưng điều này không có nghĩa là để cho mình bị các biến cố đè bẹp. Nó trái ngược với chủ trương vụ tín điều.
HỎI: Charles Péguy, Georges Bernanos và Paul Claudel là ba văn sĩ và ba nhà trí thức tự do hơn các người khác của thời đại đầy đảo lộn hồi đó, có đúng thế không thưa ông?
ĐAP: Theo tôi họ thuộc nhóm thiểu số các văn sĩ và nhà trí thức tự do. Và như là các nhà văn công giáo họ đã là nạn nhân của một kiểu khai trừ khỏi xã hội văn hóa. Và họ biến sự khai trừ này trở thành một kiểu cố ý rút lui, trở thành một thái độ tự do. Kiểu viết văn và các nhận xét của họ luôn luôn có sắc thái phê bình, tranh luận và chiến đấu: từ các bài thơ của Péguy cho tới các vở kịch của Claudel rồi xuyên qua các tiểu thuyết của Bernanos. Đặc biệt là văn sĩ Bernanos, đôi khi đã rất là cứng rắn chống lại cả khuynh hướng công giáo thủ cựu và các giàn xếp của nó nữa.
HỎI: Ông cho rằng ba nhà văn nói trên trước sau gì cũng sẽ được thừa nhận như là các nhà văn hậu tân tiến. Tại sao vậy?
ĐÁP: Tôi tin rằng thời đại của chúng ta đã trở thành thời đại của Péguy hay của Bernanos. Trong các điều được hai người trình bầy trước hay trong các lời tiên tri của họ, chúng ta tìm thấy rất nhiều điều quái đản của thế giới hiện đại. Đối với tôi các tác phẩm của họ xem ra thời sự hơn là cách đây 30, 40 năm rất nhiều.
(Avvenire 13-12-2008)
Trong thông điệp gửi đến những người tham dự một thánh lễ đặc biệt tại nhà thờ Thánh Stêphanô ở Jêrusalem, Đức giám mục Manuel Musallam, Chánh xứ Thánh Gia thuộc Thành phố Gaza, đã viết như sau: “Những gì anh chị em nhìn thấy trên màn ành truyền hình không thể so sánh được với những điều đã thực sự xảy ra. Từ ngữ “yêu thương” tắc nghẹn trong cổ họng tôi không thốt ra được…Chúng tôi đang sống tại Gaza chẳng khác chi những súc vật. Chúng tôi khóc lóc nhưng chẳng ai nghe. Tôi nguyện cầu Chúa thương xót và xin cho ánh sáng Kitô giáo còn chiếu rọi trong giải đất Gaza này.”
Các vị lãnh đạo giáo hội trong vùng Đất Thánh đã tới tham dự Thánh lễ tại nhà thờ Thánh Stêphanô nói trên, trong khi đó các tín hữu Kitô giáo địa phương và nước ngoài tập hợp tại Israel và vùng Tây Ngạn (West Bank) để nguyện cầu cho bạo lực tại Dải Gaza mau chấm dứt. Khi Israel khởi sự cuộc hành quân tại Gaza hồi cuối tháng 12 vừa qua, những vị đứng đầu các nhà thờ Kitô giáo trong vùng Đất Thánh đã kêu gọi lấy ngày 4 tháng giêng năm nay làm ngày cầu nguyện cho hòa bình.
Tại nhà thờ Thánh Stêphanô, Giáo trưởng hồi hưu Michel Sabbah thuộc nghi lễ Latinh tại Jerusalem tuyên bố rằng cuộc tấn công của Israel vào Dải Gaza có nghĩa là chết chóc cho cả hai phía.
Trong thánh lễ, ngài phát biểu: “Điều đang xẩy ra là chết chóc cho cả người Palestine lẫn người Do thái. Những việc đang xẩy ra tại Gaza khiến tất cả chúng ta đến hợp nhau cầu nguyện và lời cầu xin của chúng ta nói lên rằng hãy ngừng cuộc thảm sát lại. Chúng ta kêu cầu Chúa hãy nhìn đến Gaza để thấy những gì đang xảy ra tại đó và xảy đến cho tất cả chúng ta.”
“Hoà bình chỉ có thể đạt được bằng công lý, chứ không phải bằng chiến tranh.
“Chúng ta nhìn lại chính mình và thấy chúng ta chưa tận tình hoạt động. Israel hãy ngưng cuộc tấn công lại. Cuộc tấn công rồi sẽ ngưng, nhưng sau cuộc tàn phá này sẽ lại còn nhiều tàn phá hơn nữa.”
Ngài kêu gọi người Palestine hãy nhận thức rằng phương cách duy nhất để đạt được tự do và độc lập là bằng những phương tiện bất bạo động.
Buổi sáng sớm cùng ngày, tại nhà thờ Thánh Catêrina, kế cận Thánh đường Giáng sinh tại Bêlem trong vùng Tây Ngạn, giáo hữu cũng tới tham dự một thánh lễ đặc biệt.
Một tín hữu tham dự thánh lễ này là ông Adel Sahouri, 70 tuổi, cư dân tại Bêlem, nói: “Đây là một cuộc diệt chủng. Israel quá mạnh và có đủ các loại võ khí, không thiếu thứ nào. Còn Hamas có gì đâu? Không có gì cả, chỉ có đạn rocket.”
Hôm 3 tháng giêng, Israel tung ra một cuộc tấn công trên bộ vào Gaza sau nhiều ngày dùng phi cơ oanh kích để ngăn chặn nhóm nghĩa quân Palestine là Hamas phóng đạn rocket vào Israel. Kể từ ngày khởi đầu những cuộc không kích hôm 27 tháng 12, đã có ít nhất 4 người Israel và hơn 500 người Palestine thiệt mạng, trong đó có khoảng 100 thưiờng dân.
Israel nói rằng năm ngoái các nhóm khủng bố tại Gaza được Iran yểm trợ đã bắn hơn 3000 rockets, phi đạn và đạn súng cối vào các mục tiêu dân sự trong vùng phía nam Negev của Do thái.
Quỳ cầu nguyện trong hàng ghế giữa tại nhà thờ Thánh Catêrina là Victor Zoughbi.
Sau thánh lễ, ông cho thông tấn xã Catholic News Service hay rằng ông đã cầu nguyện “không phải chỉ riêng cho dân chúng ở Gaza mà cũng cho cả những người ở Tel Aviv (Do thái) nữa. Mỗi người lính Israel đi hành quân vào Gaza cũng có một người mẹ ở nhà ngồi dán mắt vào màn ảnh truyền hình, còn con tim thì mắc nghẹn. Ai có Chúa trong trái tim mình đều yêu thương tất cả mọi người.”
Zoughbi nói ông không thể hiểu mục đích các phi đạn của Hamas là để làm gì, căn cứ ở tính không có gì chính xác khi phóng ra. Ông cũng nhấn mạnh đến sự kiện là chỉ có một chính quyền Palestine duy nhất đứng đầu là Thủ tướng Mahmoud Abbas. Hồi tháng 6 năm 2007, nhóm Hamas tách ra khỏi phong trào Fatah của Thủ tướng Abbas và chiếm quyền kiểm soát Dải Gaza. Chính phủ Abbas vẫn còn kiểm soát vùng Tây Ngạn.
Ông nói: “Chúng ta chiến đấu để làm gì – để được một mảnh đất ư? Hãy chiếm đất đi. Rồi chung cuộc đất sẽ nuốt chửng chúng ta.”
Sau thánh lễ tại Bêlem, hơn 50 tín hữu, tay mang vòng hoa tang, biểu ngữ kêu gọi hòa bình, một là cờ tang màu đen và cờ Palestine, diễn hành chunh quang công trường Máng Cỏ, miệng đọc Thánh vịnh 50, theo truyền thống thường được đọc vào các dịp lễ tang.
Tiếng xầm xì bắt đầu nổi lên trong các nhóm nhỏ tụ tập phía bên ngoài thánh đường khi có tin đồn loan truyền rằng Hamas đã bắt một số lính Israel làm con tin. Israel bác bỏ tin này, và lời đồn đãi sau đó được biết là không đúng sự thật.
Phát biếu của Rosemarie Nasser, 55 tuổi: “Chiến tranh là điều đang xảy ra và tôi cầu xin cho nó ngừng lại. Tôi không trông đợi người ta nghe (lời cầu xin), nhưng là trông đợi Chúa, và bất cứ điều gì Chúa hoạch định chúng tôi sẽ đi theo. Không ai hiểu rằng Chúa cũng có thời gian của chính ngài. Không biết bao lần trong cuộc đời chúng ta Chúa đã dùng tai ương để làm thành điều tốt đẹp.”
Thông cáo báo chí của USCCB cho hay Viện thống kê thăm do Harris Interactive đã thực hiện một cuộc khảo sát trực tuyến 2.341 người Hoa Kỳ trưởng thành được tiến hành từ ngày 10 đến 12 tháng Mười Hai.
Theo thăm dò này, chỉ có 11 phần trăm người trả lời phiếu thăm dò ý kiến nghĩ rằng phá thai là bất hợp pháp trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, 38 phần trăm cho rằng nên giới hạn hợp pháp hóa phá thai trong phạm vi các trường hợp liên quan đến bị cưỡng hiếp, loạn luân, hoặc nguy hiểm cho cuộc sống của người mẹ.
Khoảng 33 phần trăm cho rằng nên giới hạn phá thai trong phạm vi ba tháng đầu hay 6 tháng đầu của thai kỳ, trong khi chỉ có 9 phần trăm phản đối tất cả mọi hạn chế về phá thai.
Deirdre McQuade, trợ lý giám đốc về Chính sách & Truyền thông của Ban Thư ký hoạt động Phò Sự sống của USCCB gọi những điều thấy được qua khảo sát là "đáng chú ý". Bà giải thích: "Ít hơn một trong mười người Mỹ ủng hộ phá thai hợp pháp với bất cứ lý do nào vào bất cứ lúc nào trong suốt thời gian mang thai. Nhưng điều đó đúng với tình trạng hiện nay về luật phá thai theo phán quyết Roe v. Wade và Doe v. Bolton mà năm 1973 Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán quyết được phá thai hợp pháp trong suốt chín tháng mang thai hầu như với bất kỳ lý do gì".
Các cuộc khảo sát cũng mang lại câu trả lời cho các hạn chế khác về phá thai. Khoảng 95 phần trăm ủng hộ luật đòi hỏi các vụ phá thai chỉ được thực hiện bởi các bác sĩ được giấy phép hành nghề, trong khi 88 phần trăm ủng hộ luật ưng thuận có hiểu biết. Khoảng 76 phần trăm ủng hộ luật bảo vệ lương tâm dành cho bác sĩ và y tá phò sự sống, trong khi 73 phần trăm chấp thuận luật có sự tham gia của cha mẹ trong các trường hợp trẻ vị thành niên cách phá thai.
Luật chống phá thai từng phần nhận được sự ủng hộ của 68 phần trăm người trả lời, trong khi 63 phần trăm ủng hộ luật ngăn chặn việc sử dụng các khoản tiền của người đóng thuế cho các vụ phá thai.
Bà McQuade lập luận: "Ủng hộ cho những biện pháp này vượt qua lập trường 'phò sự sống' và 'phò lựa chọn' "; "Những biểu thị của cuộc nghiên cứu này cho thấy các nhóm phò phá thai không còn hợp với xu thế Mỹ. Những biện pháp được ủng hộ rộng rãi này, các biện pháp hợp hiến, một số trong chúng đã chứng tỏ hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ phá thai, nhưng lại đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi những người chủ trương phá thai và liên minh của họ trong Quốc Hội”; "Thay mặt cho các trẻ em và bà mẹ của chúng, chúng tôi sẽ phải đấu tranh để giữ lại các luật lệ phù hợp như thế"
Bà McQuade cảnh báo về những đề xuất của những người đề xướng phá thai trong đó bao gồm việc thông qua Đạo luật Tự do lựa chọn (FOCA) và việc bãi bỏ Tu chính án Hyde và các điều khoản ngăn cấm dùng tiền của người nộp thuế tài trợ cho các vụ phá thai.
Bà McQuade kết luận: "Hầu hết mọi người đồng ý chúng ta nên hành động để giảm thiểu phá thai, nhưng bạn không thể giảm thiểu phá thai bằng cách cổ võ phá thai và loại trừ tất cả các chính sách đã chứng tỏ có hiệu quả trong việc giảm thiểu phá thai". "Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ sẽ phản đối tất cả những đe dọa như thế nhắm đến sự sống con người trong mọi cách thức mà chúng được đưa ra"
On early of December, sisters of St Paul of Chartres were filled with hope when they received a letter from the People's Committee of Vinh Long province politely inviting them to a meeting to discuss on the requisition of their home. For a long time, they had never seen such a polite letter from the local government. However, on arriving to the meeting on Dec. 12, they soon found out they were in fact being the victims of a cheap trick played by the government officials.
The nuns, being as honest and humble as usual, entered the conference room in goodwill and faith in their own government for doing the right thing, but what happened during that meeting was enough to change drastically their view on the government's credibility.
“The Congregation of St Paul was invited to exchange and discuss,” wrote Sr. Huynh Thi Bich Ngoc in a letter to various state organs, “but there were no exchange nor discuss at the meeting.”
“Mr. Nguyen Van Dau, Head of the People's Committee simply announced the decision to turn our monastery into a public square,” the provincial superior of the order added.
"Also, " she continued, “present at the meeting were the authoritative organs and news media personnel such as the editor in chief of Vinh Long Newsmagazine and the Radio and TV stations of province.” They were there to tape and video. Despite the fact that all the sisters present at the meeting stood up and strongly protested, state media told their audiences that the sisters were happy with the decision and their presence at the meeting was a strong evidence of their contents.
Facing this shameful injustice, Bishop Thomas Nguyen Van Tan, has just written a letter to the government. Part of the letter read:
“I have been living in Vinh-Long since Sept 1, 1953. At that time, next to the old Cathedral there was a school, a convent and a chapel belonging to the sisters of St Paul Congregation. Now all have been reduced to a vacated piece of land.
I ask the government to reconsider the decision to demolish the convent and the chapel in order to build a public square on the property where the convent used to be. Let it be proven to all that this government is protective of all religions.
I am in total unity with the view of Congregation of St Paul.”
The nuns, being as honest and humble as usual, entered the conference room a believer in goodwill and faith in their own government for doing the right thing, but what happened during that meeting was enough to change their view on the government's credibility drastically when they were informed by Mr. Nguyen Van Dau, Head of the People's Committee about the decision to turn the disputed land lot into a public square, and not back to their possession as they anticipated. Ironically, the nuns back in 1977 did not voluntarily donate their home to the government. They were flushed out of their only home in 1977 without any belongings and left in the cold for uncertainty. Since they had no where to stay, they undoubtedly became homeless. The only "crime" they were alleged to commit was educating the orphan, disadvantaged children, a few with Downs syndrome, whom the government viewed as potential anti-revolutionary forces as Bishop of Vinh Long Thomas Nguyen Van Tan had revealed in his letter to all priests and faithful in Vinh Long diocese on Dec 18, 2008. The raid was carried out based on Decision No 1958/QD -UBT-77 which in many people's view was wrongful, offensive and derogatory to the principle of the St Paul religious order. According to the provincial superior sister Huynh Thi Ngoc - Bich, The government's action was the cause of substantial material, and more importantly, mental damage to the pacific nuns whose only mission was to study and practice what God had asked them to do: serving mankind and loving them unconditionally. By charging the nuns with such offense to justify their needy ego, the government had done to the public a disservice when disrupting the nuns' charitable operation for so long.
But the sisters of St Paul of Chartres are not about to let the government's wicked intention smear their good name, or take away good things they have been dedicated their entire religious lives to bring to people.
In the letter dated Dec 13, 2008 sister Huynh Thi Bich Ngoc on behalf of the defamed nuns has reasserted their position on the disputed land, that it belongs to the Order legally, therefore unless it has been seized as a result of a hostile governmental policy on religious freedom, then a confirmation is needed from Vinh Long provincial government. Otherwise, the property needed to be returned to the nuns without any condition.
She further challenged the legitimacy of Decision No 1958/QD-UBT-77 since the document handed to the Order in 1977 did not bear any signature of the issuer, nor had it appeared authenticated even with the naked eyes since there were 2 distinct fonts in the same document, one was done by a type-writer and the other was computer generated, something was impossible to have around the 1970's in Vietnam.
To the nuns' view, if the government decided to convert their land into a public square, citing to serve common good of the public” then where would build a convent, a kindergarten a nursing home stand in comparison with a square?
They were also clear on the issue of compensation, by saying that if the government would like their land lot, they would have to compensate the nuns with something equivalent in values, according to the state guidelines.
Tình cờ khi ngồi trên xe bus, tôi thấy một tờ giấy được ai đó lót ngồi để lại trên nệm ghế. Mấy từ “Công giáo trong nước” làm tôi tò mò nên đọc qua bài viết “Giáo phận Hưng Hoá: Niềm vui trên núi rừng Tây Bắc” của tác giả Lê Phủ Cam trên tờ Công giáo và Dân tộc số 1689 - tuần từ 2-8/1/2009.
Bài viết đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ trên suốt chặng đường cho cả đến khi về nhà.
Thông tin về vấn đề tôn giáo tại Tây Bắc
Thông tin về tình hình tôn giáo tại Sơn La và các tỉnh Tây Bắc cũng như chính sách của chính quyền những nơi này đã được phản ánh khá nhiều trên mạng lưới toàn cầu.
Noel những năm trước và 2008 có nhiều chuyện lạ lùng đã được phản ánh trên một số bài viết. Ở đó, có lệnh “giới nghiêm” do chủ tịch phường ban bố, chỉ dành cho một tổ dân phố có nhà giáo dân, chỉ dành cho đêm Giáng sinh… Ở đó có “tự do tôn giáo chỉ được tu tại gia”. Ở đó có những vụ bắt bớ linh mục về uỷ ban xã khi đến với giáo dân. Ở đó có nhiều thông tin về những gì mà người giáo dân đã và đang chịu đựng khi chính quyền quyết định “Sơn La không có nhu cầu tôn giáo”.
Sau những bài viết về tình hình tôn giáo Sơn La qua mùa Noel, xuất hiện những bài tiếp theo về vấn đề này.
Đáng chú ý là bản tường trình sinh hoạt mục vụ của Linh mục Nguyễn Trung Thoại ngày 28/12/2008 nhan đề: “Lễ Giáng Sinh 2008 tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Sơn La”.
Trong bài viết, Linh mục Thoại đã nêu lên những hoạt động của ngài tại Sơn La trong lễ Noel vừa qua. Trong đó nổi bật lên một vấn đề: Tôn giáo Tây Bắc đang “đổi mới”? Ngài đã nói lên những buổi lễ, những hoạt động và tiến trình mục vụ tại miền ngài phụ trách, đặc biệt là trong lễ Noel vừa qua.
Bản tường trình của Linh mục Thoại nói rằng: “Riêng tại thành phố Sơn La, giáo dân cho biết tình hình không ổn định, và đã góp ý với tôi là lên làm lễ thì không tiện” (?) Nhưng ngài đã không nói đến sự “không ổn định” đó là gì và sự “không tiện” đó là gì?
Phải chăng, không ổn định vì ở đó không có giáo dân đang ngóng cổ chờ chủ chăn cả mấy ngày trong vòng vây của các cán bộ và “quần chúng tự phát”? Hay không tiện cho bản thân ngài khi đến đó ngài phải đến UBND phường làm biên bản hoặc làm khó dễ?
Bản tường trình của ngài đã không nêu bật lên được một thực tế là ở Sơn La, giáo dân đang bị cấm đoán và ngăn chặn những hoạt động tối thiểu của quyền tự do tín ngưỡng, quyền tối thiểu của một con người.
Bản tường trình của ngài cũng đặt giáo dân và những người đọc trước một nỗi hi vọng mơ hồ “hy vọng sẽ trở nên bình thường như tại các tỉnh khác trong cả nước” với cách lý luận: “Thực tế, không ai lại từ chối đáp ứng nhu cầu dựng vợ gả chồng cho con cái vì lý do “trước đây mày đã không có vợ có chồng, nên bây giờ cũng không”, hoặc vì “hàng xóm láng giềng không muốn cho mày có vợ có chồng”!?
![]() |
| Công an gọi điện thoại cho nhau báo số xe |
Năm 2003, Giáo phận Hưng Hoá có Giám mục An tôn Vũ Huy Chương với tất cả những hi vọng và mong đợi của giáo dân. Trong Thánh lễ Tấn phong Giám mục, ngài thán phục sự chịu đựng của họ trong thời gian qua khi không có giám mục và số linh mục quá ít không thể nâng đỡ tinh thần của họ như họ mong đợi. Ngài hứa sẽ viếng thăm các bản làng và cử hành Thánh lễ Giáng sinh cho họ vào cuối năm.
3 năm sau (2006), Ngài lên đến Tây Bắc lần đầu tiên và “được chính quyền tiếp đón”? Nếu không được chính quyền tiếp đón, các mục tử có đến với đoàn chiên hay không?
Tiếp xúc với một số giáo dân tại Sơn La, chúng tôi thấy thật não nề khi nghe họ nói: “Các Cha lên đây cũng thật khó cho các ngài, bị rình mò, bị xua đuổi khắp nơi, đường sá thì xa xôi hiểm trở. Nhưng có các ngài lên, dù không được dâng lễ, giáo dân vẫn thấy có Chúa ở gần và không bị bỏ rơi”. Thật cảm động cho những ân tình đó của giáo dân với chủ chăn của mình.
Giới nghiêm. Dân phòng canh gác

Đến nay đã hơn 5 năm Sơn La vẫn là “một nhà nước tự trị về tôn giáo”. Vậy giáo dân Sơn La sẽ còn phải chờ đợi đến bao giờ?
Vậy mà chưa có ai được nghe một lời than phiền từ hàng giáo phẩm của Giáo phận? Những tiếng kêu của đàn chiên bơ vơ có lọt đến tai người chăn chiên? Không hiểu sao, những lời lẽ trong bản tường trình kia lại không một dòng nào nói đến những đau khổ của giáo dân đang phải chịu kia, hay cứ tự do như hiện nay là đủ?
Ngẫm đến từ “Xin Vâng” - giáo dân Sơn La đã xin vâng khi những gian khó được trao cho họ, nhưng là những người có trách nhiệm, không thể để họ cứ mãi “xin vâng” trước sự bất công và vô lý đó.
Giáng sinh tưng bừng?
Khi đọc lại bài viết trên tờ Công giáo và Dân tộc về một giáng sinh tưng bừng, là niềm vui trên núi rừng Tây Bắc. Tác giả Lê Phủ Cam đã “quên” không nói đến những gian khó của họ. Đọc bài báo, người ta không khỏi suy nghĩ: Tác giả và tờ báo đăng bài này nhằm mục đích gì? Phải chăng là để tạo nên trong cộng đồng dân chúng suy nghĩ rằng: Ở Tây Bắc đang có một Giáo hội phồn thịnh, tưng bừng và tự do?
Chúng tôi đã có mặt ở miền Tây Bắc những ngày Noel 2008, đã chứng kiến một Noel khác thường, đặc biệt là tại Sơn La. Chúng tôi hiểu những nỗi cực nhọc của người dân theo đạo Công giáo.
Một hành trình qua các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La… chúng tôi không thấy hình bóng một nhà thờ. Tất cả những nơi có người Công giáo, tín hiệu duy nhất cho du khách là các trang trí đón mừng Noel tại các gia đình hoạ hoằn mới có. Thậm chí có những gia đình vào đến nơi hỏi họ có phải là giáo dân hay không, thì họ mắt trước mắt sau lấm lét mãi mới dám xưng mình là người có đạo khi biết chắc chúng tôi là người Công giáo nơi khác đến.
Những gì chúng tôi đã chứng kiến tại Sơn La đêm 24 tháng 12 năm 2008 là sự thật. Điều này đã được chính ông Nguyễn Đình Thuận - Chủ tịch phường và nhân dân phường Quyết Thắng xác nhận qua cuộc phỏng vấn trên báo chí và đài phát thanh nước ngoài. Những văn bản của các cấp chính quyền Sơn La với giáo dân ở đây là có thật, ở đó họ khẳng định “Sơn La không có nhu cầu tôn giáo” – Thực chất là họ đã không nói thật, chẳng mấy ai không có nhu cầu tôn giáo, kể cả họ, nhưng họ chỉ để cho những tôn giáo nào có lợi cho họ được tự do mà thôi.
Một cộng đồng tôn giáo khắp 3 tỉnh Tây Bắc, đến nay vẫn phải dựa vào những tấm lòng hảo tâm của các gia đình mới có nơi dâng Thánh Lễ? Có những nơi Thánh lễ được tiến hành trong phòng khách, trong phòng làm việc, dưới hầm… đó là thực tế của “niềm vui”?
Một cộng đồng tôn giáo trên một diện tích rất rộng lớn của miền Tây Bắc, nhưng một linh mục phải làm công tác mục vụ cách hàng 300 – 400km vẫn được coi là “niềm vui”?
Theo linh mục Phạm Thanh Bình quản xứ Sapa, đến nay có những vùng cách nơi có linh mục đến 400 km như ở Mường Nhé và vùng biên giới Việt - Lào với cộng đồng giáo dân nhiệt thành, nhưng vẫn chưa có linh mục nào có thể đến được với họ vì quá nhiều ngăn trở. Hàng năm đến ngày lễ trọng, họ từng đoàn vài chục người vượt non vượt đèo đến Nhà thờ Sapa để được có hơi thở của Lời Chúa và của Thánh Thể. Đến với Chúa, họ phải vượt qua quãng đường rừng 400km và qua nhiều trạm kiểm soát là điều không dễ dàng, mặt khác cả khu vực đó chỉ có một mình linh mục Bình.
Tôi không hiểu tác giả bài báo có suy nghĩ gì không khi hạ bút nói lên những lời “vui mừng” trên mặt báo khi nói đến những chi tiết này?
Điều đáng chú ý trong bài viết, là không bao giờ Lê Phủ Cam nêu lên được những gian khó của giáo dân. Tác giả không biết rằng ở Mộc Châu, để đến dự Thánh lễ, giáo dân Mộc Châu đã đứng trước hàng loạt sự gườm ghè theo dõi của đủ các loại cảnh sát. Ở Cò Nòi (Mai Sơn) linh mục Thoại đã từng được mời ra UBND Phường năm trước, và năm nay dâng Thánh lễ trong vòng vây dày đặc của các loại cảnh sát, chắc để “chúc mừng Giáng sinh”?
Họ phải ăn chực nằm chờ cả mấy ngày và bị bao vây để cuối cùng về không. Giáo dân người H’Mông vùng Mường La năm ngoái xuống núi cách hơn 40km để tham dự Giáng sinh bị đuổi ngược lên núi trong đêm gió rét cắt thịt nên năm nay khiếp không còn dám xuống núi nữa.
Lê Phủ Cam và tờ Công giáo và dân tộc đã không biết được rằng những Thánh Lễ trên núi rừng Tây Bắc không có một giờ giấc nào nhất định nên nhiều khi giáo dân phải chờ đợi đến mỏi cổ vẫn không thể có linh mục đến, mỗi lần đến dâng lễ xong, linh mục phải chạy như ma đuổi đằng sau. Có những nơi cả mấy chục năm nay, giáo dân không được một Thánh lễ nào.
Nhưng điều Lê Phủ Cam và báo Công giáo và dân tộc biết và nói rất nhiều về “sự quan tâm của chính quyền các cấp” như chúc mừng Noel ở một vài nơi nào đó.
Tưởng rằng không cần nói nhiều, người có tri thức sẽ hiểu được thực tế những gì đã xảy ra qua những thông tin đã được nhiều người phản ánh.
Tờ “Công giáo và Dân tộc”, một tờ báo do chính một linh mục làm Tổng biên tập lại vẽ ra những ảo tưởng ngược lại cho cộng đồng hòng lấp liếm đi những gì thực tế với giáo dân?
Theo chúng tôi được biết, không có bất cứ một phóng viên, một cá nhân nào của tờ Công giáo và dân tộc đã đến Tây Bắc những ngày Noel vừa rồi. Tất cả những điều viết ra trên báo, chỉ là những thông tin nghe hơi nồi chõ qua điện thoại và sự tưởng tưởng phong phú có định hướng của tác giả bài báo mà thôi. Vậy nhưng Lê Phủ Cam vẫn thấy được những “bạn trẻ nhảy múa, bà con say sưa với chén rượu gạo… thịt ngựa vùng cao…” cứ như ông ta đang uống rượu và nhảy múa tại đó?
Có phải tác giả bài báo này đang muốn ẵm giải nhất về chuyện bịa 2009 không?
Thật tội nghiệp cho tác giả Lê Phủ Cam, ông ta ở tận Sài Gòn để viết về “niềm vui” trên miền Tây Bắc với một định hướng rõ rệt nhằm nói lên cái “tự do tôn giáo” trên miền Tây Bắc này?
Qua những chi tiết nêu trên, người ta dễ nhận ra bản chất của tờ báo này là gì? Những điều đã thể hiện nói lên bản chất tay sai và nô lệ của một tờ báo mạo danh Công giáo. Một cách lập lờ đánh lận con đen trên diễn đàn của những người mù thông tin để bôi đỏ, xoá nhoà và tô vẽ những ý muốn áp đặt hòng lấp liếm đi tội ác của những người không có trái tim với cộng đồng tôn giáo Tây Bắc, nhất là ở Sơn La.
Ngày hôm nay, tại Hà Nội khai mạc Hội nghị 9 BCH trung ương đảng CS Việt Nam, ông Nông Đức Mạnh nói: “Nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá đúng tình hình đất nước”. Tôi nghe câu nói này đã nhiều, từ rất lâu, cách đây dễ đã hơn vài chục năm. Nhưng hình như nói chỉ để mà nói, đã có bao giờ người ta dám đối mặt với sự thật với công lý, với những thực tế đang diễn ra. Đó là một vấn nạn của đất nước: Lời nói không đi đôi với việc làm.
Nhưng với một Giáo hội Công giáo Thánh thiện, thông công và hiệp nhất thì đối mặt với sự thật, với những khó khăn là điều hết sức cần thiết. Có như vậy Giáo hội mới nhìn nhận chính mình đang ở đâu và phải làm gì. Những cá nhân trong Giáo Hội cũng không là ngoại lệ. Bởi họ đã được Thánh hoá với vai trò Ngôn sứ của mình.
Có như vậy, Giáo hội mới có thể canh tân và mang trên mình một sinh lực mới, trẻ trung và vững tin theo bước chân Đức Ki tô cứu độ nhân loại.
Hà Nội, Ngày lễ Hiển Linh4/1/2009
Có phải đây là những sự cố ngoài ý muốn hay nó là quả của những cái nhân đã được gieo trước đó? Vì sao hàng loạt sự kiện tồi tệ liên tục xảy ra trong sực bất lực đến sượng sùng của cả dân tộc?!
Liên tục, cú đấm toé lửa từ Nhật Bản với với vụ PCI khiến người ta chưa kịp hoàn hồn, đến vụ trộm tập thể của người Việt với sự tham gia của nhân viên Vietnam Airline. Rút ruột dự án hay trộm cắp siêu thị cũng đều là chôm chỉa.
Chưa hết, ở tận Nam Phi xa xôi, những thành viên ưu tú trong hàng ngủ của đảng còn gây thêm cú shock chấn động bằng vụ buôn sừng tê giác lậu! Cái. ..mặt tiền danh giá nhất của đất nước đã bị bôi bẩn và bị trương cho cả thế giới chiêm ngưỡng. Chắc chắn đó không phải là phi vụ đầu tiên cán bộ sứ quán này thực hiện, nó đã được thực hiện nhiều lần trước đó đến nổi ống kinh truyền hình có thể theo dõi và bắt tận tay.
Khắp nơi trên thế giới, tại những đô thị xa hoa hay cánh rừng thâm u, không ít những công nhân lao động Việt Nam tội nghiệp đang âm thầm chịu đựng sự ngược đãi đến quá sức chịu đựng của kiếp người. Có người đã bỏ mạng nơi xứ người không ai hay, có người tả tơi sống chập chờn nơi đường phố. Người Việt ra nước ngoài với hình ảnh bị đày đọa đến tả tơi là hậu quả của cách làm ăn chụp giật vô trách nhiệm của nhà nước. Không ai có lương tâm lại đưa những người dân quê mùa chất phát và thiếu kiến thức văn hoá đi lưu lạc mưu sinh xứ người, bất chấp hậu quả mà họ phải gánh chịu cũng như hình ảnh Quốc thể bị chà đạp. Những người công nhân không có lỗi, họ đáng được trân trọng và đáng thương. Cái tội thuộc về những kẻ vì lợi nhuận và bệnh thành tích, bất chấp lương tri, dở trò lừa đảo với những người dân quê mùa chất phát. Trách nhiệm của họ là phải trang bị cho những người lao động kiến thức tối thiểu cũng như cảnh báo những nguy cơ xứ người, ngược lại họ cố thêu dệt toàn cảnh màu hồng để lừa gạt những con người chưa từng bước ra khỏi luỹ tre làng. Không nơi đâu trên thế giới này lại làm cái chuyện tìm kiếm và xuất khẩu hàng có chất lượng...thấp!!! Hậu quả thì ai cũng đã và đang thấy, người lao động khốn khổ, Quốc thể đau thương!
Trở về nước, nơi kinh đô ngàn năm văn hiến, Thăng Long xưa và cũng là Hà Nội nay. Nơi liên tục chứng kiến sự xuống cấp và suy đồi về ý thức của dân tộc. Lần này thì thật khó mà gán trách nhiệm cho một cá nhân nào. Lễ hội hoa anh đào Nhật Bản và Lễ hội hoa Hà Nội như hai phép thử cho trung tâm văn hiến của dân tộc. Tả tơi! Hoa lá tả tơi như cái ý thức tả tơi sơ cứng và vô cảm của nhiều người dân! Người Nhật hốt hoảng và nổi giận khi thấy quốc hoa của họ bị tàn phá nơi xứ người, sự tàn phá chẳng phải do thù oán, mà bởi sự đói kém về văn hoá tích tụ lâu ngày. Đến hôm nay, những người Việt có lương tri lại hốt hoảng thật sự với chính dân tộc mình. Lễ hội hoa Hà Nội tiếp tục là nạn nhân, cho dù bài học từ lễ hội Hoa Anh Đào còn nóng hổi! Khó có thể tìm được lý do nào để biện minh cho hành động này! Có lẻ những du khách nước ngoài sẽ rời Việt Nam với hình ảnh quốc thể Việt Nam là những cành hoa tả tơi, tàn héo!
Ngay đêm cuối cùng của năm 2008, một em bé 7 tuổi đã bỏ mạng vì lọt xuống hố ga đang thi công trên bờ kênh Nhiêu Lộc - Sài Gòn. Dĩ nhiên đơn vị thi bị gán trách nhiệm đầu tiên, cho dù trước đó họ đã bảo vệ an toàn khu thi công ra sao. Nhưng ai cũng biết, nhiều lần các thiết bị rào chắn thi công, thâm chí nắp cống của công trường xây dựng công cộng đã bị mất trộm khiến các nhà thầu kêu trời. Đó không lẽ là điều hết sức bình thường mà các nhà thầu Quốc tế phải chịu khi làm việc ở Việt Nam sao?
Nhưng điều làm cho tất cả người Việt Nam cảm thấy hổ thẹn và đau xót là một đất nước ngập chìm trong tham nhũng và những sai trái bất công. Ngoài những kẻ tự ru ngủ hay vì mục đích chính trị xấu xa, có lẻ khó có thể tự hào rằng mình đang sống trong một đất nước hào hùng và đầy vinh dự. Các cuộc xếp hạng cho các chỉ số xấu, chúng ta luôn trong tốp đứng đầu, ngược lại tìm vị trí trong những chỉ tiêu tốt, chúng ta luôn đứng đội sổ! Đó mới là những thứ làm nhục đến Quốc thể nhiều nhất.
Thật nguy hiểm khi càng ngày, những vụ mà "tầm vóc" của nó vượt quá khuôn khổ của một vài cá nhân hay nhóm người đơn lẻ. Nó như những nhát chém chí mạng đến Quốc thể Việt Nam.
Nguyên nhân vì đâu? Không phải tình cờ, đó là thời điểm hội tụ của tất cả những nguyên nhân trước đó. Một đất nước luôn tự hào với bản lĩnh và ở đỉnh cao trí tuệ nhân loại vẫn mãi loay hoay tìm kiếm đường lối giáo dục. Sự dối trá lan tràn, sống cuồng sống vội, sống theo phong trào. Sự sáng tạo bị dập tắc, tư duy bị vậy hãm, làm rập khuôn quen bắt chước người. Cuộc sống khô cứng đến nghẹt thở, văn hoá trở nên là một thứ xa xỉ đáng buồn cười. Xã hội xác lập phương cách sống bon chen thấp hèn, dẫm đạp lên nhau để tiến. Trong tình trạng đó, đầu óc con người trở nên mụ mị và khó kiểm soát được hành vi của mình. Từ đó người ta sẵn sàng chà đạp và bon chen nhau để được hưởng thụ các cơ hội văn hoá. Cái vô văn hoá được sinh ra từ khát khao được chiêm ngưỡng và hưởng thụ văn hoá! Một dân tộc đáng thương!
Với những người Việt Nam chân chính, những vết dao này làm chúng ta cảm thấy tê buốt và đau đớn giữa mùa đông giá lạnh. Một vết thương khó lành trong những ngày lạnh giá này. Nhưng ai cũng hiểu rằng, để chữa chạy cho căn bệnh này, không thể bằng những phong trào nhạt nhẽo hay giải pháp hành chính làn nhàn. Nó cần sự thay đổi mạnh mẽ, sự "thay máu" cho cả một dân tộc.
Ông Dũng yêu cầu các cơ quan chức năng "rà soát lại quy hoạch tổng thể về quản lý, sử dụng đất và chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề liên quan đến tôn giáo", theo tinh thần "bảo đảm hài hòa giữa lợi ích tôn giáo với lợi ích dân tộc".
Ông Dũng yêu cầu việc quản lý, sử dụng nhà, đất liên quan đến tôn giáo phải thực hiện đúng chính sách, pháp luật và tuân theo một số nguyên tắc cơ bản.
Trong chỉ thị viết như sau: “Đối với nhà, đất liên quan đến tôn giáo mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà, đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà, đất đã ban hành trước ngày 1/7/1991 thì thực hiện theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ban hành ngày 26/11/2003 của Quốc hội và các văn bản pháp luật có liên quan”.
"Trường hợp cơ sở tôn giáo đã nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất nhưng có tranh chấp thì phải giải quyết dứt điểm tranh chấp theo quy định của pháp luật trước khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất."
Ông Dũng chỉ đạo rằng những hành vi 'lợi dụng việc giải quyết nhà, đất liên quan đến tôn giáo' để gây rối trật tự xã hội, vi phạm pháp luật phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.
Trong năm 2008, các vụ tranh chấp đất đai liên quan tới cộng đồng Công giáo xẩy ra ở Hà nội tại Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà, và gần đây đất của Nhà Dòng thánh Phaolô ở vĩnh Long cũng như trường của các Nữ tử Bác Ái thánh Vinh Sơn ở Saigòn đã thu hút chú ý của dư luận quốc nội và quốc tế.
Ngay từ thời Áp-ra-ham, nhiều dân tộc đã biết triển khai việc giáo dục. Tại Sumer, quê hương Áp-ra-ham, có những trường đào tạo các viên thư ký làm việc trong các đền thờ, cung điện và sinh hoạt thương mãi. Nền giáo dục này hoàn toàn nhiệm ý. Gia đình các học viên phải trả học phí, nên giáo dục thường là đặc quyền của nhà giầu. Nhưng con số các giảng khóa thì rất rộng. Sinh vật học, địa dư, toán, văn phạm và văn chương đều có đủ.
Những cuộc khai quật từng phát hiện nhiều tấm thẻ cho thấy các bài tập phải chép, trong khi những tấm khác cho thấy phần bài làm của học trò và phần sửa bài của thầy giáo. Trong điện Mari, hai lớp học với ghế dài và bàn học đã được tìm lại. Nhân viên nhà trường thường gồm một giáo sư (được gọi là môn phụ - school father; trong khi học sinh được gọi là môn tử - school sons), một phụ tá có nhiệm vụ chuẩn bị bài tập hằng ngày, nhiều thầy giáo dạy những đề tài chuyên biệt, và các nhân viên khác lo kỷ luật (trong đó có viên chức được gọi là ‘anh cả’ – big brother).
Tại Ai Cập cũng có một hệ thống như thế với những trường học gắn liền với các đền thờ. Sau những lớp khai tâm, học trò được chuyển tới các trường của chính phủ để học làm luận, khoa học cách trí và các nhiệm vụ văn phòng. Có những khóa huấn luyện thảo thư tín và nhiều ‘thư mẫu’ đã được tìm lại. Nếu muốn trở thành giáo sĩ, các học trò sẽ được học thần học và y khoa. Kỷ luật rất nghiêm: không uống rượu, không âm nhạc, không đàn bà.
Những hệ thống như trên chắc chắn ảnh hưởng tới người Ít-ra-en ở một vài thời điểm nào đó trong lịch sử của họ. Áp-ra-ham có thể là người được đi học ít nhiều. Giu-se có thể đã dựa vào các thư ký khi làm thủ tướng cho Pha-ra-ô. Và Mô-sê đã hấp thụ nền giáo dục của Ai Cập, nên quả Chúa đã chọn một người có học để dạy lề luật của Người cho dân Ít-ra-en. Nhưng giáo dục ở Ít-ra-en đã có một chiều hướng hết sức khác biệt.
Ý niệm căn bản tại Ít-ra-en và xuyên suốt bộ Thánh Kinh là mọi kiến thức đều từ Thiên Chúa mà đến. Người là thầy dạy trên hết mọi ông thầy. Mọi khôn ngoan và học vấn đều phải khởi đầu từ việc ‘kính sợ Chúa’. Mục đích của nó là để hiểu biết Đấng Hóa Công và các công trình của Người cách tốt hơn. Bởi thế, học vấn sẽ dẫn con người đến việc tán tụng Thiên Chúa (như trong Thánh Vịnh 8). Chỉ thỏa mãn tính tò mò của con người mà thôi không đủ. Nó cũng cần phải giúp con người biết dùng những tài năng Chúa ban cách trọn vẹn. Bởi thế, cần toán học sơ đẳng để đo đạc đất đai và tính toán mùa màng cũng như xây cất những công trình lớn. Nghiên cứu chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các vì sao giúp tạo ra lịch. Phần lớn những điều này được học qua kinh nghiệm hay học nghề. Đồng thời, việc giáo dục trẻ em giữ một vị thế rất quan trọng. Bổn phận cha mẹ là phải lo cho con được học hành. Nhưng nội dung việc học ấy hầu như hoàn toàn có tính tôn giáo. Chúng phải được dạy về lịch sử Thiên Chúa tương giao với Ít-ra-en. Chúng phải được dạy dỗ về luật Chúa. Người là thánh và Người buộc mọi người phải nên thánh. Nên con trẻ phải học cách ‘tuân giữ các nẻo đường của Chúa’. Người ta phải cho chúng những bài học về xử lý khôn ngoan. Sách Châm Ngôn đầy những câu cách ngôn về chủ đề ‘làm thế nào sống thuận hảo với người ta’ và được viết cho các ‘con trai’ thân yêu. Loại giáo huấn này Ít-ra-en có chung với các dân tộc chung quanh. Xh 20:4; Cn 1:7; 9:10; G 28:28; Đnl 4:9-10; 6:20-21; Xh 13:8-9; 12:26-27; Gs 4:21-22; Lv 19:2; St 18:19; Cn 1:8; 4:1.
Cách Phát Triển Giáo Dục: Giáo dục khởi đầu tại nhà. Áp-ra-ham được chỉ thị phải dạy dỗ các con. Điều quan trọng là chân lý trong mối tương giao của Chúa với dân Người phải được lưu truyền từ cha đến con, từ đời này qua đời nọ. Các bà mẹ cũng phải chia sẻ trong nhiệm vụ này khi con còn nhỏ dại.
Có nhiều ý kiến khác biệt về con số những người biết đọc biết viết trong thời Cựu Ước. Một vài người nghĩ rằng chỉ giai cấp quí tộc mới biết đọc biết viết mà thôi. Nhưng mặt khác, Giô-suê mong người ta phải viết phúc trình về đất Ca-na-an: Ghít-ôn muốn một thanh niên qua đường phải biết đọc; và thời Khít-ki-gia, có lẽ một công nhân đã viết trên tường đường hầm đào để đem nuớc vào Giê-ru-sa-lem (xem Xây Cất). Có đủ các thí dụ khác trong các bản văn cổ bằng tiếng Hi-bá-lai cho thấy kỹ năng đọc và viết khá phổ thông.
Người ta không biết các học đường dành cho trẻ em đã khởi sự từ khi nào. Nhưng chắc một điều là chúng chỉ được nhắc đến sau năm 75 trước CN, khi xứ này chịu ảnh hưởng Hy Lạp và một cố gắng đã được đưa ra để cưỡng bức nền giáo dục sơ đẳng. Tuy nhiên, trước đó rất có thể đã có những trường nhiệm ý rồi. Cậu bé Sa-mu-en được trao cho thầy cả chăm sóc và do đó chắc chắn đã được thầy dạy dỗ. Những chuyện như thế có thể đã thành tập tục. ‘Lịch Ghe-dê’ (Xem Nghề Nông) cũng có thể đã là bằng chứng cho thấy một hình thức giáo dục chính thức hơn. Chắc chắn một điều là các thanh thiếu niên vốn có cơ may trở thành đồ đệ của các tiên tri, và có thể của cả các thầy cả và các thầy Lê-vi nữa. I-sai-a từng dạy riêng cho một nhóm môn sinh và Ê-li-sa từng hết sức quan tâm đến phúc lợi của các môn sinh của mình cũng như của gia đình chúng. Nhưng những hình thức ấy không có nghĩa ‘giáo dục’ như bây giờ hay cả như trong hệ thống của Ai Cập và Ba-by-lon xưa. Vì nó nguyên tuyền chỉ là cái học về tôn giáo để phụng sự Chúa tốt hơn mà thôi.
Sau khi dân đi lưu đầy trở về, một giai cấp học giả Thánh Kinh chuyên biệt xuất hiện, dưới danh xưng ‘ký lục’ (Scribes). Hạn từ này trước đây được sử dụng để chỉ các viên thư ký, nhưng một số các thầy Lê-vi cũng là ký lục, và ngay trước thời lưu đầy, họ vốn được coi là những nhà thông hiểu luật Chúa. Theo truyền thống Do Thái, sau thời lưu đầy, các ký lục này được coi như tương đương với các tiên tri trước đây, và được xưng là ‘những cao nhân của đại hội đường’. Dần dần họ được gọi là ‘các luật sĩ’, ‘tiến sĩ luật’ và ‘thầy dạy’ (rabbis). Si-môn Công chính, Sham-mai, Hi-len và Ga-ma-li-en là những thầy dạy nổi hơn hết thuộc loại này. Họ giảng dạy luật thành văn của Chúa và áp dụng chúng vào cuộc sống thực tiễn lúc đó. Những giáo huấn này lâu ngày được tích góp thành những bộ qui luật lớn. Khởi đầu các qui luật này được dạy khẩu truyền, nhưng cuối cùng, khoảng năm 200 trước CN, đã được viết ra thành bộ Mishnah. Chúng được coi có thẩm quyền giống như bộ Cựu Ước vậy.
Trong những thế kỷ chót trước khi Chúa Ki-tô xuất hiện này, nhóm sau đó có tên là Biệt Phái hình như đã tổ chức ra một hệ thống trường học mới. Trẻ em khởi đầu đi học tại trường của hội đường tức ‘nhà của sách’. Sau đó được chuyển lên các ‘nhà học vấn’. Nhiều nhà loại này đặt dưới quyền điều khiển của những thầy thông luật nổi tiếng. Về phương pháp giáo dục, ta chỉ có thể phỏng đoán. Tiên tri I-sai-a cho ta một chút ánh sáng về phương diện này. Ngài viết rằng nhiều người nghĩ sứ điệp của ngài chỉ dành cho con nít: ‘ông ấy dạy chúng ta từng chữ, từng giòng, từng bài học’. Điều này có thể có nghĩa là dạy từ từ mỗi ngày một chút nhưng cũng có thể có nghĩa là dạy từng vần mẫu tự để học trò lặp đi lặp lại. Phần lớn các điều giảng dạy này được thực hiện bằng cách truyền miệng, và một vài phương cách được nghĩ ra giúp cho việc học thuộc lòng được dễ dàng hơn. Chính Chúa Giê-su đã sử dụng các chữ gây chú ý (catchword), cách lặp đi lặp lại và các dụ ngôn. Tv 78:3-6; Cn 31:1; 1:8; 6:20; Gs 18:4, 8-9; Tl 8:14; Is 8:16; Gr 8:8; Mc 7:6-9; Is 28:10; Cn 1:8; Mc 9:42-50; Mt 6: 2-18.
Giáo Dục Người Lớn: Trong Thánh Kinh, giáo dục không phải chỉ dành cho trẻ em. Áp-ra-ham được lệnh phải dạy bảo mọi người trong nhà. Mô-sê dạy toàn dân Ít-ra-en về luật Chúa, còn các thầy Lê-vi được truyền phải chuyển giao giáo huấn này. Các vị vua sai các thầy Lê-vi đi khắp nơi trong nước để giảng dạy, dù các tiên tri than phiền là công tác này được thực hiện rất tồi, mục đích chỉ là để làm tiền. Tập quán thường xuyên dạy dỗ dân này xem ra chỉ trở nên phổ biến sau thời lưu đầy.
Ét-ra là một thầy cả và là một luật sĩ ‘thông hết luật Chúa’. Ông ‘hiến cuộc đời nghiên cứu luật Chúa… và giảng dạy mọi luật lệ và qui định cho dân Ít-ra-en’. Nơ-khe-mi-a 8 miêu tả ông đứng trên bục gỗ chung quanh là toàn dân tụ lại để nghe ông. St 18:19; Lv 10:11; 2Sb 17:7-9; 35:3; Mk 3:11; Ml 2:7-8; Er 7:6,10.
Giáo Dục Hy Lạp: Đến thời Chúa Giê-su, nền giáo dục của Hy Lạp đã nổi tiếng khắp thế giới. Người ta nghĩ rằng cả thân xác, trí khôn và linh hồn đều cần được phát biểu ra, do đó chương trình học bao gồm thể thao, triết lý, thi ca, kịch nghệ, âm nhạc và hùng biện. Các trẻ nam giữa tuổi từ 7 đến 15 sẽ học tại các trường tiểu học. Sau đó lên trường ‘trung học’ (gymnasium, không có nghĩa chỉ tập thể dục). Công chúng được hoan nghênh tham dự các buổi tranh luận của học sinh. Đến thời Chúa Giê-su, tiêu chuẩn tại các Trung Học này đã xuống dốc, tuy nhiên các trường này vẫn tiêu biểu cho những gì đẹp nhất của văn hóa Hy Lạp. Chúng được thiết lập bất cứ chỗ nào có người Hy Lạp sinh sống và một trường như thế đã được lập tại Giê-ru-sa-lem năm 167 trước CN.
Phần lớn người Do Thái không chấp thuận quan điểm giáo dục của Hy Lạp.Các trung học cũng bị lên án vì các thể tháo gia Hy Lạp trần truồng thực tập và thi thố tài nghệ. Tuy nhiên, các ngoại kiều được chào đón và vì quê hương Tác-xô của thánh Phao-lô rất nổi tiếng về trường trung học của mình, nên người ta thắc mắc không hiểu thánh nhân có bao giờ đặt chân tới đó hay không. Chắc một điều ngài có nhắc đến các cuộc thi đấu Hy Lạp và trong các thư của ngài, ta thấy ngài rất thông hiểu nền văn hóa Hy Lạp. 1Cr9: 24-27.
Đặc Ngữ Công Giáo: Linh tông và các tục lệ gia đình linh tông.
Linh tông: từ Hán Việt. Linh 灵: thiêng liêng. Tông 宗: tổ tiên, dòng họ như Đại Tông là dòng trưởng, Tiểu Tông dòng thứ, Đồng Tông: người cùng họ. Linh Tông: họ hàng dựa trên mối liên hệ thiêng liêng. Những người nhận cùng một linh mục đỡ đầu tự coi mình như có họ hàng với nhau theo liên hệ linh tông.
Linh Tông cũng như từ Linh Thao hay Linh Đạo là những đặc ngữ Công Giáo Việt Nam mới xuất hiện gần đây. Từ Linh Thao dịch từ tiếng Anh Spiritual Exercise. Từ Linh Đạo từ tiếng Spirituality. Riêng từ Linh Tông chưa được một từ điển nào liệt kê và giải thích đến. Linh tông là một tổ chức đã có từ rất lâu. Tuy không là một tổ chức chính thức của Giáo Hội, nhưng tập tục này được xã hội và Giáo Hội Việt Nam mặc nhiên thừa nhận.
Tổ Chức Gia Đình Linh Tông: Trong xã hội khi người con trai đi lập gia đình thì ngay lúc đó một chi tộc mới được thành hình để nối dõi tông đường. Đối với Giáo Hội Công Giáo, khi một linh mục triều nhận bảo trợ ơn thiên triệu cho một người, thì gia đình linh tông bắt đầu thành hình để nối dõi sứ vự linh mục. Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gia đình linh tông xuất hiện tại Việt Nam từ bao giờ và người ta chỉ biết rằng trước những năm 1950, tại nhiều giáo phận, nhất là ở miền Bắc, gia đình linh tông hoạt động mạnh, góp phần tích cực vào việc đào tạo ơn kêu gọi linh mục, thầy giảng, nam nữ tu sĩ. Ngày nay, thể chế linh tông đang phai nhạt dần và có nguy cơ biến mất theo sự thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội, đưa đến hậu quả là thiếu linh mục tu sĩ trong tương lai. Do nguyên nhân này, chúng tôi thấy cần viết lại tập tục gia đình linh tông để thấy những ưu điểm của tổ chức này trong việc cổ vũ, duy trì và phát triển ơn kêu gọi tu trì.
Theo truyền thống, khởi đầu của một gia đình linh tông là khi vị linh mục triều bắt đầu tuyển chọn các em trai, tuổi từ 8 đến 10, thường là người ở trong xứ đạo, muốn đi tu mà đặc ngữ gọi là muốn “đi ở nhà thầy”. Lúc này cha xứ hay cha phó trở thành cha Bố, cha Nghĩa Phụ của một gia đình linh tông. Ban đầu các thiếu niên được đưa vào nhà xứ sinh sống, được tập cho giúp lễ, được dậy bảo để làm quen với nếp sống tu trì, được các thầy khai tâm cho bằng các bài học về chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ. Lúc này giáo dân trong xứ gọi các em là các “cậu”, một đặc ngữ xưng hô dành cho con các quan hay các gia đình giầu có. Ngày xưa, khi giấy tờ hộ tịch chưa triệt để áp dụng, cha mẹ có thể thay đổi tên con cái. Gia đình linh tông cũng vậy, để biểu lộ sự liên hệ “họ hàng”, cha bố có thể đổi tên con để người ngoài nhận biết các người đó cùng thuộc gia đình linh tông. Ví dụ cha bố tên Huy thì đổi tên các con là Hưởng, Hạnh, Hùng v.v…và các tên này trở thành tên chính thức của một người.
Về vấn đề chi phí ăn ở và giáo dục, “Nhà Quê”, tức gia đình của cha mẹ đẻ, chỉ phụ giúp phần nào, còn đa số chi phí khác đều do cha bố bao bọc vì cha xứ có quyền sử dụng nguồn lợi của giáo xứ để nuôi dưỡng các người đi tu hay làm việc trong nhà xứ.
Sau một hai năm sống trong nhà xứ, thấy cậu nào thích hợp đời sống tu trì, có khả năng học hành giỏi, cha bố gửi đi học ở Trường Thử. Tai đây cậu được thử thách trong một hai năm và nếu bề trên thấy cậu có khả năng học hành khá, tính tình tốt, cậu được chuyển lên trường La Tinh mà sau này gọi là Tiểu Chủng Viện. Tại đây, cậu được học tiếng Latin, và bắt đầu người ta gọi bằng “Chú” thay vì “Cậu”. Học hết trường La Tinh trong vòng 5 đến 7 năm, nếu không “bị loại”, một đặc ngữ công giáo, chú được chuyển lên “Trường Lý Đoán”, một danh từ nhà đạo mà sau này gọi Đại Chủng Viện. Tại đây, người ta không gọi bằng “Chú” nữa mà bằng“Thầy” “Thầy Già”, Ông Già” và sau này gọi là thầy Đại Chủng Viện hay Đại Chủng Sinh. Tất cả đều có nghĩa là một người đang học tại Đại Chủng Viện. Trường Thử, Trường La Tinh, Trường Lý Đoán, chỉ liên lạc và báo cáo thành quả học hành, tu đức của tu sinh với cha bố. Còn Nhà Quê không được nhà trường báo cáo gì.
Suốt thời gian học hành trong mười mấy năm cho đến khi chịu chức Linh Mục, cha bố cấp dưỡng quần áo, sách vở, ít tiền tiêu vặt cho các con. Nhà quê cũng cấp thêm. Do vậy, ai có bố giầu, có nhà quê khá giả, đời sống chủng sinh được thoải mái hơn.
Trong tháng hè, các chú, các thầy chỉ được về thăm nhà quê trong thời gian ngắn, còn phải ở trong nhà xứ với cha bố, phụ trách các việc như dậy giáo lý, tập hát cho thiếu nhi. Sau kỳ hè, các chú trở về trường cầm theo lá thư của cha bố bao cáo các sinh hoạt của con cho bề trên nơi trường con theo học. Nếu cậu nào, chú nào không làm Linh Mục được có thể gia nhập trường Kẻ Giảng để rồi sau vài năm huấn luyện, được Đức Giám Mục bổ nhiệm đi giúp việc trong các giáo xứ. Còn những cậu không tu được mà đặc ngữ Công Giáo gọi là “tu xuất” hay “bị loại” thì trở về đời, lập gia đình nhưng vẫn duy trì mối liên hệ linh tông, nhưng ở mức độ nhạt nhẽo hơn.
Cha bố cũng có thể nuôi con gái để những người này trở thành nữ tu. Các em gái không theo quy chế như các con trai, không ở chung trong nhà xứ mà được gửi ngay đi nhà tập. Cha bố cũng trợ giúp con gái và các tháng hè, các cô nữ tu về nhà bố mẹ và thỉnh thoảng đến thăm cha bố. Các con cũng được phân biệt theo thứ tự trưởng thứ như gia đình bên ngoài. Danh từ Bác Cả là để chỉ người con trưởng gia đình linh tông. Từ Quan Bác để chỉ các người anh, và từ Quan Chú để chỉ các người em. Sống tết, chết giỗ. Ngày tết hay lễ bổn mạng của cha bố, các con đã là linh mục cũng về mừng lễ bổn mạng hay chúc tuổi và tết bố. Các người em cũng giữ lễ biếu tết anh. Khi cha bố qua đời, các con về thọ tang và tang lễ tổ chức thế nào đều do người con trưởng quyết định. Khi bố qua đời mà có con chưa làm linh mục, theo tục lệ gia đình linh tông, người con đó có thể được bố nối lại cho người anh cùng cha, hay nối làm con nuôi của vị linh mục khác. Những người anh cũng có nhiệm vụ tương trợ các em, nhất là em còn đang học trong chủng viện.
Cha bố nào “mát tay’ nuôi được nhiều con, trai thì đỗ cụ hay làm thầy giảng, gái thì thành nữ tu, và vẻ vang hơn nữa, nếu các con là những người học hành giỏi giang có vai vế trong giáo phận. Đoàn con trên sẽ “nối dõi” tông đường trong sứ vụ linh mục, thầy giảng, nữ tu. Gia đình linh tông thường chỉ gồm những người ở trong ba thế hệ là ông, cha, và con, rất hoạ hiếm được có những người trong bốn thế hệ mà gia đình huyết tộc gọi là Tứ Đại Đồng Đường. Linh tông cũng làm gia phả giống như gia đình huyết tộc.
Theo tập tục, chỉ các linh mục triều, không phải linh mục dòng, nhận con nuôi. Các thầy giảng, các nữ tu, các linh mục dòng không được nhận con nuôi, có lẽ vì các nữ tu, các thầy giảng không được phép dùng nguồn lợi của giáo xứ để nuôi dưỡng con cái trong gia đình linh tông.
Tinh thần gia tộc là nét văn hóa nền tảng của con người Việt Nam. Do vậy, khi một người rời bỏ gia đình đi tu, không có nghĩa là họ bị bật gốc khỏi nền tảng văn hóa gia đình huyết tộc, mà thay vào đó, họ được tháp nhập vào một cơ cấu mới là gia đình linh tông, có chức năng và lý tưởng giống như gia đình huyết tộc. Trong khi đó, đối với Nhà Quê, người đi tu vẫn giữ mối liên hệ tình cảm thắm thiết với cha mẹ, anh chị em ruột thịt, cũng có những nghĩa vụ “sống tết, chết giỗ”. Như vậy, với người đi tu, nét văn hóa gia đình không những không suy giảm, mà còn triển nở thêm ở bình diện gia đình linh tông.
Giáo Hội Việt Nam đã du nhập văn hóa gia đình vào sinh hoạt của Giáo Hội thể hiện qua tổ chức gia đình linh tông, cùng sống trong “nhà Đức Chúa Trời”. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử giáo hội kết luận rằng nơi nào “nhà Đức Chúa Trời” và thể chế gia đình linh tông phát triển mạnh, nơi đó con số linh mục tu sĩ, nữ tu đông hơn nơi khác vì đó là môi trường thích hợp cho việc nâng đỡ ơn kêu gọi. Thiết tưởng, trong tình hình kinh tế, chính trị tại Việt Nam hiện nay, một câu hỏi cần đặt ra là ta có nên chính thức thừa nhận và tái phục hồi tổ chức gia đình linh tông để tăng thêm số linh mục và nam nữ tu sĩ ?
GIẶT ÁO SAU NHÀ
Ảnh của Sen K.- Philippines
“Đói cho sạch rách cho thơm.” ( Ca dao)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền



