TRỜI MỞ RA
Chúa Nhật Chúa Giêsu chịu phép rửa, năm C: Lc 3,15-16.21-22
Suy niệm
Khi thấy Gioan làm phép rửa sám hối thì dân chúng thắc mắc và tự hỏi: Biết đâu ông này chẳng phải là Ðấng Mêsia mà toàn dân đang mong đợi? Gioan liền cho họ biết, ông chỉ là người làm phép rửa trong nước, còn Đấng quyền thế đến sau ông sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Lời giới thiệu của Gioan cho thấy thời đại cũ sắp qua đi, và thời đại mới đang tới, là thời đại của tình yêu và ân sủng.
Đức Giêsu đã đến và đã khai mạc sứ mạng rao giảng Tin Mừng trong sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đáng lẽ đây là một biến cố trọng đại, gây choáng ngợp thiên hạ bằng quyền năng và oai phong của một Đấng Cứu Thế. Nhưng sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa cho ta thấy một điều lạ thường và trái ngược: Ngài là Đấng phải đến làm phép rửa mà lại xin chịu phép rửa; Ngài là Đấng ban ơn sám hối mà lại tỏ lòng sám hối; là Đấng thánh của Thiên Chúa mà lại đứng chung với hàng tội nhân; là Đấng thanh sạch vô ngần mà lại chịu dìm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng chính trong sự tự hạ này, mà ta thấy Con Thiên Chúa đã xuống tận vũng bùn lầy của tội lỗi để cứu vớt nhân loại, đưa con người trở lại vườn địa đàng.
Ý thức mình là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, nên Đức Giêsu đã thể hiện trước tiên bằng thái độ liên đới với dân tộc mình: liên đới trong thân phận, trong tội lệ, trong sám hối và chờ mong ơn cứu độ. Tuy nhiên, quang cảnh Đức Giêsu chịu phép rửa cũng đã hé lộ một mầu nhiệm cao cả: Trước tiên là trời mở ra, vì từ khi Ađam- Eva phạm tội thì cửa thiên đàng đóng lại (St 3,23-24). Từ nay, nhờ Đức Giêsu, con người lại được sống thông hiệp với Thiên Chúa. Tiếp theo là Thánh Thần ngự xuống trên Ngài, cho thấy Đức Giêsu là con người mới, trong Ngài, nhân loại sẽ được tái tạo, được đổi mới. (Gl 6, 15). Lại có tiếng phán từ trời: “Con là Con của Cha…”. Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Những ai tin và nhận phép rửa nhân danh Ngài thì được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Phép Rửa hôm nay chỉ là khúc đạo đầu của bản trường ca “Yêu thương”. Để rồi vì yêu thương, mà Ngài sẽ bị người đời liệt vào "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế và phường tội lỗi" (Lc 7,34); bị người nhà coi là "kẻ mất trí"; bị xua đuổi ra khỏi thành; bị lên án như một tội nhân, và cuối cùng bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa": "Thầy còn một phép rửa phải chịu, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất." (Lc 12,50). Thật ra, chẳng ai muốn đau khổ nếu được chọn cách khác. Đức Giêsu cũng vậy, Ngài xin Cha cất chén đắng đau thương, nhưng Ngài muốn chọn theo ý Cha để mở ra cho nhân loại một sự sống mới. Đau khổ sẽ là một phép mầu, khi nó là một phương tiện để biểu hiện tình yêu, minh chứng tình yêu, xóa tan những chia rẽ bất hòa. Chỉ có tình yêu mới làm cho con người trở nên vĩ đại, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Đức Giêsu đã dùng thập giá để cứu chuộc nhân loại. Không phải thập giá cứu chuộc mà Tình Yêu cứu chuộc.
Chúng ta cũng đã lãnh nhận phép Rửa nhờ phép rửa của Đức Giêsu trên thập giá. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi để mang tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những người cùng khổ, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã. Cha Zundel cũng đã nói lên rằng: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn rằng, họ chẳng gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa nơi chúng ta". Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta cần có thái độ khiêm hạ và hòa mình vào đám đông dân chúng, để chia sẻ, nâng đỡ, đem lại an vui và hy vọng cho bao mảnh đời bất hạnh. Phép Rửa đầu đời của chúng ta chỉ được được hoàn thành trong phép Rửa cuối đời nơi thập giá Chúa Giêsu, Đấng mời gọi chúng ta dám hiến mạng vì yêu như Ngài, để vinh danh Thiên Chúa và ích lợi phần rỗi cho tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Phúc Âm ghi lại một biến cố lạ lùng,
một buổi sáng trên dòng sông Gio-đan,
trời mây thật lặng lẽ nắng nhẹ nhàng,
giữa đám đông nghe Gio-an rao giảng,
ai ngờ Chúa cũng có mặt xếp hàng,
chờ đợi tới phiên mình chịu phép rửa.
Như dân chúng, Chúa tỏ lòng sám hối,
chẳng khác nào như những người tội lỗi,
Ngài hạ mình làm con không hiểu nổi,
cũng chỉ vì gánh tội thế nhân thôi.
Thế rồi dấu lạ là cửa trời rộng mở,
Thần Khí tựa chim câu xuống trên Ngài,
tiếng Chúa Cha tuyên phán con chí ái,
cuộc tỏ mình Ba Ngôi cho nhân loại.
Lạy Cha là Thiên Chúa Đấng khôn cùng,
Đấng có mặt trong mọi nơi mọi lúc,
cuộc đời con quả thật là diễm phúc,
được làm con cái Cha qua phép Rửa,
đón nhận nguồn sống quá thâm sâu,
là chính Chúa Ba Ngôi rất nhiệm mầu.
Xin cho con mãi được làm con yêu dấu,
như chính Chúa Giê-su là gương mẫu,
dám hy sinh chấp nhận mọi thương đau,
để làm cho cuộc sống được tươi mầu,
cho Danh Cha lan rộng khắp hoàn cầu,
cho Nước Cha muôn đời sau hiển trị.
Lạy Cha là Thiên Chúa rất từ bi,
cho chúng con từ đây chẳng ngại gì,
dám ra khỏi thành trì của bản thân,
biết cho đi những gì mình lãnh nhận. Amen.
(Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa)
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều kết thúc thuật trình Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan bằng lời tuyên phán của Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con” hoặc “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (x.Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 3,22).
Dĩ nhiên Chúa Cha hài lòng là về chuyện Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng đoàn người tội lỗi đang đến để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa. Thế nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa dù đã mặc lấy xác phàm nhân loại như chúng ta mọi đàng nhưng chẳng hề vương bẩn tội nhơ (x.Dt 4,15). Là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người hoàn toàn thanh sạch thế mà Người xếp hàng giữa đám người tội lỗi để làm gì? Chắc chắn không phải là để nhờ Gioan làm phép thanh tẩy hầu được nên thanh sạch. Cũng chắc chắn rằng không phải Người cố tình làm gương cho chúng ta về việc hoán cải ăn năn như đã có nhiều nhà tu đức từng suy diễn. Không ai có thể làm gương một việc mà chính mình không thực làm. Như thế chìa khoá vấn đề phải nằm ở chỗ khác.
Mang lấy xác phàm, trở nên giống loài người chúng ta mọi đàng, Chúa Giêsu vẫn phải cần có thời gian để hiểu biết ý Chúa Cha cũng như tự nhận thức về căn tính của mình. Hài nhi Giêsu khi còn nằm trong nôi thì chưa thể nhận thức được căn tính Thiên Chúa của mình. Và năm lên mười hai tuổi, khi lưu lại Đền thờ Giêrusalem ba ngày nhân chuyến cùng cha mẹ hành hương, thì thiếu niên Giêsu đã ý thức về căn tính Thiên Chúa của mình qua câu trả lời: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49). Biết mình là Thiên Chúa, thế nhưng để biết sứ vụ của mình là cứu độ nhân loại và cứu độ nhân loại như thế nào thì Chúa Giêsu cũng cần phải có thời gian cần thiết để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha.
Nhiều nhà Kitô học nhìn nhận rằng khi Chúa Giêsu đến chịu phép rửa tại bờ sông Giođan chính là lúc Người tìm ra con đường cứu độ. Nói đến ơn cứu độ, các nhà thần học lẫn tu đức thường dùng hình ảnh cứu vớt người đang chìm dưới sông nước. Không biết bơi mà rơi xuống hố nước sâu thì sự sống như không còn thuộc vào chính bản thân mình. Cần phải có một ai đó cứu vớt, may ra mới được sống.
Để cứu độ nhân loại khỏi vũng lầy tội lỗi, Chúa Kitô không đứng bên trên mà kéo. Người đã tự nguyện đi xuống tận đáy sâu kiếp người khi vào trần gian. Đồng thân với con người trong kiếp phàm hèn chưa đủ, Chúa Kitô còn muốn chung phận với loài người trong kiếp tội nhân, dù Người hoàn toàn vô tội. Tình yêu lên đến đỉnh cao khi người ta tự nguyện chung thân, đồng phận với nhau. Chung thân, đồng phận với nhau là một trong những hình thức liên đới đến cùng. Là con chiên tinh tuyền, là người tôi tớ trung thành và nhân hậu, Chúa Kitô đã nhận lấy mọi hậu quả tội lỗi của loài người vào chính bản thân Người. Điều đã được Ngôn sứ Isaia loan báo xưa về “Người Tôi Trung” nay ứng nghiệm nơi chính Chúa Kitô (x.Is 42,1-9; 49,1-7; 50,4-11).
Chọn con đường đi xuống để nâng loài người sa ngã lên, sự chọn lựa của Chúa Giêsu đã làm hài lòng Chúa Cha. Đây là một sự chọn lựa phát xuất bởi tình yêu sung mãn. Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu ngự xuống trên Người là một dấu chỉ. Và các tầng trời mở ra, nghĩa là con đường cứu độ nay đã khai mở cho con người. Việc Chúa Giêsu chọn con đường đi xuống giúp chúng ta xác tín những chân lý sau:
1.Không một ai là không có thể được cứu rỗi: Các cứu hộ viên đã lặn sâu xuống đáy sông thì mọi người đều có thể được cứu sống. Chúa Giêsu đã cúi xuống dưới chân các tông đồ, Người đã cúi xuống dưới chân Giuđa, kẻ đã rắp tâm phản bội Người và Người sẵn sàng cúi xuống dưới chân hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chỉ cần chúng ta đồng thuận thì Người sẽ nâng chúng ta lên cùng Chúa Cha.
Mọi người đều có thể được cứu rỗi. Một chân lý của niềm tin và của niềm hy vọng. Bất cứ ai, dù trong hoàn cảnh tồi tệ nào đi nữa, thì vẫn luôn có Giêsu Kitô đứng dưới chân để sẵn sàng nâng lên. Chính vì thế mà thất vọng về chính mình là một sự tồi tệ thật đáng trách không kém gì khi ta thất vọng về tha nhân.
2.Trước tiên hãy trách mình, đừng trách tha nhân hay phàn nàn Chúa, nếu giả như chúng ta vẫn mãi mê trong tội. Một trong những thói xấu của người đắm chìm trong tội đó là tìm đủ lý do để bào chữa. Để làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình, khi phạm tội, chúng ta thường hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho tha nhân, cho ma quỷ và có khi cho cả Thiên Chúa. Phải tiên thiên loại trừ việc gán cho Thiên Chúa là tác nhân gây sự xấu vì Thiên Chúa không hề, đúng hơn là không thể cám dỗ một ai. Cần chân nhận rằng thần dữ, người xấu hay ngoại cảnh cũng có góp phần nào đó trong tội của chúng ta. Tuy nhiên, các tác nhân ấy chỉ có thể làm tăng giảm mức độ trách nhiệm của chúng ta trên tội của mình. Nhưng không ai khác, chính chúng ta phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm mọi hành vi tội lỗi của mình.
Mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, hãy cùng cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa vì đã yêu thương loài người đến cùng. Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện đồng hàng với chúng ta trong kiếp tội nhân: cúi mình để cho Gioan làm phép rửa là điểm khởi đầu và điểm kết thúc là thân phận một tội nhân trên thập giá (x.Rm 8,39).
Ban Mê Thuột
19. Người có đức hạnh dễ dàng khiêm tốn, biết cẩn thận khích lệ và biết trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng người thiếu đức hạnh thì dễ dàng kiêu ngạo, uể oải, dễ dàng trông cậy vào sức mình.
(Thánh Bonavetura)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Có một người cho rằng vợ của mình rất đẹp, nhưng không khen trực tiếp, mà lại nói:
- “Tiểu thiếp của tôi nói được là tuyệt đại mỹ nhân trên thế gian, nếu có cô gái nào đứng bên cạnh vợ tôi, thì có thể nói là tôi không nhận ra ai là vợ tôi và ai là thiếp của tôi !”
(Tuyết Đào Hài Sử)
Suy tư 35:
Tâng bốc người khác thái quá thì làm cho họ gượng, nói về mình nhiều quá thì làm cho người khác khó chịu, bởi vì tài năng của con người ta đều có hạn và cái xấu thì không giới hạn, cho nên đem tất cả lòng thành thật khen tài năng của người khác một câu, thì phúc lành hơn nói một trăm lời khen rỗng tuếch.
Mọi người Ki-tô hữu đều biết rằng, lấy lòng thành thật đối xử với nhau và dùng thái độ khiêm tốn để giúp nhau, thì làm cho khuôn mặt của Đức Chúa Giê-su càng rõ nét hơn nơi mình, và người ta sẽ dễ dàng nhận ra Ngài đang hiện diện nơi chúng ta, hơn là khách sáo với nhau mà làm cho khuôn mặt của Ngài bị méo mó trong hành vi và lời nói của mình...
Làm chồng mà không nhận ra ai là vợ lớn ai là vợ nhỏ -dù họ có đẹp như tiên- thì đúng là sư tổ nói phét, tâng bốc không có cơ sở.
Tôi sẽ không tâng bốc người khác vì cái tài của họ, nhưng tôi thành thật khích lệ vì những việc tốt họ đã làm, để họ có cơ hội phát triển tài năng mình, bởi vì tôi là người Ki-tô hữu, và hơn thế nữa, vì tôi là linh mục, là tu sĩ của Đức Chúa Ki-tô.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca
Khi ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người toàn thân mắc bệnh phong vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy
được sạch.” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh. Rồi Người ra lệnh cho anh không được nói với ai, và Người bảo: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”
Tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; dân chúng lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh. Nhưng Người lui vào những nơi hoang vắng mà cầu nguyện.
Đó là lời Chúa
“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch!”.
“Ở Nga, Kitô hữu bị thử thách bởi gian khổ; ở Mỹ, họ bị thử thách bởi tự do. Bởi ‘tự do’ khó hơn nhiều! Không ai áp lực trên niềm tin của bạn. Vì vậy, bạn thoải mái, không quá tập trung vào Chúa Kitô, vào sự dạy dỗ của Ngài, vào cách Ngài muốn bạn sống! Vấn đề ở chỗ, không phải những gì bạn muốn, nhưng Chúa muốn!” - Pavel Poloz.
Kính thưa Anh Chị em,
Một lần nữa, chúng ta khám phá lòng thành sâu sắc của người phong cùi qua chi tiết “Chúa muốn” trong Tin Mừng hôm nay; một chi tiết mà cả ba thánh sử nhất lãm nhất mực không bỏ qua, “Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch!”.
“Nếu Ngài muốn!”. Điều này đánh dấu một thiên hướng thánh thiện trong tâm hồn con người này. Thiên hướng đó là anh muốn chính Chúa Giêsu, còn hơn muốn được Ngài chữa khỏi. Với anh, Chúa Giêsu và ý muốn của Ngài thì lớn hơn tất cả! ‘Chúa muốn’, không phải anh muốn! Qua đó, anh bộc lộ sự nhẫn nại của một con người sẵn sàng đón nhận thập giá trong kế hoạch Thiên Chúa dành cho anh. Bởi lẽ, tự co rút lại, không chấp nhận khiếm khuyết của mình - tự thân - đã là một trở ngại để được chữa khỏi chúng! Anh xác tín, ‘Chúa muốn’ thì Chúa làm; bằng không, thì đó vẫn là điều tốt nhất mà Ngài muốn cho vinh quang Ngài nơi thân xác cùi hủi của anh.
Một số người sẽ mất kiên nhẫn trong cuộc chiến này! Họ muốn lành lặn tức khắc hơn là muốn chính Đấng chữa lành. Phương cách chữa trị như thế có thể tốt cho phần xác nhưng lại làm nghèo phần hồn nếu không nói là ‘sinh bệnh’; và điều này không bao giờ hấp dẫn đối với Thiên Chúa! Sự cởi mở đối với thời gian của Ngài, không bất an với những câu hỏi tại sao, tại sao… để phó mặc trong tay Chúa cho phép bệnh tật chữa trị linh hồn trước khi nó được cất khỏi sự èo uột của thân xác.
Đến lượt Chúa Giêsu, Ngài nói, “Tôi muốn!”. Hình dạng xấu xí của bệnh cùi là biểu tượng cho linh hồn một tội nhân! Sự chịu đựng tác động khốn khổ và biến dạng do tội giục giã con người lần theo con đường hoán cải. Với ai vẫn cảm thấy nhức nhối về một tội lỗi trong quá khứ, sẽ có một điều gì đó cản trở khi họ không tin tưởng đủ vào một cuộc sống mới. Và thật khó để tin rằng, Chúa muốn gần họ hơn chính họ muốn đến gần Ngài; đúng hơn, Ngài khao khát họ! Và đây, sự can thiệp của Thiên Chúa thì luôn dứt khoát, vĩnh viễn, tuyệt đối! Chúa Giêsu di chuyển bàn tay của Ngài chạm vào người cùi, “Tôi muốn, anh hãy được sạch!”; từ xác đến hồn!
Anh Chị em,
“Nếu Ngài muốn!”. Bởi tội nguyên tổ, chúng ta chịu sự ‘ham muốn’ phạm tội. Phạm tội nhẹ, chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng “chuyện nhỏ” hoặc “không phải là tội trọng”. Tuy nhiên, tội nhẹ cũng làm biến dạng hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta. Nó “cản trở sự tiến triển của linh hồn trong việc thực hành các nhân đức và điều thiện luân lý... và dần dần, chúng ta phạm tội trọng”. Hãy đến với Chúa Giêsu trong Bí tích Hoà Giải, nơi Ngài chạm đến, chữa lành và giao hoà chúng ta với Chúa, với Giáo Hội! “Chúng ta thường che đậy tội bằng sự giả hình của một “lối sống tốt”. Chính lúc đó, chúng ta cần ở một mình, quỳ gối trước Chúa và cầu nguyện, “Lạy Chúa, nếu ‘Chúa muốn’, Chúa có thể làm cho con được sạch!”. Hãy làm điều đó, hãy làm trước khi đi ngủ, mỗi tối!” - Phanxicô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con sợ bất cứ một điều gì ngoài tội lỗi - điều làm con xa Chúa!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Stacked Decks, ‘Conversation in the Spirit,’ and the Catholic Future”, nghĩa là “Những dàn xếp, ‘Đối thoại trong Thánh Linh’ và Tương Lai của Công Giáo.”
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Điều này đưa chúng ta đến hội nghị về “Tương lai của Thần học”, được tài trợ bởi Bộ Văn hóa và Giáo dục của Vatican và được tổ chức tại Đại học Giáo hoàng Latêranô trong hai ngày 9 và 10 tháng 12 vừa qua.
Trong số các diễn giả chính của hội nghị có Cha James Keenan, dòng Tên, của Boston College, và Tiến sĩ Nancy Pineda-Madrid của Đại học Loyola Marymount ở Los Angeles, gọi tắt là LMU.
Cha Keenan được công chúng chú ý vào năm 2003 khi, trong lời khai trước Ủy ban Tư pháp của cơ quan lập pháp tiểu bang Massachusetts, ngài phản đối một dự luật định nghĩa hôn nhân là sự kết hợp giữa một người đàn ông và một người phụ nữ. Theo ngài, định nghĩa hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ là “trái với giáo lý Công Giáo về công lý xã hội” vì luật như vậy sẽ cấu thành “sự phân biệt đối xử quyết liệt và bất công đối với các quyền xã hội cơ bản của người đồng tính nam và đồng tính nữ”. Tại hội nghị Latêranô vào tháng 12 năm ngoái, Cha Keenan được cho là đã dành một phần đáng kể thời gian được phân bổ để chỉ trích Ông Donald Trump, người mà mối quan hệ của ông ấy với “tương lai của thần học” vẫn chưa rõ ràng ngay lập tức.
Trang dành cho khoa của Tiến sĩ Pineda-Madrid trên trang web của LMU mô tả bà là “một nhà thần học theo chủ nghĩa nữ quyền nghiên cứu về trải nghiệm đức tin của người Latina/x” và là tác giả của một cuốn sách “tranh luận về một cách giải thích thần học mới mẻ về ơn Cứu Độ, trong đó cuộc sống của phụ nữ được coi trọng”. Vào tháng 6 năm 2024, bà được bầu làm chủ tịch của Hiệp hội Thần học Công Giáo Hoa Kỳ, gọi tắt là CTSA. Nhưng liệu các nhà thần học CTSA có đại diện cho “tương lai của thần học” không?
Bằng chứng cho điều đó không nhiều tại chính trường đại học của Tiến sĩ Pineda-Madrid. Trong khi Loyola Marymount hiện có 7.094 sinh viên đại học, trang web “Nghiên cứu thể chế và hỗ trợ quyết định” của LMU báo cáo rằng trường đại học đã cấp được duy nhất một bằng cử nhân thần học trong năm học 2023–2024. Sự thiếu quan tâm rõ rệt của sinh viên có thể được giải thích một phần bởi đồng nghiệp khoa thần học LMU của Tiến sĩ Pineda-Madrid, là Tiến sĩ Layla Karst, người tổ chức một hội thảo có tên “Những người Công Giáo xấu”. Ở đó, sinh viên học hỏi từ “tiếng nói” của “các nhà thần học theo chủ nghĩa nữ quyền, các nhà thần học theo chủ nghĩa thượng tôn da đen, các nhà thần học theo chủ nghĩa kỳ quặc và các nhà thần học sinh thái” về “cuộc đấu tranh diễn ra trong các mối quan hệ quyền lực không cân xứng để tranh giành với niềm tin chính thống và các thực hành đúng đắn “.
Điều này nói lên bầu không khí đáng lo ngại về tôn giáo hiện tại của Rôma khi một số người tham dự hội nghị Latêranô từ chối thảo luận chi tiết về những gì đã được nói ở đó, mặc dù một người can đảm đã mô tả hội nghị là “vô vị”. Tuy nhiên, bất chấp thái độ “thức tỉnh” thần học đã đóng khung nội dung của hội nghị, việc áp đặt phương pháp thảo luận nhóm nhỏ “Đối thoại trong Thánh Linh” lên những người tham dự hội nghị đã bảo đảm rằng sẽ không có sự trao đổi quan điểm mạnh mẽ nào theo kiểu từng đặc trưng cho các trường đại học Công Giáo thời trung cổ, nơi mà ngay cả những giáo sư lỗi lạc nhất cũng được mong đợi sẽ phải công khai bảo vệ quan điểm của mình, một cách dài dòng và sâu sắc, trước tất cả những người mới đến.
Bởi vì bất chấp sự cường điệu ca ngợi việc sử dụng nó tại hai Thượng hội đồng gần đây nhất—thực ra, dựa trên kinh nghiệm đó—”Đối thoại trong Thánh Linh” là một công cụ thao túng, không phải là một quá trình tạo ra cuộc trò chuyện hay tranh luận nghiêm chỉnh. Những người tham gia (một số người trong số họ thông minh và uyên bác) được dành hai phút trong “Khoảnh khắc thứ nhất” để chia sẻ ý tưởng hoặc phản ứng với những gì các diễn giả chính đã nói với toàn bộ hội nghị; sau đó là một phút im lặng; những người tham gia có thêm hai phút để nêu “điều gì cộng hưởng với họ nhất từ những đóng góp được chia sẻ bởi những người khác trong Khoảnh khắc thứ nhất” (lưu ý: không phải những gì họ có thể nghĩ là hoàn toàn vô nghĩa); một phút im lặng khác diễn ra sau đó; và cuối cùng, “thư ký và người điều phối” của nhóm đã bịa ra “một bản tóm tắt ngắn gọn để trình bày trước hội đồng”.
Nếu bạn có thể tưởng tượng ra cuộc thảo luận nghiêm chỉnh về bất kỳ điều gì phát sinh từ một quá trình mà bộ đếm thời gian quả trứng của con người kiểm soát dòng thảo luận, thì trí tưởng tượng của bạn phong phú hơn tôi nhiều.
Thật vô lý khi cho rằng một “tương lai của thần học” sáng tạo, cổ vũ cho Phúc Âm Hóa sẽ được định nghĩa bởi một sự dàn xếp bao gồm nhiều diễn giả chính và một quá trình trẻ con hóa. Tuy nhiên, tệ hơn nữa là, ở một số nơi, phương pháp “Đối thoại trong Thánh Linh” này dường như được coi là khuôn mẫu cho tất cả các cơ quan thảo luận Công Giáo. Trong suy nghĩ của một số người, điều đó có thể bao gồm các cuộc họp chung của các Hồng Y trước một mật nghị không? Một số người thậm chí có thể dám cho rằng bản thân mật nghị nên được tiến hành theo phương pháp “Đối thoại trong Thánh Linh” không?
Những lo ngại đó đã được bàn tán một cách lặng lẽ ở Rôma vào tháng trước. Và chắc chắn là như vậy.
Source:First Things
Tyler Arnold của hãng tin CNA, ngày 8 tháng 1 năm 2025 cho hay: Theo một cuộc thăm dò được công bố trong tuần này, phần lớn phụ huynh, bao gồm hầu hết phụ huynh Công Giáo, phản đối các chính sách của trường áp đặt hệ tư tưởng giới tính bằng cách cho phép nam giới sinh học vào không gian dành cho nữ sinh và che giấu thông tin về bản dạng giới của trẻ với cha mẹ.
Một cuộc thăm dò ý kiến đối với 1,000 phụ huynh trên khắp cả nước do nhóm phi lợi nhuận Parents Defending Education (PDE) ủy quyền, cho thấy hơn ba phần tư phụ huynh trên khắp các đường lối chính trị và hệ tư tưởng phản đối các chính sách của trường cho phép nam giới sinh học tự nhận là nữ sinh chuyển giới tham gia các đội thể thao dành cho nữ sinh hoặc sử dụng phòng vệ sinh và phòng thay đồ dành cho nữ.
Gần ba phần tư phụ huynh Công Giáo được khảo sát cũng phản đối việc nam sinh tham gia các đội thể thao nữ và gần 60% phản đối việc nam sinh sử dụng phòng thay đồ và phòng tắm của nữ sinh, thấp hơn một chút so với dân số chung được thăm dò.
Cuộc thăm dò cho thấy khoảng ba phần tư phụ huynh phản đối các chính sách của trường khuyến khích hoặc yêu cầu giáo viên, cố vấn, y tá trường học và huấn luyện viên che giấu thông tin về bản dạng giới tính của trẻ với phụ huynh trong một số trường hợp nhất định nếu con họ bắt đầu xác định là người chuyển giới. Điều này bao gồm gần ba phần tư phụ huynh Công Giáo.
Các chính sách như vậy thường ngăn cản các viên chức thông báo cho phụ huynh về việc con họ xác định là người chuyển giới mà không có sự đồng ý rõ ràng trước từ trẻ.
Theo cuộc thăm dò, khoảng 90% phụ huynh muốn trường tập trung vào các môn học chính như toán, đọc, viết, khoa học và nghiên cứu xã hội. Hơn một nửa số phụ huynh muốn giảm bớt ảnh hưởng của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ và ít hơn một nửa số phụ huynh tin rằng bộ này đang sử dụng nguồn lực một cách phù hợp để thúc đẩy việc giáo dục học sinh.
“Những kết quả này nhấn mạnh rằng các bậc phụ huynh không hài lòng với một số yếu tố của hệ thống giáo dục hiện đại của Hoa Kỳ — và có sự đồng thuận rộng rãi rằng đã đến lúc các trường học phải quay trở lại với những điều cơ bản”, Chủ tịch PDE Nicole Neily, một bà mẹ Công Giáo có hai đứa con đang trong độ tuổi đi học, cho biết trong một tuyên bố.
“Trong một thời gian quá dài, các viên chức liên bang đã hy sinh nhu cầu của học sinh và gia đình để xoa dịu nhu cầu vô độ của các công đoàn và các nhà hoạt động về tiền bạc và quyền lực”, Neily nói thêm.
Mất nối kết giữa các chính trị gia, viên chức nhà trường và phụ huynh
Cuộc thăm dò cho thấy sự phản đối của cả hai đảng đối với các trường học thực thi hệ tư tưởng giới tính thông qua các chính sách này trong số các bậc phụ huynh. Tuy nhiên, sự thống nhất giữa các bậc phụ huynh vẫn chưa dẫn đến sự đồng thuận của cả hai đảng trong chính quyền liên bang, chính quyền tiểu bang hoặc hội đồng trường học địa phương.
Theo cuộc thăm dò, 86% phụ huynh theo đảng Cộng hòa, 80% phụ huynh độc lập về chính trị và 60% phụ huynh theo đảng Dân chủ phản đối việc nam giới sinh học tham gia các môn thể thao dành cho nữ. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng 92% người Cộng hòa, 75% người độc lập và 58% người Dân chủ phản đối việc nam giới sinh học được phép vào phòng tắm và phòng thay đồ của nữ sinh.
Khoảng 88% phụ huynh theo đảng Cộng hòa, 72% phụ huynh độc lập và 58% phụ huynh theo đảng Dân chủ cũng phản đối các chính sách của trường khuyến khích hoặc yêu cầu giáo viên, y tá, huấn luyện viên và các viên chức nhà trường khác che giấu thông tin với phụ huynh nếu con họ tự nhận mình có giới tính không phù hợp với giới tính sinh học của chúng.
Mặc dù có sự đồng thuận của cả hai đảng trong số các bậc phụ huynh, khoảng một nửa số tiểu bang trong cả nước cho phép nam giới sinh học tham gia các cuộc thi thể thao dành cho nữ và được vào phòng thay đồ, phòng tắm, ký túc xá và các không gian riêng tư khác của nữ khi những nam giới đó tự nhận mình là nữ chuyển giới. Các chính sách này tồn tại ở các tiểu bang do phần lớn các nhà lập pháp Dân chủ điều hành.
Tính đến ngày 30 tháng 10 năm 2024, PDE cũng phát hiện ra ít nhất 1,143 khu học chánh — điều hành gần 21,000 trường học và phục vụ hơn 12.2 triệu trẻ em — có các chính sách khuyến khích hoặc yêu cầu các viên chức nhà trường che giấu thông tin với phụ huynh trong một số trường hợp nhất định nếu con họ bắt đầu xác định giới tính không phù hợp với giới tính của mình.
Danh sách này chưa đầy đủ, nhưng PDE khuyến khích phụ huynh báo cáo các chính sách đó với tổ chức của họ đối với các trường không có trong danh sách.
Vào tháng 4 năm 2023, California trở thành tiểu bang đầu tiên áp dụng luật buộc giáo viên và các viên chức nhà trường khác phải che giấu danh tính chuyển giới tự mô tả của trẻ em với phụ huynh trong một số trường hợp nhất định, điều này đã thúc đẩy các vụ kiện thách thức chính sách này.
Ở cấp liên bang, Bộ Giáo dục của Tổng thống Joe Biden đã sửa đổi các quy định của Đạo luật IX để định nghĩa lại sự phân biệt đối xử về giới tính nhằm áp dụng cho "danh tính giới tính" tự khẳng định của một người tại các trường học, cao đẳng và các tổ chức giáo dục khác. Việc thực thi chính sách này đã bị các thẩm phán chặn lại ở 26 tiểu bang sau khi các viên chức nhà nước Cộng hòa đệ đơn kiện cảnh báo rằng ngôn ngữ này sẽ phủ nhận các chính sách của họ về việc tách biệt các hoạt động thể thao, phòng tắm và phòng thay đồ dựa trên giới tính sinh học.
Neily nói với CNA rằng các quận trường [school districts] thường áp dụng chính sách che giấu thông tin với phụ huynh "dưới chiêu bài an toàn" khi các viên chức tin rằng phụ huynh sẽ không ủng hộ bản dạng chuyển giới tự khẳng định của trẻ.
Tuy nhiên, Neily cho biết, nhân viên nhà trường đã là những người báo cáo bắt buộc và có nghĩa vụ thông báo cho Dịch vụ Bảo vệ Trẻ em (CPS) nếu họ tin rằng một đứa trẻ đang gặp nguy hiểm, sau đó CPS có thể điều tra. Bà cho biết chính sách che giấu thông tin với phụ huynh cho phép các viên chức nhà trường đưa ra "quyết định đơn phương" rằng phụ huynh không an toàn. Bà bày tỏ lo ngại về "những phán đoán vội vàng như vậy".
Theo Neily, một lý do khiến các viên chức và phụ huynh không có sự kết nối là "nhiều phụ huynh không biết rằng các chính sách này đang được áp dụng" và một số phụ huynh "không có thời gian, khả năng hoặc phương tiện để biết cách đặt những câu hỏi như vậy".
Neily bày tỏ sự lạc quan rằng chính quyền Tổng thống đắc cử Donald Trump có thể đảo ngược các chính sách thời Biden ở cấp liên bang và thừa nhận rằng "gia đình và cha mẹ là những bên liên quan" thay vì chỉ xem xét "các nhà hoạt động và công đoàn giáo viên".
Trump đã hứa sẽ thực hiện hành động hành pháp vào Ngày 1 để ngăn chặn điều mà ông gọi là "sự điên rồ của người chuyển giới".
Elise Ann Allen của Crux, ngày 9 tháng 1 năm 2025, tường trình rằng Trong bài phát biểu thường niên trước các nhà ngoại giao, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lên án những gì ngài cho là sự gia tăng phổ biến của "tin giả", trong số những điều khác, ngài nói rằng những sự bóp méo cố ý như vậy kích động bầu không khí thù hận dẫn đến các hành động như âm mưu ám sát vào năm 2024 đối với Thủ tướng Robert Fico của Slovakia và Tổng thống đắc cử Donald Trump của Hoa Kỳ.
Trong bài phát biểu ngày 9 tháng 1, giáo hoàng than thở về "việc liên tục tạo ra và lan truyền tin giả", mà ngài cho biết, "làm méo mó sự thật nhưng cũng làm méo mó nhận thức".
“Hiện tượng này tạo ra những hình ảnh sai lệch về thực tại, một bầu không khí nghi ngờ kích động lòng căm thù, làm suy yếu cảm giác an toàn của mọi người và gây tổn hại đến sự chung sống dân sự và sự ổn định của toàn bộ các quốc gia”, ngài nói.
Để đạt được mục đích này, ngài chỉ ra các cuộc tấn công gần đây vào Fico và Trump, mà lễ nhậm chức sẽ diễn ra trong vòng chưa đầy hai tuần nữa, vào ngày 20 tháng 1.
Ngoài ra, Đức Phanxicô đã nêu bật một số thành tựu ngoại giao và thỏa thuận đạt được vào năm 2024, bao gồm việc gia hạn Thỏa thuận tạm thời giữa Tòa thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa liên quan đến việc bổ nhiệm các Giám mục.
Lưu ý rằng thỏa thuận này đã được gia hạn trong bốn năm thay vì hai năm như thông lệ, ngài gọi đây là “dấu hiệu của mong muốn tiếp tục một cuộc đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng vì lợi ích của Giáo Hội Công Giáo trong nước và của toàn thể người dân Trung Quốc”.
Ngài cũng chỉ ra việc khai mạc Năm Thánh Hy Vọng năm 2025, cảm ơn chính quyền thành phố Rome đã tổ chức năm thánh và cảm ơn chính người dân Rome "vì sự kiên nhẫn mà họ đã thể hiện" trong bối cảnh bất tiện của nhiều dự án xây dựng đã xé nát thành phố và gây ra tình trạng tắc nghẽn giao thông.
Đức Phanxicô than thở rằng năm mới và năm thánh đã bắt đầu trong bối cảnh chiến tranh và các cuộc tấn công khủng bố mới, bao gồm cả những cuộc tấn công ở Magdeburg, Đức và New Orleans, và sự gia tăng căng thẳng xã hội và chính trị trên hoàn cầu.
Trong năm mới, ngoại giao có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hòa bình và đối thoại, ngài nói, phác thảo viễn kiến của mình về điều ngài gọi là "ngoại giao hy vọng" hoàn cầu, trong đó các nhà lãnh đạo chính trị theo đuổi lợi ích chung và ưu tiên cho người nghèo và người bị áp bức.
Ngài than thở rằng xã hội ngày càng tập trung vào sự giàu có và tăng trưởng vật chất, "thích thú cưng hơn trẻ em", và lên án những gì ngài cho là sự mất mát của sự thật trong bối cảnh mất đi lập luận hợp lý và ngày càng mất lòng tin vào những người có suy nghĩ khác.
“Những khuynh hướng này có thể được khuếch đại bởi các phương tiện truyền thông hiện đại và trí tuệ nhân tạo; chúng có thể bị lạm dụng để thao túng tâm trí vì mục đích kinh tế, chính trị và ý thức hệ”, ngài cảnh báo.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng cảnh cáo về những rủi ro của tiến bộ khoa học, mà ngài cho biết mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng gây ra sự phân cực gia tăng, hẹp hòi, lo lắng, cô lập và “đơn giản hóa thực tại”, đặc biệt là thông qua việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội và trò chơi trực tuyến, ngài nói.
Để đạt được mục đích này, ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của “giáo dục hiểu biết về phương tiện truyền thông” trong việc thúc đẩy tư duy phê phán và sự phát triển của cá nhân.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương và nhu cầu tìm ra một ngôn ngữ chung để thông đạt trong bối cảnh quốc tế.
Ngài lên án những gì ngài cho là “nỗ lực thao túng các văn bản đa phương – bằng cách thay đổi ý nghĩa của các thuật ngữ hoặc đơn phương diễn giải lại nội dung của các hiệp ước nhân quyền – để thúc đẩy các hệ tư tưởng gây chia rẽ, chà đạp lên các giá trị và niềm tin của người dân là đặc biệt đáng lo ngại”.
“Nó đại diện cho một hình thức thực dân hóa ý thức hệ thực sự, cố gắng, theo các chương trình nghị sự được lên kế hoạch cẩn thận, nhằm nhổ tận gốc các truyền thống, lịch sử và mối liên kết tôn giáo của các dân tộc”, ngài nói, lên án những nỗ lực như vậy là một phần của “văn hóa triệt tiêu” đang phát triển trên hoàn cầu.
Điều này ảnh hưởng không cân xứng đến những người yếu đuối và dễ bị tổn thương, bao gồm cả trẻ chưa chào đời và người già, ngài nói, chỉ ra “điều gọi là ‘quyền phá thai’ trái ngược với quyền con người, đặc biệt là quyền được sống”.
“Mọi sự sống phải được bảo vệ, tại mọi thời điểm, từ khi thụ thai đến khi chết tự nhiên, bởi vì không có đứa trẻ nào là sai lầm hoặc có tội khi hiện hữu, cũng như không có người già hay người bệnh nào có thể bị tước mất hy vọng và bị loại bỏ”, ngài nói.
Đức Phanxicô chỉ ra điều mà ngài cho là sự bất lực ngày càng tăng của các tổ chức quốc tế trong việc giải quyết xung đột hiệu quả hoặc ứng phó với các thách thức đương thời, đã phân mảnh thành “các câu lạc bộ có cùng chí hướng” gồm những người chỉ nghĩ theo một cách.
Tuy nhiên, ngài đã ca ngợi những thành công ngoại giao gần đây, bao gồm việc nối lại các cuộc đàm phán xung quanh thỏa thuận hạt nhân Iran.
Đức Giáo Hoàng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nuôi dưỡng điều mà ngài gọi là “ngoại giao tha thứ”, có khả năng vượt qua hận thù và bạo lực và khôi phục hòa bình.
Trước thềm năm thánh, ngài đã lên tiếng hy vọng rằng 2025 sẽ mang lại những nỗ lực có ý nghĩa từ toàn bộ cộng đồng quốc tế để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine và Gaza, ủng hộ việc trả tự do cho các con tin Israel, đạt được giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột lâu đời giữa Israel và Palestine, và cứu trợ cho cuộc khủng hoảng nhân đạo 'đáng xấu hổ' ở Gaza.
Đức Phanxicô một lần nữa ủng hộ việc chấm dứt buôn bán vũ khí hoàn cầu và gọi chiến tranh là "thất bại" đối với tất cả những người có liên hệ, nói rằng sự tham gia của thường dân, đặc biệt là trẻ em, và việc phá hủy cơ sở hạ tầng "có nghĩa là giữa hai bên chỉ có cái ác mới nổi lên là kẻ chiến thắng".
"Chúng ta không thể chấp nhận việc ném bom dân thường hoặc tấn công các cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự sống còn của họ", ngài nói. Chúng ta không thể chấp nhận rằng trẻ em đang chết cóng vì bệnh viện đã bị phá hủy hoặc mạng lưới năng lượng của một quốc gia đã bị tấn công".
Ngài chỉ trích cộng đồng quốc tế vì tuyên bố tôn trọng luật nhân đạo quốc tế trong khi không thực hiện luật này, bày tỏ hy vọng rằng năm thánh sẽ là cơ hội để "thực hiện các bước tích cực nhằm bảo đảm để các quyền bất khả xâm phạm của con người không bị hy sinh cho nhu cầu quân sự".
Chỉ ra nhiều cuộc xung đột đang diễn ra khắp Châu Phi và Myanmar, cũng như tình trạng bất ổn xã hội ở Trung Đông và Châu Mỹ, bao gồm Haiti, Venezuela và Nicaragua, ngài ủng hộ hòa bình và tôn trọng quyền tự do tôn giáo.
Vì mục đích này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên án các cảm quan bài Do Thái đang gia tăng trên khắp thế giới cũng như cuộc đàn áp các Ki-tô hữu của các nhóm khủng bố ở Châu Á và Châu Phi, và những gì ngài mô tả là sự xúc phạm "kín đáo" đối với quyền tự do tôn giáo ở phương Tây thông qua các chuẩn mực pháp lý và thông lệ hành chính hạn chế quyền của những người có đức tin.
Đức Giáo Hoàng cũng kêu gọi chấm dứt lao động nô lệ, buôn người và buôn bán ma túy, đồng thời ủng hộ các điều kiện làm việc có phẩm giá và thúc đẩy việc làm có ý nghĩa, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi.
Ngài kêu gọi một "nền ngoại giao tự do" trong đó cộng đồng quốc tế cùng tham gia xóa bỏ "hoạt động thương mại kinh hoàng" của nạn buôn người và chăm sóc những người di cư, những người đặc biệt dễ bị bọn buôn người lợi dụng.
Cũng kêu gọi một "nền ngoại giao công lý", Đức Giáo Hoàng cho biết năm thánh là thời điểm lý tưởng "để thực thi công lý, xóa nợ và giảm nhẹ án tù cho các tù nhân".
Ngài nhắc lại lời kêu gọi chấm dứt án tử hình “ở mọi quốc gia, vì ngày nay không có biện minh nào cho án tử hình trong số các công cụ có khả năng khôi phục công lý”, ngài nói rằng, “không có khoản nợ nào cho phép bất cứ ai, kể cả Nhà nước, đòi hỏi mạng sống của người khác”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi nỗ lực lớn hơn để chống lại cuộc khủng hoảng khí hậu, và ngài ủng hộ việc xóa nợ, yêu cầu các quốc gia giàu có hơn xóa nợ cho các quốc gia nghèo hơn sẽ không bao giờ có thể trả được, do đó cho phép họ ưu tiên phát triển xã hội.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô kết thúc bài phát biểu của mình bằng cách bày tỏ hy vọng rằng đối với thế giới, năm 2025 sẽ “thực sự là một năm ân sủng, tràn đầy sự thật, lòng tha thứ, tự do, công lý và hòa bình!”
Sáng Thứ Năm, 09 Tháng Giêng, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh đến chúc mừng Năm Mới.
Tòa Thánh hiện có quan hệ ngoại giao với 183 quốc gia có chủ quyền (bao gồm cả Đài Loan được quốc tế công nhận một phần) và với thực thể có chủ quyền là Dòng Malta và Liên minh Âu Châu. Tòa Thánh cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Nhà nước Palestine.
Theo thỏa thuận với nhà cầm quyền Việt Nam, Tòa Thánh có một đại diện giáo hoàng không thường trú tại đó. Tòa Thánh có các mối liên hệ chính thức, nhưng chưa thiết lập quan hệ ngoại giao, với: Afghanistan, Brunei, Somalia và Ả Rập Xê Út.
Tòa Thánh cũng có một số Khâm Sứ Tòa Thánh tại các cộng đồng Giáo Hội Công Giáo địa phương chưa được chính phủ của các quốc gia tương ứng thiết lập quan hệ ngoại giao. Các khu vực và quốc gia nơi các Khâm Sứ Tòa Thánh như vậy hoạt động là: Brunei, Comoros, Lào, Maldives, Somalia, Giêrusalem và các vùng lãnh thổ Palestine, Tuvalu, Antilles Kosovo và Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Sahrawi.
Tòa Thánh không có bất kỳ mối quan hệ nào với các quốc gia sau:
Vương quốc Bhutan, Cộng hòa Maldives, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Bắc Hàn.
Hiện nay có 91 đại sứ quán tại Tòa Thánh có trụ sở tại Rôma.
Trong diễn từ trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha nói:
Chúng ta tụ họp sáng nay để tham dự một cuộc họp, ngoài tính chất thể chế, trên hết là tìm cách trở thành một sự kiện gia đình: một khoảnh khắc mà gia đình các dân tộc tụ họp một cách tượng trưng, thông qua sự hiện diện của các bạn, để trao đổi những lời chúc tốt đẹp của tình huynh đệ, để bỏ lại sau lưng những tranh chấp chia rẽ chúng ta và thay vào đó là tìm kiếm những điều đoàn kết chúng ta lại với nhau. Vào đầu năm nay, năm đặc biệt có ý nghĩa đối với Giáo Hội Công Giáo, cuộc tụ họp của chúng ta có một biểu tượng riêng. Vì Năm Thánh là nhằm giúp chúng ta thoát khỏi nhịp sống ngày càng điên cuồng của cuộc sống thường nhật để được tươi mới và nuôi dưỡng bởi những gì thực sự thiết yếu. Nói một cách ngắn gọn, để tái khám phá chính mình, trong Người, với tư cách là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em, để tha thứ cho những lỗi lầm, để hỗ trợ những người yếu đuối và nghèo khổ trong chúng ta, để mang lại sự nghỉ ngơi và nhẹ nhõm cho trái đất, để thực hành công lý và khôi phục lại hy vọng. Đây là lời triệu tập tất cả những ai phục vụ lợi ích chung và thực hiện biểu hiện cao cả của lòng bác ái - có lẽ là hình thức bác ái cao nhất - đó là chính trị.
Với tinh thần này, tôi xin gửi đến các bạn lời chào nồng nhiệt. Trước hết, tôi xin cảm ơn Ngài Đại sứ George Poulides, Niên Trưởng Ngoại giao đoàn, vì những lời tốt đẹp đã truyền đạt tình cảm chung của các bạn. Đối với tất cả các bạn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn về tình cảm và sự tôn trọng mà người dân và chính phủ của các bạn dành cho Tòa thánh, những người mà các bạn đại diện một cách đầy nhiệt huyết. Điều này được thể hiện qua các chuyến thăm của hơn ba mươi Nguyên thủ quốc gia hoặc Chính phủ mà tôi đã có niềm vui được tiếp đón tại Vatican vào năm 2024, cũng như việc ký kết Nghị định thư bổ sung thứ hai cho Hiệp định giữa Tòa thánh và Burkina Faso về tình trạng pháp lý của Giáo Hội Công Giáo tại Burkina Faso và Hiệp định giữa Tòa thánh và Cộng hòa Tiệp về một số vấn đề pháp lý, được ký kết trong suốt năm qua. Sau đó, vào tháng 10 năm ngoái, Hiệp định tạm thời giữa Tòa thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa liên quan đến việc bổ nhiệm các Giám mục đã được gia hạn thêm bốn năm nữa, một dấu hiệu cho thấy mong muốn tiếp tục một cuộc đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng vì lợi ích của Giáo Hội Công Giáo trong nước và của toàn thể người dân Trung Quốc.
Về phần mình, tôi đã tìm cách đáp lại tình cảm này bằng các Chuyến tông du gần đây của tôi, đưa tôi đến những vùng đất xa xôi như Indonesia, Papua New Guinea, Timor-Leste và Singapore, cũng như đến những quốc gia gần hơn như Bỉ và Luxembourg và gần đây nhất là Corsica. Mặc dù rõ ràng đây là những điểm đến rất khác nhau, nhưng mỗi chuyến đi đều là cơ hội để tôi gặp gỡ và tham gia đối thoại với những con người, nền văn hóa và truyền thống tôn giáo khác nhau, và mang đến lời động viên và an ủi, đặc biệt là cho những người đang cần nhất. Thêm vào những chuyến đi này là ba chuyến viếng thăm tôi đã thực hiện đến Verona, Venice và Trieste ở đây tại Ý.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt đến các nhà chức trách Ý, cả trên bình diện quốc gia và địa phương, vào đầu năm Thánh này, vì những nỗ lực đã bỏ ra để chuẩn bị cho Rôma mừng Năm Thánh. Công việc không ngừng nghỉ trong những tháng này, vốn đã gây ra không ít bất tiện, giờ đây đang được đền đáp bằng việc cải thiện một số dịch vụ và không gian công cộng, để mọi người, công dân, khách hành hương và khách du lịch, có thể tận hưởng nhiều hơn vẻ đẹp của Thành phố Vĩnh cửu. Đối với người dân Rôma, nổi tiếng với lòng hiếu khách, tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt vì sự kiên nhẫn mà họ đã thể hiện trong những tháng gần đây, nhưng cũng vì sự kiên nhẫn mà họ sẽ thể hiện khi chào đón nhiều du khách đến đây trong năm nay. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến lực lượng cảnh sát, các cơ quan bảo vệ dân sự và chăm sóc sức khỏe, và tất cả những người tình nguyện đang nỗ lực hết mình mỗi ngày để bảo đảm an ninh và một Năm Thánh hòa bình.
Kính thưa các vị Đại sứ,
Trong lời của tiên tri Isaia, mà Chúa Giêsu đã đọc trong hội đường Nazareth vào lúc bắt đầu cuộc sống công khai của Người, như chúng ta học được từ thánh sử Luca, chương 4 từ câu 16 đến 21, chúng ta thấy được sự thu nhỏ không chỉ của mầu nhiệm Giáng sinh mà chúng ta vừa cử hành, mà còn của Năm Thánh hiện tại. Chúa Kitô đã đến “để loan báo tin mừng cho người bị áp bức, băng bó những tấm lòng tan vỡ, công bố sự giải thoát cho những người bị giam cầm, và giải thoát cho những người bị giam cầm; công bố năm hồng ân của Chúa” (Is 61:1-2a).
Thật đáng buồn, chúng ta bắt đầu năm nay khi thế giới chứng kiến cảnh chia rẽ bởi nhiều cuộc xung đột lớn nhỏ, ít nhiều được biết đến, nhưng cũng bởi sự tái diễn của các hành động khủng bố tàn bạo, chẳng hạn như những hành động vừa xảy ra ở Magdeburg, Đức và New Orleans, Hoa Kỳ.
Chúng ta cũng thấy ở nhiều quốc gia, căng thẳng chính trị và xã hội ngày càng gia tăng. Chúng ta thấy các xã hội ngày càng phân cực, được đánh dấu bằng cảm giác chung là sợ hãi và ngờ vực người khác và tương lai, điều này trở nên trầm trọng hơn do tin tức giả liên tục được tạo ra và lan truyền, không chỉ bóp méo sự thật mà còn cả nhận thức. Hiện tượng này tạo ra những hình ảnh sai lệch về thực tế, một bầu không khí nghi ngờ kích động lòng căm thù, làm suy yếu cảm giác an toàn của mọi người và gây tổn hại đến sự chung sống dân sự và sự ổn định của toàn bộ các quốc gia. Những ví dụ bi thảm về điều này là các cuộc tấn công vào Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Slovakia và Tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ.
Bầu không khí bất ổn này dẫn đến việc dựng lên những rào cản mới và vẽ ra những đường biên giới mới, trong khi những rào cản khác, chẳng hạn như rào cản đã chia cắt đảo Síp trong hơn năm mươi năm và rào cản đã chia cắt Bán đảo Triều Tiên làm đôi trong hơn bảy mươi năm, vẫn tồn tại vững chắc, chia cắt các gia đình và chia cắt nhà cửa và thành phố. Những đường biên giới hiện đại này được cho là ranh giới phân định bản sắc, nơi sự đa dạng trở thành lý do cho sự nghi ngại, ngờ vực và sợ hãi: “Bất cứ thứ gì đến từ đó đều không đáng tin cậy, vì nó là thứ xa lạ, không quen thuộc, không phải là một phần của bản sắc... Kết quả là, những bức tường mới được dựng lên để tự bảo vệ, thế giới bên ngoài không còn tồn tại và chỉ còn lại thế giới 'của tôi', đến mức những người khác, không còn được coi là con người sở hữu phẩm giá bất khả xâm phạm, chỉ trở thành 'họ'.” [1] Trớ trêu thay, từ “biên giới” (“giới hạn”) không có nghĩa là một nơi chia cắt, mà là nơi hợp nhất, (cum-finis), nơi người ta có thể gặp gỡ những người khác, tìm hiểu họ và đối thoại với họ.
Hy vọng cầu nguyện của tôi cho năm mới này có thể đại diện cho tất cả mọi người, cả Kitô hữu và không phải Kitô hữu, là Năm Thánh sẽ là một cơ hội để suy nghĩ lại về các mối quan hệ ràng buộc chúng ta với nhau, như những con người và cộng đồng chính trị. Nhưng cũng để vượt qua logic của sự đối đầu và thay vào đó là logic của sự gặp gỡ; để tương lai không thấy chúng ta trôi dạt vô vọng, nhưng tiến về phía trước như những người hành hương của hy vọng, những cá nhân và cộng đồng đang di chuyển, cam kết xây dựng một tương lai hòa bình.
Hơn nữa, trước mối đe dọa ngày càng cụ thể của một cuộc chiến tranh thế giới, sứ mệnh của ngoại giao là thúc đẩy đối thoại với tất cả các bên, bao gồm cả những bên đối thoại được coi là ít "tiện lợi" hơn hoặc không được coi là hợp pháp để đàm phán. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể phá vỡ xiềng xích của lòng hận thù và sự trả thù đang trói buộc và làm giảm sức mạnh bùng nổ của lòng ích kỷ, lòng kiêu hãnh và sự ngạo mạn của con người, vốn là gốc rễ của mọi quyết tâm hủy diệt để tiến hành chiến tranh.
Thưa các vị Đại Sứ, Quý bà và Quý ông,
Dựa trên những cân nhắc vắn tắt này, sáng nay tôi muốn cùng anh chị em theo dõi, bắt đầu từ lời của tiên tri Isaia, một số nét đặc trưng của nền ngoại giao hy vọng, mà tất cả chúng ta được kêu gọi trở thành sứ giả, để những đám mây đen của chiến tranh có thể bị thổi bay bởi những luồng gió mới của hòa bình. Nói chung, tôi muốn nhấn mạnh một số trách nhiệm mà mọi nhà lãnh đạo chính trị cần ghi nhớ khi thực hiện trách nhiệm của mình, những trách nhiệm này phải hướng tới việc theo đuổi lợi ích chung và sự phát triển toàn diện của con người.
Mang tin mừng đến với những người bị áp bức
Trong mọi thời đại và địa điểm, con người luôn bị thu hút bởi ý tưởng rằng họ có thể tự mình đủ khả năng và là kiến trúc sư cho số phận của chính họ. Bất cứ khi nào chúng ta để bản thân bị chi phối bởi sự tự phụ như vậy, chúng ta thấy mình bị buộc phải nhận ra rằng chúng ta yếu đuối và bất lực, nghèo đói và túng thiếu, phải chịu nghịch cảnh về tinh thần và vật chất. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta khám phá ra nỗi khốn khổ của mình và nhu cầu của mình về một ai đó sẽ cứu chúng ta khỏi nó.
Thật là khốn khổ cho thời đại chúng ta. Hơn bao giờ hết, nhân loại đã biết đến sự tiến bộ, phát triển và giàu có, nhưng có lẽ chưa bao giờ chúng ta lại thấy mình cô đơn và lạc lõng đến thế, thậm chí đôi khi còn thích nuôi thú cưng hơn trẻ con. Có một nhu cầu cấp thiết là phải nghe tin mừng. Đó là Tin mừng mà, theo quan điểm của người theo Kitô giáo, Chúa ban cho chúng ta vào đêm Giáng sinh! Mặc dù vậy, mọi người – ngay cả những người không tin – đều có thể trở thành người mang thông điệp hy vọng và chân lý.
Con người, về vấn đề đó, được ban tặng một khát khao bẩm sinh đối với chân lý. Đó là một khía cạnh cơ bản của tình trạng con người của chúng ta, vì mỗi người đều mang sâu trong mình một khát khao chân lý khách quan và một ham muốn không thể kìm nén đối với kiến thức. Mặc dù điều này luôn đúng, nhưng trong thời đại của chúng ta, việc phủ nhận những chân lý hiển nhiên dường như đã chiếm ưu thế. Một số người không tin tưởng vào lập luận hợp lý, tin rằng đó là công cụ trong tay của một thế lực vô hình nào đó, trong khi những người khác tin rằng họ chắc chắn sở hữu một chân lý do chính họ tạo ra, và do đó được miễn khỏi thảo luận và đối thoại với những người có suy nghĩ khác. Những người khác có xu hướng phát minh ra "chân lý" của riêng họ, bất chấp tính khách quan của thực tế. Những xu hướng này có thể được khuếch đại bởi các phương tiện truyền thông hiện đại và trí tuệ nhân tạo; chúng có thể bị lạm dụng để thao túng tâm trí vì mục đích kinh tế, chính trị và ý thức hệ.
Tiến bộ khoa học hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, đã mang lại những lợi ích không thể nghi ngờ cho nhân loại. Nó cho phép chúng ta đơn giản hóa nhiều khía cạnh của cuộc sống hàng ngày, giữ liên lạc với những người thân yêu ngay cả khi họ ở xa về mặt vật lý, duy trì thông tin và tăng kiến thức của chúng ta. Đồng thời, những hạn chế và nguy hiểm của nó không thể bị bỏ qua, vì nó thường góp phần gây ra sự phân cực, thu hẹp quan điểm trí tuệ, đơn giản hóa thực tế, lạm dụng, lo lắng và trớ trêu thay, cô lập, đặc biệt là do sử dụng phương tiện truyền thông xã hội và trò chơi trực tuyến.
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo làm dấy lên mối quan ngại rộng hơn về quyền sở hữu trí tuệ, sự an toàn việc làm của hàng triệu người, nhu cầu tôn trọng quyền riêng tư và bảo vệ môi trường khỏi rác thải điện tử. Hầu như không có góc nào trên thế giới của chúng ta không bị ảnh hưởng bởi sự chuyển đổi văn hóa rộng lớn do những tiến bộ nhanh chóng của công nghệ mang lại, sự liên kết với lợi ích thương mại ngày càng rõ ràng, tạo ra một nền văn hóa bắt nguồn từ chủ nghĩa tiêu dùng.
Sự mất cân bằng này đe dọa phá vỡ trật tự các giá trị vốn có trong việc tạo ra các mối quan hệ, giáo dục và truyền tải các chuẩn mực xã hội, trong khi cha mẹ, họ hàng thân thiết và nhà giáo dục vẫn phải là những kênh chính để truyền tải văn hóa, vì mục đích này, chính phủ nên giới hạn bản thân trong việc hỗ trợ họ trong trách nhiệm giáo dục của mình. Ở đây chúng ta thấy tầm quan trọng của giáo dục hiểu biết truyền thông, nhằm mục đích cung cấp các công cụ thiết yếu cần thiết để thúc đẩy các kỹ năng tư duy phản biện, trang bị cho những người trẻ tuổi các phương tiện cần thiết cho sự phát triển cá nhân và sự tham gia tích cực của họ vào tương lai của xã hội.
Do đó, ngoại giao hy vọng trước hết là ngoại giao chân lý. Nếu thiếu đi mối liên hệ giữa thực tế, chân lý và kiến thức, con người sẽ không còn có thể nói và hiểu nhau nữa, vì nền tảng của một ngôn ngữ chung, được neo giữ trong thực tế của mọi thứ và do đó có thể hiểu được trên toàn thế giới, đang thiếu. Mục đích của ngôn ngữ là giao tiếp, chỉ thành công nếu các từ ngữ chính xác và ý nghĩa của các thuật ngữ được chấp nhận rộng rãi. Câu chuyện trong Kinh thánh về Tháp Babel cho thấy điều gì xảy ra khi mọi người chỉ nói bằng ngôn ngữ "của riêng mình".
Thành ra, giao tiếp, đối thoại và cam kết vì lợi ích chung đòi hỏi phải có thiện chí và tuân thủ một ngôn ngữ chung. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực ngoại giao, nhất là trong bối cảnh đa phương. Tác động và thành công của bất kỳ tuyên bố, tuyên ngôn, nghị quyết và nói chung hơn là các văn bản đàm phán nào đều phụ thuộc vào điều này. Một thực tế đã được chứng minh là chủ nghĩa đa phương chỉ mạnh mẽ và hiệu quả khi tập trung vào các vấn đề đang được thảo luận và sử dụng ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng và được thống nhất.
Vì vậy, nỗ lực thao túng các văn bản đa phương - bằng cách thay đổi ý nghĩa của các thuật ngữ hoặc đơn phương diễn giải lại nội dung của các hiệp ước nhân quyền - nhằm thúc đẩy các ý thức hệ gây chia rẽ, chà đạp lên các giá trị và niềm tin của người dân là đặc biệt đáng lo ngại. Nó đại diện cho một hình thức thực dân hóa ý thức hệ thực sự, cố gắng, theo các chương trình nghị sự được lên kế hoạch cẩn thận, nhằm nhổ tận gốc các truyền thống, lịch sử và mối liên kết tôn giáo của người dân. Đây là một tâm lý, bằng cách tuyên bố để lại đằng sau những gì được coi là "những trang đen tối của lịch sử", mở ra cánh cửa cho "văn hóa hủy bỏ". Nó không dung thứ cho bất kỳ sự khác biệt nào và tập trung vào các quyền cá nhân, gây tổn hại đến các nghĩa vụ đối với người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất. [2] Về vấn đề này, không thể chấp nhận được, ví dụ, khi nói về cái gọi là "quyền phá thai" trái ngược với các quyền con người, đặc biệt là quyền được sống. Mọi sự sống phải được bảo vệ, tại mọi thời điểm, từ khi thụ thai đến khi chết tự nhiên, bởi vì không có đứa trẻ nào là sai lầm hoặc có tội khi tồn tại, cũng như không có người già hoặc người bệnh nào có thể bị tước mất hy vọng và bị bỏ rơi.
Đường lối này đặc biệt có liên quan trong bối cảnh của các cơ quan đa phương khác nhau. Tôi đặc biệt nghĩ đến Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu Châu, trong đó Tòa thánh là thành viên sáng lập, đã tham gia tích cực vào các cuộc đàm phán dẫn đến Tuyên bố Helsinki năm 1975 cách đây nửa thế kỷ. Việc khôi phục lại “tinh thần Helsinki” là cấp thiết hơn bao giờ hết, qua đó các quốc gia đối lập, được coi là “đối phương”, đã thành công trong việc tạo ra một không gian gặp gỡ và không từ bỏ đối thoại như một phương tiện giải quyết xung đột.
Tuy nhiên, các thể chế đa phương, phần lớn ra đời vào cuối Thế chiến II cách đây khoảng tám mươi năm, dường như không còn khả năng bảo đảm hòa bình và ổn định, hoặc tiếp tục cuộc chiến chống đói nghèo và thúc đẩy sự phát triển mà chúng được tạo ra. Chúng cũng dường như không thể phản ứng theo cách thực sự hiệu quả đối với những thách thức mới của thế kỷ 21 này, chẳng hạn như các vấn đề về môi trường, sức khỏe cộng đồng, văn hóa và xã hội, chưa kể đến những thách thức do trí tuệ nhân tạo đặt ra. Nhiều trong số chúng cần được cải cách, lưu ý rằng bất kỳ cải cách nào như vậy cũng cần dựa trên các nguyên tắc bổ trợ và đoàn kết, và tôn trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia. Đáng tiếc là có nguy cơ tồn tại một "đơn nguyên học" và sự phân mảnh thành các câu lạc bộ có cùng chí hướng chỉ cho phép những người có cùng suy nghĩ tham gia.
Tuy nhiên, đã có và vẫn đang có những dấu hiệu đáng khích lệ, bất cứ nơi nào có thiện chí để đến với nhau. Tôi nghĩ đến Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị giữa Chile và Á Căn Đình, được ký kết tại Thành phố Vatican vào ngày 29 tháng 11 năm 1984, với sự trung gian của Tòa thánh và thiện chí của các Bên, đã chấm dứt tranh chấp Kênh đào Beagle. Theo cách này, nó cho thấy rằng hòa bình và hữu nghị là có thể khi hai thành viên của cộng đồng quốc tế từ bỏ việc sử dụng vũ lực và long trọng cam kết tôn trọng mọi quy tắc của luật pháp quốc tế và thúc đẩy hợp tác song phương. Gần đây hơn, tôi nghĩ đến những dấu hiệu tích cực của việc nối lại các cuộc đàm phán để quay trở lại khuôn khổ của thỏa thuận hạt nhân Iran, với mục đích bảo đảm một thế giới an toàn hơn cho tất cả mọi người.
Băng bó những trái tim tan vỡ
Ngoại giao hy vọng cũng là ngoại giao tha thứ, có khả năng hàn gắn các mối quan hệ bị chia cắt bởi hận thù và bạo lực trong thời điểm đầy rẫy những xung đột công khai hoặc tiềm ẩn, và do đó chăm sóc những trái tim tan vỡ của vô số nạn nhân. Mong muốn của tôi cho năm 2025 là toàn thể cộng đồng quốc tế sẽ nỗ lực hết mình để chấm dứt cuộc xung đột đã gây ra quá nhiều đổ máu trong gần ba năm qua tại Ukraine bị chiến tranh tàn phá và cướp đi sinh mạng của rất nhiều người, bao gồm cả nhiều thường dân. Một số dấu hiệu đáng khích lệ đã xuất hiện ở phía chân trời, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để tạo điều kiện cho một nền hòa bình công bằng và lâu dài, cũng như chữa lành những vết thương do cuộc xâm lược gây ra.
Tương tự như vậy, tôi xin nhắc lại lời kêu gọi ngừng bắn và trả tự do cho các con tin Israel ở Gaza, nơi đang có tình hình nhân đạo rất nghiêm trọng và đáng xấu hổ, và tôi yêu cầu người dân Palestine nhận được mọi sự hỗ trợ cần thiết. Tôi cầu nguyện hy vọng rằng người Israel và người Palestine có thể xây dựng lại những cây cầu đối thoại và tin tưởng lẫn nhau, bắt đầu từ những cây cầu nhỏ nhất, để các thế hệ tương lai có thể sống cạnh nhau tại hai quốc gia, trong hòa bình và an ninh, và rằng Giêrusalem có thể trở thành "thành phố của sự gặp gỡ", nơi các Kitô hữu, Do Thái và Hồi giáo chung sống hòa thuận và tôn trọng. Vào tháng 6 năm ngoái, tại khu vườn Vatican, chúng ta đã cùng nhau kỷ niệm 10 năm Lời kêu gọi hòa bình tại Đất Thánh, vào ngày 8 tháng 6 năm 2014, có sự hiện diện của Tổng thống Nhà nước Israel lúc bấy giờ, Shimon Peres, và Tổng thống Nhà nước Palestine, Mahmoud Abbas, cùng với Đức Thượng phụ Bácthôlômêô I. Cuộc gặp gỡ đó đã chứng minh cho thực tế rằng đối thoại luôn có thể thực hiện được và chúng ta không thể đầu hàng trước ý tưởng rằng sự thù địch và hận thù giữa các dân tộc sẽ chiếm ưu thế.
Đồng thời, cũng cần phải chỉ ra rằng chiến tranh được thúc đẩy bởi sự gia tăng liên tục của các loại vũ khí ngày càng tinh vi và hủy diệt. Sáng nay, tôi nhắc lại lời kêu gọi của mình rằng “với số tiền chi cho vũ khí và các chi phí quân sự khác, chúng ta hãy thành lập một quỹ toàn cầu có thể chấm dứt nạn đói và thúc đẩy phát triển ở các quốc gia nghèo đói nhất, để công dân của họ sẽ không phải dùng đến các giải pháp bạo lực hoặc ảo tưởng, hoặc phải rời bỏ đất nước của họ để tìm kiếm một cuộc sống có phẩm giá hơn”. [3]
Chiến tranh luôn là một thất bại! Sự tham gia của thường dân, đặc biệt là trẻ em, và sự phá hủy cơ sở hạ tầng không chỉ là một thảm họa, mà về cơ bản có nghĩa là giữa hai bên chỉ có cái ác mới là kẻ chiến thắng. Chúng ta không thể chấp nhận việc ném bom vào thường dân hoặc tấn công vào các cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự sống còn của họ. Chúng ta không thể chấp nhận rằng trẻ em chết cóng vì bệnh viện đã bị phá hủy hoặc mạng lưới năng lượng của một quốc gia đã bị tấn công.
Toàn thể cộng đồng quốc tế dường như đều đồng ý về nhu cầu tôn trọng luật nhân đạo quốc tế, nhưng việc không thực hiện đầy đủ và cụ thể luật đó đặt ra nhiều câu hỏi. Nếu chúng ta đã quên mất điều nằm ở nền tảng của sự tồn tại của chúng ta, tính thiêng liêng của sự sống, các nguyên tắc tác động đến thế giới, thì làm sao chúng ta có thể nghĩ rằng quyền này được tôn trọng một cách hiệu quả? Chúng ta cần khôi phục lại những giá trị này và thể hiện chúng trong các nguyên tắc của lương tâm công chúng, để nguyên tắc nhân đạo thực sự trở thành nền tảng cho hoạt động của chúng ta. Do đó, tôi tin rằng năm Đại lễ này sẽ là thời điểm thuận lợi để cộng đồng quốc tế có những bước đi tích cực nhằm bảo đảm rằng các quyền bất khả xâm phạm của con người không bị hy sinh cho các nhu cầu quân sự.
Trên cơ sở này, tôi yêu cầu các nỗ lực được thực hiện để tiếp tục bảo đảm rằng việc coi thường luật nhân đạo quốc tế không còn là một lựa chọn nữa. Cũng cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa để bảo đảm rằng các vấn đề được thảo luận tại Hội nghị Hồng Thập Tự và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế lần thứ 34 diễn ra vào tháng 10 năm ngoái tại Geneva sẽ được thực hiện. Kỷ niệm 75 năm Công ước Geneva vừa được kỷ niệm, và vẫn cần thiết phải thực hiện các chuẩn mực và nguyên tắc mà các Công ước này dựa trên trong quá nhiều chiến trường mở.
Trong số đó, tôi nghĩ đến những xung đột khác nhau vẫn đang tiếp diễn ở lục địa Phi Châu, đặc biệt là ở Sudan, Sahel, Sừng Phi Châu, Mozambique, nơi đang diễn ra một cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng, và ở các vùng phía đông của Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi người dân phải chịu đựng nhu cầu y tế và nhân đạo nghiêm trọng, đôi khi còn trầm trọng hơn bởi tai họa khủng bố, dẫn đến mất mát về người và hàng triệu người phải di dời. Ngoài ra, chúng ta có thể thêm vào đó những tác động tàn phá của lũ lụt và hạn hán, làm trầm trọng thêm tình trạng vốn đã bấp bênh ở nhiều nơi khác nhau của Phi Châu.
Tuy nhiên, viễn cảnh về một nền ngoại giao tha thứ không chỉ nhằm mục đích chữa lành các cuộc xung đột quốc tế hay khu vực. Nó khiến mọi người có trách nhiệm trở thành một nghệ nhân hòa bình, để xây dựng những xã hội thực sự hòa bình, trong đó những khác biệt chính trị, xã hội, văn hóa, sắc tộc và tôn giáo hợp pháp tạo nên một tài sản chứ không phải là nguồn gốc của hận thù và chia rẽ.
Tôi đặc biệt nghĩ đến Miến Điện, nơi người dân phải chịu đựng rất nhiều đau khổ vì các cuộc đụng độ vũ trang liên miên khiến họ phải rời bỏ nhà cửa và sống trong sợ hãi.
Thật đau đớn khi thấy rằng vẫn còn, đặc biệt là ở Mỹ Châu, nhiều tình huống xung đột chính trị và xã hội gay gắt. Tôi nghĩ đến Haiti, nơi tôi tin rằng các bước cần thiết có thể được thực hiện càng sớm càng tốt để tái lập trật tự dân chủ và chấm dứt bạo lực. Tôi cũng nghĩ đến Venezuela và cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng mà nước này đang trải qua, cuộc khủng hoảng này chỉ có thể được khắc phục bằng sự tuân thủ chân thành các giá trị của sự thật, công lý và tự do, bằng sự tôn trọng đối với sự sống, phẩm giá và quyền của mọi người, bao gồm cả những người bị bắt do các sự kiện trong những tháng gần đây, bằng sự từ chối mọi hình thức bạo lực và, chúng ta hãy hy vọng, bằng sự bắt đầu các cuộc đàm phán một cách thiện chí và hướng đến lợi ích chung của đất nước. Tương tự như vậy, tôi nghĩ đến Bolivia, nơi đang trải qua tình hình chính trị, xã hội và kinh tế đáng lo ngại, và Colombia, nơi tôi tin rằng với sự giúp đỡ của mọi người, có thể chấm dứt nhiều cuộc xung đột đã xé nát đất nước từ lâu. Cuối cùng, tôi nghĩ đến Nicaragua, nơi Tòa thánh, luôn cởi mở với cuộc đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng, quan tâm theo dõi các biện pháp được áp dụng đối với các cá nhân và tổ chức của Giáo hội và yêu cầu tự do tôn giáo và các quyền cơ bản khác phải được bảo đảm đầy đủ cho tất cả mọi người.
Cuối cùng, không thể có hòa bình thực sự nếu không có sự bảo đảm về tự do tôn giáo, bao gồm sự tôn trọng lương tâm của cá nhân và khả năng công khai thể hiện đức tin và tư cách thành viên của một người trong một cộng đồng. Về vấn đề này, những biểu hiện ngày càng gia tăng của chủ nghĩa bài Do Thái, mà tôi cực lực lên án, và ảnh hưởng đến ngày càng nhiều cộng đồng Do Thái trên khắp thế giới, là nguồn gốc của mối quan ngại sâu sắc.
Tôi cũng không thể im lặng về nhiều cuộc đàn áp chống lại nhiều cộng đồng Kitô giáo khác nhau, thường do các nhóm khủng bố thực hiện, đặc biệt là ở Phi Châu và Á Châu. Cũng không thể im lặng về các hình thức hạn chế tự do tôn giáo “kín đáo” hơn đôi khi cũng được tìm thấy ở Âu Châu, nơi các chuẩn mực pháp lý và thông lệ hành chính đang gia tăng, “hạn chế hoặc thực tế là hủy bỏ các quyền được Hiến pháp chính thức công nhận đối với các tín hữu cá nhân và các nhóm tôn giáo”. [4] Về vấn đề này, tôi xin nhắc lại rằng tự do tôn giáo cấu thành “thành tựu của một nền văn hóa chính trị và pháp lý lành mạnh”, [5] bởi vì khi nó “được thừa nhận, phẩm giá của con người được tôn trọng tận gốc rễ, và bản sắc và thể chế của các dân tộc được củng cố”. [6]
Các tín hữu Kitô có khả năng và mong muốn đóng góp tích cực vào việc xây dựng xã hội nơi họ sinh sống. Ngay cả khi họ không phải là đa số trong xã hội, họ vẫn là công dân theo đúng nghĩa của mình, đặc biệt là ở những vùng đất mà họ đã sinh sống từ thời xa xưa. Tôi đặc biệt nói về Syria, sau nhiều năm chiến tranh và tàn phá, dường như đang theo đuổi con đường ổn định. Tôi hy vọng rằng toàn vẹn lãnh thổ, sự thống nhất của người dân Syria và các cải cách hiến pháp cần thiết sẽ không bị bất kỳ ai xâm phạm, và cộng đồng quốc tế sẽ giúp Syria trở thành vùng đất chung sống hòa bình, nơi tất cả người Syria, bao gồm cả cộng đồng Kitô giáo, có thể cảm thấy mình là công dân trọn vẹn và chia sẻ lợi ích chung của quốc gia yêu dấu đó.
Tôi cũng nghĩ đến đất nước Li Băng thân yêu, và bày tỏ hy vọng rằng đất nước này, với sự giúp đỡ quyết liệt của cộng đồng Kitô giáo, có thể sở hữu sự ổn định về mặt thể chế cần thiết để giải quyết tình hình kinh tế và xã hội nghiêm trọng, để xây dựng lại miền Nam đất nước bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, và thực hiện đầy đủ Hiến pháp và Hiệp định Taif. Mong rằng tất cả người dân Li Băng sẽ làm việc để bảo đảm rằng đất nước của những cây tuyết tùng vĩ đại không bao giờ bị biến dạng bởi sự chia rẽ, mà thay vào đó được tôn vinh vì “sống chung”. Mong rằng Li Băng vẫn là một đất nước và là thông điệp của sự chung sống và hòa bình.
Tuyên bố tự do cho những người bị giam cầm
Hai ngàn năm của Kitô giáo đã giúp xóa bỏ chế độ nô lệ khỏi mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, nhiều hình thức nô lệ vẫn tồn tại, bắt đầu từ hình thức nô lệ ít được thừa nhận nhưng được thực hành rộng rãi liên quan đến lao động. Quá nhiều người sống như nô lệ cho công việc của họ, từ một phương tiện trở thành mục đích, và thường bị xiềng xích vào các điều kiện làm việc vô nhân đạo về mặt an toàn, giờ làm việc và tiền lương. Cần phải nỗ lực để tạo ra các điều kiện làm việc có phẩm giá, để công việc, bản thân nó cao quý và tôn quý, không trở thành rào cản đối với sự hoàn thiện và phát triển của con người. Đồng thời, cần phải bảo đảm rằng có các cơ hội việc làm thực sự, đặc biệt là khi tình trạng thất nghiệp lan rộng khuyến khích làm việc không khai báo và do đó là tội phạm.
Sau đó là nạn nô lệ khủng khiếp của nghiện ma túy, đặc biệt ảnh hưởng đến những người trẻ tuổi. Thật không thể chấp nhận được khi thấy số lượng cuộc sống, gia đình và quốc gia bị hủy hoại bởi tệ nạn này, dường như đang gia tăng, một phần là do sự xuất hiện của các loại ma túy tổng hợp thường gây tử vong, được bán rộng rãi do hậu quả của hiện tượng buôn bán ma túy tàn bạo.
Trong số các hình thức nô lệ khác trong thời đại của chúng ta, một trong những hình thức khủng khiếp nhất là nạn buôn người do những kẻ vô đạo đức lợi dụng nhu cầu của hàng ngàn người chạy trốn chiến tranh, nạn đói, sự đàn áp hoặc tác động của biến đổi khí hậu để tìm kiếm một nơi an toàn để sống. Ngoại giao hy vọng là ngoại giao tự do, đòi hỏi sự cam kết chung của cộng đồng quốc tế nhằm xóa bỏ hoạt động thương mại kinh hoàng này.
Đồng thời, cần phải chăm sóc những nạn nhân của nạn buôn người này, chính những người di cư, những người bị buộc phải đi bộ hàng ngàn cây số ở Trung Mỹ hoặc sa mạc Sahara, hoặc băng qua Biển Địa Trung Hải hoặc Eo biển Manche trên những chiếc thuyền tạm bợ chật cứng, chỉ để bị từ chối hoặc buộc phải sống lén lút ở một quốc gia xa lạ. Chúng ta có thể dễ dàng quên rằng chúng ta đang đối phó với những con người thực sự cần được chào đón, bảo vệ, thúc đẩy và hòa nhập. [7]
Tôi thấy rất nản lòng khi thấy rằng di cư vẫn bị bao phủ trong một đám mây đen ngờ vực, thay vì được coi là nguồn trao quyền. Những người di cư chỉ được coi là một vấn đề cần được quản lý. Họ không thể bị đối xử như những đồ vật để di chuyển; họ có phẩm giá và nguồn lực mà họ có thể cung cấp cho người khác; họ có những trải nghiệm, nhu cầu, nỗi sợ hãi, khát vọng, ước mơ, kỹ năng và tài năng của riêng mình. Chỉ bằng cách nhìn nhận mọi thứ theo góc độ này, chúng ta mới có thể đạt được tiến bộ trong việc đối mặt với một hiện tượng đòi hỏi sự đóng góp của tất cả các quốc gia, đặc biệt là thông qua việc tạo ra các con đường an toàn thường xuyên.
Sau đó, điều quan trọng là chúng ta phải giải quyết nguyên nhân gốc rễ của việc di dời, để việc rời bỏ quê hương để tìm nơi khác là một lựa chọn chứ không phải là phương tiện cần thiết để sinh tồn. Với suy nghĩ này, tôi coi cam kết chung về hợp tác phát triển, như một phương tiện giúp loại bỏ một số nguyên nhân khiến mọi người di cư, là điều cần thiết.
Trả tự do cho tù nhân
Cuối cùng, ngoại giao hy vọng là ngoại giao công lý, nếu không có nó thì không thể có hòa bình. Năm Thánh là thời điểm thuận lợi để thực hành công lý, xóa nợ và giảm án cho tù nhân. Tuy nhiên, không có khoản nợ nào cho phép bất kỳ ai, kể cả Nhà nước, đòi mạng sống của người khác. Về vấn đề này, tôi nhắc lại lời kêu gọi xóa bỏ án tử hình ở mọi quốc gia,[8] vì ngày nay không tìm thấy lý do chính đáng nào trong số các công cụ có khả năng khôi phục công lý.
Chúng ta cũng không thể quên rằng, theo một nghĩa nào đó, tất cả chúng ta đều là tù nhân, vì tất cả chúng ta đều là con nợ: đối với Chúa, đối với người khác, và cả đối với trái đất thân yêu của chúng ta, nơi chúng ta rút ra nguồn sống hàng ngày. Như tôi đã quan sát trong Thông điệp hàng năm của mình cho Ngày Hòa bình Thế giới, “mỗi người chúng ta phải cảm thấy theo một cách nào đó có trách nhiệm đối với sự tàn phá mà Trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta, đã phải chịu”. [9] Bản thân thiên nhiên dường như ngày càng nổi loạn chống lại hành động của con người bằng những biểu hiện cực đoan về sức mạnh của nó. Ví dụ về điều này là lũ lụt tàn khốc ở Trung Âu và Tây Ban Nha, các cơn bão tấn công Madagascar vào mùa xuân và ngay trước Giáng sinh, là Bộ Mayotte và Mozambique của Pháp.
Chúng ta không thể thờ ơ trước tất cả những điều này! Chúng ta không có quyền đó! Thay vào đó, chúng ta có nhiệm vụ phải nỗ lực hết sức để chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và cư dân của nó, hiện tại và trong tương lai.
Tại COP 29 ở Baku, các quyết định đã được đưa ra để bảo đảm nguồn tài chính lớn hơn cho hành động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tôi tin rằng những quyết định này sẽ cho phép chia sẻ nguồn lực cho nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng khí hậu và gánh chịu gánh nặng nợ kinh tế nặng nề. Với suy nghĩ này, tôi yêu cầu các quốc gia giàu có hơn xóa nợ cho các quốc gia không bao giờ có thể trả được nợ. Đây không chỉ đơn thuần là một hành động đoàn kết hay hào phóng, mà trên hết là một hành động công lý, cũng xét đến một hình thức bất bình đẳng mới mà chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn ngày nay: “nợ sinh thái” tồn tại đặc biệt giữa Bắc và Nam bán cầu. [10]
Cũng xét đến món nợ sinh thái này, điều quan trọng là phải tìm ra những cách thức hiệu quả để chuyển đổi nợ nước ngoài của các nước nghèo thành các chính sách và chương trình hiệu quả, sáng tạo và có trách nhiệm để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người. Tòa Thánh sẵn sàng đồng hành với tiến trình này, với nhận thức rằng không còn bất kỳ biên giới hay rào cản nào, chính trị hay xã hội, mà chúng ta có thể ẩn náu. [11]
Trước khi kết thúc, tôi muốn bày tỏ lời chia buồn và cầu nguyện cho các nạn nhân và những người đang phải chịu đau khổ vì trận động đất xảy ra ở Tây Tạng hai ngày trước.
Kính thưa các Đại sứ,
Theo quan điểm Kitô giáo, Năm Thánh là mùa ân sủng. Tôi mong muốn năm 2025 này thực sự là năm ân sủng, tràn đầy chân lý, lòng tha thứ, tự do, công lý và hòa bình! “Trong trái tim của mỗi người, hy vọng ngự trị như mong muốn và kỳ vọng về những điều tốt đẹp sắp đến”, [12] và mỗi người chúng ta được kêu gọi làm cho hy vọng nở rộ xung quanh chúng ta. Đây là lời chúc chân thành của tôi dành cho tất cả các bạn, các Đại sứ thân mến, cho gia đình các bạn, và cho các chính phủ và dân tộc mà các bạn đại diện. Mong rằng hy vọng sẽ nở rộ trong trái tim chúng ta và mong rằng thời đại của chúng ta tìm thấy hòa bình mà nó vô cùng khao khát. Cảm ơn các bạn.
[1] Thông điệp Fratelli Tutti, 3 tháng 10 năm 2020, 27.
[2] So sánh Cuộc họp với các cơ quan dân sự, đại diện của người dân bản địa và đoàn ngoại giao, Citadelle de Québec, ngày 27 tháng 7 năm 2022.
[3] Thông điệp Fratelli Tutti, 3 tháng 10 năm 2020, 262; xem. Thánh Phaolô Đệ Lục, Thông điệp Populorum Progressio, 26/03/1967, 51.
[4] Thánh Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm 1988, ngày 1 Tháng Giêng năm 1988, 2.
[5] Đức Bênêđíctô XVI, Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2011, ngày 1 Tháng Giêng năm 2011, 5.
[6] Thượng dẫn
[7] So sánh Bài phát biểu trước những người tham dự Diễn đàn quốc tế về “Di cư và Hòa bình”, ngày 21 tháng 2 năm 2017.
[8] X. Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2025, ngày 1 Tháng Giêng năm 2025, 11.
[9] Thượng dẫn, 4.
[10] X. Tông Sắc Spes Non Confundit – Hy vọng không làm thất vọng - (ngày 9 tháng 5 năm 2024), 16; Thông điệp Laudato Si', hay 24 tháng 5 năm 2015, 51.
[11] Xem. Thông điệp Laudato Si', 52.
[12] Tông Sắc Spes Non Confundit – Hy vọng không làm thất vọng, 1.
Ngày xưa trước khi Chúa Giesu rao giảng Nước Thiên Chúa, Ông Gioan Tầy gỉa đã vào sa mạc rao giảng dọn đường cho Chúa Giêsu đến. Không chỉ rao giảng bằng những lời đanh thép răn bảo, nhưng Ông còn làm Phép Rửa nữa ở bờ sông Jordan bên nước Do Thái ( Lc 3, 1/18)
Không chỉ đoàn lũ dân chúng Do Thái thời lúc đó, thuộc dủ mọi thành phàn tầng lớp xã hội đạo đời, kéo đến nghe Ông Giaon giảng đạo và còn xin chịu phép Rửa nữa, để tỏ lòng ăn năn sám hối và được thanh tẩy khỏi tội lỗi sự dữ.
Và một nhân vật cao cả cũng đến xin nhận phép Rửa của Ông Gioan bên bờ sông Jordan như mọi người khác: Chúa Giêsu Kitô!
Kinh thánh không nói đến Chúa Giêsu Kitô làm phép rửa trên bước đường 3 năm rao giảng nước Thiên Chúa ở trần gian. Nhưng trước khi trở về Trời cao Ngài đã trao cho các Tông Đồ, Giáo Hội Chúa ở trần gian nhiệm vụ đi rao giảng nước Thiên Chúa và làm Phép Rửa:
“ Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” ( Mt 28,18/20)
Do đó những người tín hữu Chúa Kito đều được chịu phép Rửa từ khi còn thơ bé do Giáo hội Chúa cử hành ban Bí tích này.
Ông Gioan Tẩy giả làm phép Rửa ở bờ sông Jordan, nơi nước thiên nhiên chảy từ thượng nguồn trên. Vùng núi cao nguyên phía Bắc xuống bên dưới. Để biểu hiện sự thay đổi tận trong tâm hồn, người xin chịu phép rửa phải để Ông Gioan ấn nhận xuống dòng nước sông Jordan, và rồi được ông kéo lên khỏi mặt nước. Hành động này nói lên sự bắt đầu mới, lỗi lầm khiếm khuyết rũ sạch bỏ lại, sự dữ tội lỗi bị ấn chìm trong dòng nước trôi đi. Qua đó được thanh thản tự do cho bắt đầu nếp sống mới thanh sạch cho Thiên Chúa.
Chúa Jesus Kitô, Con Thiên Chúa, một Đấng Thánh đâu có khiếm khuyết tội lỗi gì, cũng đã đến xin Ông Giaon làm phép Rửa cho mình như mọi người khác trong dòng sông Jordan. Tại sao vậy?
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, không cần đến phép Rửa tẩy sạch tỏ lòng thống hối ăn năn của Ông Gioan làm gì. Nhưng dẫu vậy Ngài lại làm như những người khác. Ngài muốn biểu hiệu tình yêu, tình liên đới với con người chúng ta.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, muốn trở nên một con người như chúng ta, nên Ngài đã chấp nhận sinh ra trong cảnh nghèo khó nơi hang chuồng xúc vật ở ngoài cánh đồng Bethlehem, và cũng muốn cùng chung trải qua với con người với phép rửa của Gioan bên bờ sông Jordan.
Khi Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem, chỉ có các người mục đồng, và cá vị Đạo sĩ từ vùng trời Đông phương đã hành hương đến hang chuồng xúc vật nhận ra Ngài, kính viếng bái thờ Ngài.
Dân chúng không đến hang chuồng xúc vật nơi hài nhi Giêsu sinh ra, nhưng quãng chừng 30 năm sau mới nhận ra Ngài, một người đã trưởng thành, bên bờ sông Jordan. Vì lúc đó Ngài bắt đầu ra đi rao giảng nước tình yêu Thiên Chúa cho trần gian. Chính tiếng nói của Thiên Chúa Cha đã loan tin cho mọi người biết:
“Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người.17 Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” ( Mt 3,16/17)
Trong chuồng xúc vật ở Bethlehem, trong dòng nước sông Jordan Chúa Giesu Kitô đã sống gần gũi con người xã hội trần gian. Người là một người trong họ, và được tỏ ra là Con Thiên Chúa. Ngày nay chúng ta mừng lễ Chúa giáng sinh cách khác, không phải với hài nhi Giesu nữa, nhưng là Chúa Giêsu người trưởng thành.
Giữa hang chuồng xúc vật Bethlehem và địa điểm phép rửa của Ông Gioan ở dòng sông Jordan có mối giây liên hệ với nhau về hình thể địa lý.
Bethlehem nằm ở vùng đồi núi cao, khoảng gần 800 mét trên mặt nước biển. Nơi đây Chúa Giêsu đã sinh ra mở mắt chào đời và từ nơi cao đó chiếu dọi ánh sáng tỏa xuống khắp xứ miền Judea.
Địa điểm nơi Ông Gioan làm phép Rửa, cũng là nơi Chúa Giêsu được Ông Gioan ban cho phép Rửa, bên bở sông Jordan, thấp sâu nhất. Sông Jordan chẩy ra biển Chết và nơi đó khoảng 400 mét dưới mực mặt nước biển. Vì thế Ông Gioan đã chọn nơi nầy làm phép rửa không phải là không có lý do.
Mọi người từ vùng sinh sống miền núi đồi Judea hay vùng cao nguyên Galilea đến xin chíu phép Rửa, phải chấp nhận bé nhỏ đi, phải xuống nơi vùng thấp bên bờ sông, và nơi đó họ được ấn nhận dìm mình trong dòng nước, rồi được kéo lên khỏi dòng nước. Con đường đời sống trước hết bắt đầu từ bên dưới thấp, rôi tiếp theo đi lên. Sự thể này nói lên cung cách sống lòng khiêm nhượng.
Lễ Chúa giáng sinh chỉ ra: Thiên Chúa làm người trong xã hội trần gian, Ngài trở nên bé nhỏ, để cùng đồng hành với con người, sống giữa dòng đời sống xã hội nhân loại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
1. BỊ SĂN ĐUỔI Các đại tá hàng đầu của Nga ‘bị giết trong cuộc tấn công chớp nhoáng của Storm Shadow’ tại sở chỉ huy. Trong khi đó, cuộc phục kích bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine ‘xóa sổ chỉ huy tiểu đoàn’
Một cặp đại tá hàng đầu của Vladimir Putin được cho là đã bị tiêu diệt trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn Storm Shadow đầy kịch tính của Ukraine.
Cuộc phục kích bằng máy bay điều khiển từ xa chết người được cho là đã tiêu diệt một đại tá người Nga và một tiểu đoàn trưởng đang ẩn náu trong một hầm trú ẩn kiên cố ở Kursk.
Đại Tá Valery Tereshchenko là mục tiêu bị tấn công tại sở chỉ huy cùng với bảy sĩ quan cao cấp khác.
Một trong số đó có Đại tá Pavel Maletsky, 39 tuổi, chỉ huy tiểu đoàn công binh độc lập số 656.
Trong các cáo phó được công bố vào ngày Thứ Ba, 07 Tháng Giêng, người ta được biết vụ nổ chết người đã xảy ra tại thành phố Lgov vào ngày 30 tháng 12.
Có thể nhìn thấy những tia sáng màu cam rực rỡ ở khu vực được cho là nơi đặt sở chỉ huy trước khi một quả cầu lửa khổng lồ bùng nổ.
Người ta cho rằng vũ khí được sử dụng là do Anh cung cấp cho Ukraine.
Hỏa tiễn Storm Shadow đã chứng tỏ là vũ khí quan trọng trong kho vũ khí của phương Tây khi chúng tiếp tục giúp đồng minh ở Ukraine chống lại Nga.
Những quả hỏa tiễn nặng 450kg có khả năng dễ dàng tránh được hệ thống phòng không của trùm mafia Vladimir Putin và bắn chính xác mục tiêu ở tốc độ lên tới 600mph.
Những thương vong cao cấp chỉ mới được tiết lộ vào hôm nay khi thông tin chi tiết về đám tang của họ được công bố.
Putin vẫn chưa chính thức công bố số người tử vong trong khi truyền thông Nga vẫn im lặng về vụ nổ.
Nhưng Liên đoàn khúc côn cầu trên băng của các sĩ quan Nga đã đăng tải lời tri ân tới Tereshchenko trên Telegram.
Họ tuyên bố “với sự cay đắng và đau buồn trong lòng” rằng Tereshchenko đã tử nạn trong cuộc tấn công bằng hỏa tiễn.
Ông đóng vai trò chủ chốt trong cuộc xâm lược bất hợp pháp của Nga vào Ukraine kể từ khi gia nhập Điện Cẩm Linh vào tháng 10 năm 2022.
Người ta cho biết ông sẽ được chôn cất vào cuối ngày Thứ Ba, 07 Tháng Giêng.
Một người bạn thân thiết của Maletsky cũng đã xuất hiện để xác nhận cái chết của đại tá trong cùng vụ tấn công.
Truyền thông Ukraine đưa tin, sáu người Nga khác cũng đã thiệt mạng cùng với hai nhân vật chủ chốt trong cuộc tập trận của Putin.
Người ta tin rằng có thêm 22 quân nhân bị thương trong vụ nổ.
Những cái chết gây thiệt hại cho Điện Cẩm Linh xảy ra sau khi một chỉ huy hỏa tiễn cao cấp khác của Nga bị tấn công trả thù bởi quân đội Ukraine.
Theo tình báo quân sự Ukraine, Đại úy Konstantin Nagayko, 29 tuổi, đang chiến đấu giành giật sự sống trong “tình trạng nguy kịch” sau khi đồn của anh ở vùng Ivanovo, Nga bị phá hủy.
Người ta nói rằng Nagayko, người bị Kyiv cáo buộc phạm tội ác chiến tranh, đã phải trải qua nhiều cuộc phẫu thuật sau khi “tất cả các cơ quan quan trọng của ông đều bị tổn thương”.
Nga tuyên bố rằng Ukraine đã thực hiện một loạt vụ ám sát có chủ đích kể từ khi chiến tranh nổ ra vào tháng 2 năm 2022.
Tướng Igor Kirillov, 54 tuổi, đã thiệt mạng sau khi một quả bom trong chiếc xe tay ga điện của ông phát nổ bên ngoài căn nhà của ông ở Mạc Tư Khoa.
Đoạn phim ấn tượng cho thấy khoảnh khắc thiết bị phát nổ chỉ vài giây sau khi vị tướng và trợ lý Ilya Polikarpov rời khỏi nhà.
Người ta tin rằng khoảng 200g thuốc nổ TNT gắn trên xe tay ga đã được kích nổ từ xa.
FSB tuyên bố Kurbanov được Kyiv trả 100.000 đô la và hộ chiếu Âu Châu để thực hiện vụ ám sát.
Trong khi đó, thuyền trưởng hải quân Stanislav Rzhitsky, 42 tuổi, đã bị bắn chết sau khi một sát thủ truy tìm anh ta bằng một ứng dụng thể dục phổ biến
Anh ta đang chạy bộ qua thành phố Krasnodar của Nga thì bị bắn chết.
[The Sun: HUNTED DOWN Top Russian colonels ‘killed in Storm Shadow blitz’ on command post as Ukraine drone ambush ‘wipes out battalion chief’]
2. Donald Trump đưa ra tối hậu thư cho Hamas về việc thả con tin
Tổng thống đắc cử Donald Trump đang đưa ra tối hậu thư cho Hamas, nói rằng nếu các con tin không được thả trước lễ nhậm chức của ông vào hai tuần nữa, “mọi thứ sẽ trở nên tồi tệ”.
“Nếu họ không quay trở lại trước khi tôi nhậm chức, Trung Đông sẽ hỗn loạn, và điều đó sẽ không tốt cho Hamas, và thành thật mà nói, sẽ không tốt cho bất kỳ ai”, Tổng thống đắc cử Donald Trump phát biểu trong cuộc họp báo hôm Thứ Ba, 07 Tháng Giêng.
“Tôi không cần phải nói thêm nữa, nhưng sự thật là vậy,” tổng thống đắc cử phát biểu khi xuất hiện cùng Steve Witkoff, đặc phái viên của ông tại Trung Đông.
Tối hậu thư của Tổng thống đắc cử Donald Trump sẽ cho Hamas 13 ngày để thả các con tin bị bắt giữ hơn một năm trước khi nhóm này tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023.
Lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Donald Trump sẽ được tổ chức vào ngày 20 tháng Giêng.
Witkoff cho biết ông vừa trở về từ các cuộc thảo luận về việc thả con tin ở Doha, Qatar, và thỏa thuận này bao gồm các nỗ lực giải cứu khoảng 100 con tin đang bị giam giữ ở Gaza.
“Tôi tin rằng chúng ta đã ở bờ vực của nó. Tôi không muốn thảo luận về những gì đã trì hoãn nó”, Witkoff cho biết hôm thứ Ba.
Witkoff, một nhà đầu tư bất động sản Florida và là bạn thân của tổng thống đắc cử, đã được bổ nhiệm làm phái viên Trung Đông của chính quyền mới vào tháng trước. Các quan chức của Tổng thống đắc cử Donald Trump đã thừa nhận rằng họ đang phối hợp với chính quyền Tổng thống Biden về cuộc khủng hoảng trong khu vực.
Đầu tuần này, có thông tin cho biết Hamas đã chấp thuận khả năng thả 34 con tin để ủng hộ thỏa thuận ngừng bắn với Israel, bao gồm 10 phụ nữ, cũng như trẻ nhỏ. Không rõ có bao nhiêu người trong danh sách vẫn còn sống sau khi bị giam giữ ở Gaza hơn một năm, nhưng các quan chức Israel tin rằng khoảng hai phần ba trong số khoảng 100 con tin vẫn còn sống.
Tổng thống đắc cử Donald Trump lần đầu đưa ra bình luận về việc sẽ “phải trả giá đắt” trong bài đăng trên Truth Social vào ngày 2 tháng 12, sau khi IDF cho biết Hamas đã giết chết Omer Neutra, người Mỹ gốc Israel, vào ngày 7 tháng 10 và giữ thi thể ông làm con tin kể từ đó.
Steve Witkoff, đặc phái viên của Tổng thống đắc cử Donald Trump tại Trung Đông, trong cuộc họp báo hôm thứ Ba: “Tôi thực sự hy vọng rằng đến lễ nhậm chức, chúng tôi sẽ có một số điều tốt đẹp để công bố thay mặt cho tổng thống.”
Ngoại trưởng Antony Blinken phát biểu với các phóng viên vào thứ Hai: “Chúng tôi rất muốn hoàn thành mục tiêu này trong hai tuần tới, thời gian còn lại của chúng tôi”.
Văn phòng Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, trong một tuyên bố hôm thứ Hai: “Danh sách các con tin được công bố trên phương tiện truyền thông không phải do Hamas cung cấp cho Israel mà ban đầu được Israel chuyển cho những người hòa giải vào tháng 7 năm 2024. Cho đến nay, Israel vẫn chưa nhận được bất kỳ xác nhận hoặc bình luận nào từ Hamas về tình trạng của các con tin xuất hiện trong danh sách. Israel sẽ tiếp tục hành động không ngừng nghỉ để trả lại tất cả các con tin của chúng tôi.”
Tổng thống đắc cử Donald Trump, trên The Hugh Hewitt Show: “Tôi là người bạn tốt nhất của Israel. Tôi đã chuyển đại sứ quán đến Giêrusalem—mọi thứ đều tốt đẹp, bao gồm cả Hiệp định Abraham, và mọi sự kiện tích cực lớn ở Israel gần đây đều là vì tôi. Tôi cũng phải lưu ý rằng tôi ủng hộ hòa bình—bây giờ là lúc.”
Witkoff cho biết hôm thứ Ba rằng ông đang có kế hoạch quay trở lại Doha để tiếp tục đàm phán vào thứ Tư hoặc thứ Năm.
[Newsweek: Donald Trump Gives Hamas an Ultimatum for Hostage Releases]
3. Nga sẽ gửi công nghệ vũ trụ tiên tiến tới Bắc Hàn, Blinken nói
Hôm Thứ Hai, 06 Tháng Giêng, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken cho biết trong chuyến thăm Nam Hàn rằng Nga sắp gửi công nghệ vũ trụ tiên tiến của mình tới Bắc Hàn và cũng có thể sớm chấp nhận Bình Nhưỡng là một cường quốc hạt nhân.
Những bình luận này được đưa ra khi Nga tăng cường liên minh quân sự với Bắc Hàn, khi quân đội nước này chiến đấu cùng quân đội Điện Cẩm Linh ở Ukraine, và sau khi Bình Nhưỡng bắn một hỏa tiễn đạn đạo vào Biển Đông hôm thứ Hai.
“Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Bắc Hàn đã nhận được thiết bị quân sự và đào tạo của Nga”, Blinken nói trong chuyến đi tới Hán Thành. “Bây giờ chúng tôi có lý do để tin rằng Mạc Tư Khoa có ý định chia sẻ công nghệ vệ tinh và không gian tiên tiến với Bình Nhưỡng”.
Hơn nữa, Blinken cho biết trong chuyến thăm cuối cùng tới Hán Thành với tư cách là nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ, Mạc Tư Khoa “có thể sắp đảo ngược chính sách kéo dài hàng thập niên” và công nhận Bắc Hàn là một cường quốc hạt nhân.
Lời đề nghị cung cấp dịch vụ phóng tàu vũ trụ của Bắc Hàn cùng với sự giúp đỡ chế tạo vệ tinh trước đó đã được đưa tin là một phần quan trọng trong thỏa thuận để Mạc Tư Khoa nhận được đạn pháo từ quốc gia bí ẩn và độc tài này để sử dụng trong cuộc chiến với Ukraine.
Tháng 5 năm ngoái, cơ quan tuyên truyền nhà nước Bắc Hàn, Thông tấn xã Trung ương Bắc Hàn đưa tin vụ phóng vệ tinh do thám thứ hai của Bình Nhưỡng đã thất bại ngay sau khi cất cánh từ một địa điểm ở phía bắc đất nước, có thể là do trục trặc ở động cơ.
[Politico: Russia will send advanced space tech to North Korea, Blinken says]
4. Báo cáo về vụ cháy lớn tại kho dầu ở Saratov của Nga sau cuộc tấn công khổng lồ bằng máy bay điều khiển từ xa
Một đám cháy lớn đã thiêu rụi một kho dầu vào đêm ngày 8 Tháng Giêng tại thành phố Engels thuộc tỉnh Saratov, nhiều kênh truyền thông Telegram của Nga đưa tin.
Thống đốc tỉnh Saratov Roman Busargin cho biết mảnh vỡ máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã tấn công một “cơ sở công nghiệp” không xác định vào khoảng 5:30 sáng giờ địa phương, trong bối cảnh một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa “lớn” vào thành phố. Kênh Telegram của Nga ASTRA đưa tin, trích dẫn lời kể của cư dân, rằng một kho dầu trong thành phố đã bốc cháy.
Hiện chưa có thông tin về mức độ thiệt hại. Busargin cho biết không có thương vong nào do vụ tấn công.
Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố 11 máy bay điều khiển từ xa tấn công của Ukraine đã bị bắn hạ trên vùng Saratov.
Các video lan truyền trên mạng xã hội dường như cho thấy một đám cháy lớn đang bùng cháy tại kho dầu, khi lực lượng phòng không Nga cố gắng bắn hạ các máy bay điều khiển từ xa được báo cáo trên thành phố. Người dân báo cáo đã nghe thấy ít nhất năm tiếng nổ trước khi xảy ra hỏa hoạn.
Busargin cho biết thêm rằng lính cứu hỏa đang có mặt tại hiện trường để cố gắng dập tắt đám cháy.
Engels, nằm cách biên giới gần nhất do Ukraine kiểm soát hơn 750 km, trước đây từng là mục tiêu tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine, vì thành phố này có căn cứ không quân Engels-2.
Trong năm qua, lực lượng Ukraine đã tiến hành một loạt các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa nhằm mục đích phá hoại ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga, vốn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì các nỗ lực chiến tranh của Mạc Tư Khoa cũng như các thiết bị quân sự của nước này.
Trong khi cuộc xâm lược toàn diện của Nga vẫn tiếp diễn, Ukraine cũng tiếp tục tấn công các mục tiêu của Nga dọc biên giới Nga-Ukraine để gây thiệt hại cho chuỗi cung ứng quân sự của nước này.
[Kyiv Independent: Large fire reported at oil depot in Russia's Saratov Oblast following 'massive' drone attack]
5. Bản đồ Kursk cho thấy cuộc tấn công xuyên biên giới mới gây sốc của Ukraine
Hôm Chúa Nhật, 05 Tháng Giêng, Ukraine đã tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ mới vào khu vực Kursk của Nga, với bản đồ chiến trường cho thấy những bước tiến được báo cáo.
Cuộc tấn công mới ở khu vực Kursk phía tây của Nga diễn ra vài ngày trước khi Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Ông Donald Trump chuẩn bị nhậm chức nhiệm kỳ thứ hai. Tổng thống đắc cử Donald Trump đã nhiều lần nói rằng ông có thể nhanh chóng chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.
Với sự trở lại Tòa Bạch Ốc vào ngày 20 tháng Giêng, khả năng đàm phán hòa bình hoặc ngừng bắn có thể sắp xảy ra, và cả Nga và Ukraine đều có thể muốn tăng cường vị thế đàm phán của mình.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy và các quan chức chính phủ nổi tiếng trước đây đã ám chỉ rằng Kursk có thể là một phần của các cuộc đàm phán hòa bình có thể xảy ra. Cố vấn tổng thống Ukraine Mykhailo Podolyak đã gợi ý trong một chương trình phát sóng truyền hình quốc gia vào tháng 8 năm 2024 rằng cuộc tấn công Kursk vào mùa hè sẽ giúp thúc đẩy vị thế của Kyiv trong các cuộc đàm phán tiềm năng trong tương lai với Nga.
Cuộc tấn công mới của Kyiv sẽ là đòn giáng mạnh vào Putin khi thương vong chiến tranh gia tăng ở cả hai bên.
Những tiến triển mới nhất ở Kursk diễn ra gần sáu tháng sau khi Kyiv lần đầu tiên đưa quân vào khu vực này, chiếm giữ một vùng lãnh thổ trong một động thái đáng xấu hổ cho Putin.
Bộ Quốc phòng Nga cho biết trong một tuyên bố vào Chúa Nhật rằng Quân đội Ukraine đã tiếp tục cuộc tấn công ở Kursk, phát động một “cuộc phản công” để Kyiv có thể “ngăn chặn bước tiến của quân đội Nga”. Các blogger quân sự Nga cho biết lực lượng Ukraine đang tiến quân theo nhiều hướng.
Bộ tổng tham mưu Ukraine cho biết trong một bài đăng trên trang mạng xã hội vào sáng thứ Hai rằng lực lượng của họ đang tiếp tục chiến dịch ở khu vực Kursk và đã đẩy lùi 47 cuộc tấn công trong 24 giờ qua.
Bộ Quốc phòng Nga cho biết quân đội nước này đã đẩy lùi hai cuộc phản công của Ukraine, trong khi kênh Telegram Rybar của Nga có liên kết với bộ này cho biết hôm Chúa Nhật rằng giao tranh đang diễn ra gần thị trấn Berdin ở phía đông bắc Sudzha, “nơi ghi nhận mức độ hoạt động của đối phương cao nhất cho đến nay”.
Blogger quân sự người Nga Yuriy Podolyaka cho biết trên Telegram vào Chúa Nhật rằng Kyiv đã phát động một cuộc phản công “bất ngờ” và giao tranh dữ dội đang diễn ra gần Berdin.
“Lực lượng Ukraine đang tiến hành tấn công quyết liệt”, ông viết.
Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW, một tổ chức tư vấn có trụ sở tại Hoa Kỳ, đã đánh giá vào cuối Chúa Nhật rằng Kyiv đã nối lại các hoạt động tấn công ở ít nhất ba khu vực ở Kursk và đã có những bước tiến chiến thuật.
ISW cho biết: “Các cảnh quay định vị địa lý được công bố vào ngày 5 Tháng Giêng cho thấy lực lượng Ukraine đã tiến vào các cánh đồng ở phía tây nam và phía nam Berdin và tiến vào phần phía nam của thị trấn”.
Nhóm nghiên cứu này cho biết các blogger quân sự Nga đã công bố các bản đồ chiến trường được cập nhật cho thấy lực lượng Kyiv “cũng chiếm được Cherkasskoye Porechnoye, Martynovka và Mikhaylovka (tất cả đều ở phía đông bắc Sudzha và phía tây nam Berdin) tính đến ngày 5 Tháng Giêng và báo cáo rằng lực lượng Ukraine gần đây đã tiến vào Novosotnitsky (ngay phía đông Berdin); và tiến vào các cánh đồng phía tây Yamskaya Step (ngay phía tây bắc Berdin) và phía tây Novaya Sorochina (phía bắc Sudzha và phía tây bắc Berdin).”
Các blogger quân sự Nga đã lên tiếng lo ngại về khả năng tác chiến điện tử của Ukraine, được cho là đang ngăn cản lực lượng Nga vận hành máy bay điều khiển từ xa ở Kursk.
“Khu vực này được trang bị hệ thống tác chiến điện tử mạnh mẽ, không có bất kỳ thiết bị nào bay vào cả”, blogger quân sự Sergei Kolyasnikov viết.
ISW cho biết các báo cáo chỉ ra rằng lực lượng Ukraine hoạt động ở Kursk “đang sử dụng chiến thuật vũ trang kết hợp hiệu quả hơn”.
Cuộc tấn công ban đầu của Ukraine vào Kursk chứng kiến lực lượng của họ chiếm đất nhưng Nga đã chiếm lại được khoảng 40 phần trăm lãnh thổ đã mất. Tuy nhiên, lực lượng của Mạc Tư Khoa không thể đẩy lùi hoàn toàn quân đội Ukraine mặc dù Putin đã ra lệnh rằng quân đội Ukraine phải bị trục xuất hoàn toàn khỏi Kursk trước ngày 1 tháng 10 năm 2024.
Theo dự án OSINT DeepState của Ukraine, tính đến ngày 4 tháng Giêng, Ukraine đã kiểm soát 493 km2 khu vực Kursk.
Andriy Yermak, chánh văn phòng của Zelenskiy, đã cho biết vào Chúa Nhật mà không giải thích thêm: “Kursk, tin tốt đây, Nga đang nhận được những gì họ đáng nhận”.
Andriy Kovalenko, một quan chức của Hội đồng An ninh và Quốc phòng Quốc gia Ukraine cho biết trên Telegram: “Người Nga ở Kursk đang vô cùng lo lắng vì họ bị tấn công từ nhiều hướng và điều này khiến họ bất ngờ. Các lực lượng phòng thủ đang làm việc.”
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken phát biểu với các phóng viên tại Hán Thành vào thứ Hai: “Vị thế của Ukraine tại Kursk rất quan trọng vì chắc chắn đó là yếu tố sẽ ảnh hưởng đến bất kỳ cuộc đàm phán nào có thể diễn ra trong năm tới”.
Tổng tư lệnh quân đội Ukraine Oleksandr Syrsky trước đó đã phát biểu sau khi cuộc tấn công vào tháng 8 tại Kursk được phát động rằng một trong những mục tiêu của Kyiv là chuyển hướng “lực lượng đáng kể” của Nga khỏi các khu vực tiền tuyến ở Ukraine, bao gồm thành phố Pokrovsk ở phía đông Donetsk, một trung tâm hậu cần quan trọng cho các lực lượng Ukraine trong khu vực.
Đây có khả năng vẫn là mục tiêu chính của Quân đội Ukraine khi Nga tìm cách kiểm soát khu vực Donbas của Ukraine, bao gồm toàn bộ vùng Luhansk và Donetsk bị tạm chiếm.
Hiện vẫn chưa rõ Ukraine đã tiến xa đến mức nào ở khu vực Kursk kể từ Chúa Nhật.
[Newsweek: Kursk Maps Show Ukraine's Shock New Incursions Into Russia]
6. Ukraine tấn công sở chỉ huy lữ đoàn bộ binh của Nga ở Kursk
Bộ Tổng tham mưu Ukraine tuyên bố rằng vào ngày 7 tháng Giêng, quân đội Ukraine đã tấn công vào sở chỉ huy của Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến cận vệ 810 của Nga gần làng Belaya ở tỉnh Kursk của Nga.
Báo cáo được đưa ra vài ngày sau khi Ukraine được cho là đã tiến hành các hoạt động tấn công mới tại Kursk, được coi là một con bài mặc cả quan trọng cho các cuộc đàm phán hòa bình tiềm năng. Bộ Tổng tham mưu cho biết gần 100 cuộc tấn công trên bộ của Nga đã bị đẩy lùi tại Kursk trong ngày qua.
“Thiệt hại do hỏa hoạn như vậy là một phần không thể thiếu trong các hoạt động chiến đấu của các đơn vị Lực lượng Phòng vệ Ukraine, những đơn vị đang tham gia các hoạt động chiến đấu trên lãnh thổ Liên bang Nga”, tuyên bố viết.
Không có thêm thông tin chi tiết nào về vụ tấn công và mức độ thiệt hại được tiết lộ. Quân đội Nga chưa bình luận về tuyên bố của Ukraine.
Theo quân đội, một sở chỉ huy khác của Nga đã bị Ukraine tấn công tại Maryino, tỉnh Kursk vào ngày 2 tháng Giêng.
Lực lượng Ukraine đã phát động một chiến dịch quy mô lớn ở Tỉnh Kursk vào đầu tháng 8, được cho là đã chiếm được tới 1.300 km2, hay 500 dặm vuông, đất Nga.
Kể từ đó, Nga đã điều động quân tiếp viện - bao gồm cả lính Bắc Hàn - đến khu vực này
[Kyiv Independent: Ukraine war latest: Ukraine hits Russia's infantry brigade command post in Kursk Oblast, military claims]
7. Đồng minh NATO bật đèn xanh cho hàng chục quân tham gia chiến tranh Ukraine
Tổng thống Cộng hòa Tiệp đã chấp thuận 40 đơn xin cá nhân tham gia chiến đấu ở Ukraine và hỗ trợ nỗ lực chiến tranh chống lại Nga, theo hãng tin iROZHLAS.cz của Tiệp. Tỷ lệ chấp thuận cho công dân tham gia chiến tranh của Tổng thống Tiệp Petr Pavel đã tăng gấp đôi so với năm trước và tổng thống đã cho phép ba phụ nữ tham gia chiến tranh trong năm nay.
Việc Pavel chấp thuận 40 đơn xin công dân Tiệp tham gia chiến tranh ở Ukraine có ý nghĩa quan trọng vì nó nêu bật sự ủng hộ liên tục của Cộng hòa Tiệp và các cường quốc khác dành cho người Ukraine khi họ tiếp tục đóng góp viện trợ quân sự và nhân đạo.
Tổng cộng có 109 người nộp đơn lên Bộ Quốc phòng xin tham gia cuộc chiến tranh Nga-Ukraine và hỗ trợ Kyiv trên thực địa. Nếu không có sự chấp thuận của tổng thống, công dân Cộng hòa Tiệp không được phục vụ trong quân đội nước ngoài.
Khi xem xét các đơn xin, tổng thống cũng tham khảo ý kiến của Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng trước khi phê duyệt. Những người có thể chiến đấu trong quân đội nước ngoài bao gồm những cá nhân có quốc tịch kép ở một quốc gia khác và những người muốn phục vụ trong quân đội NATO.
Công dân Cộng hòa Tiệp ngày càng quan tâm đến việc hỗ trợ Ukraine trong cuộc chiến, vì các đơn xin tham gia cuộc chiến đã tăng lên. Kể từ khi cuộc chiến bắt đầu cách đây gần bốn năm, đã có 667 đơn xin được nộp, và 477 trong số đó được gửi đến cựu Tổng thống Tiệp Miloš Zeman, trong đó ông đã chấp thuận 132 đơn.
Cộng hòa Tiệp đã hỗ trợ Ukraine kể từ khi chiến tranh bắt đầu vào tháng 2 năm 2022 và cung cấp cho Kyiv các vật liệu trị giá khoảng 4,9 tỷ CZK (khoảng 201.838.350 đô la) tính đến năm 2023. Viện trợ này bao gồm các tài sản trên không, xe tăng, xe chiến đấu và lựu pháo tự hành, và Quân đội Tiệp cũng đã huấn luyện hàng trăm binh sĩ Ukraine.
Ngoài ra còn có những tình nguyện viên nước ngoài khác chiến đấu cho Ukraine bao gồm Peng Chenliang, một công dân Trung Quốc đã thiệt mạng vào tháng 11, cũng như những người khác từ Hoa Kỳ, Canada và nhiều nước Âu Châu khác.
Filip Platoš, phát ngôn viên của Văn phòng Tổng thống Cộng hòa, nói với hãng tin này: “Năm ngoái, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã chuyển tổng cộng 114 đơn từ 109 ứng viên đến Tổng thống Cộng hòa để quyết định. Do đó, tổng cộng có năm người đã nộp đơn nhiều lần.
“Trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Petr Pavel đã bác bỏ tổng cộng 121 đơn xin cấp thị thực, vì ít nhất một bộ đã đưa ra ý kiến phản đối.”
Ondřej Krátoška, phát ngôn viên của Bộ Nội vụ, cho biết: “Chúng tôi thường đánh giá yêu cầu theo góc độ pháp lý hình sự, ví dụ, liệu người đó có phải là người đã bị truy tố, kết án, v.v. hay không. Hoặc cũng theo góc độ dịch vụ, tức là liệu người đó có phải là thành viên của lực lượng an ninh hay không. Trong những trường hợp như vậy, chúng tôi không khuyến nghị sự đồng ý.”
Với một bức ảnh về món quà mà Ukraine gửi cho mình, Pavel viết trên X: “Ukraine đã trải qua Giáng Sinh thứ ba trong chiến tranh. Trong khi nhiều người trong chúng ta đang tận hưởng Giáng Sinh một cách sung túc, những người lính của Lữ đoàn Ukraine số 10 đang bảo vệ đất nước của họ trong các chiến hào. Trong thời gian đó, các tình nguyện viên của Ký ức quốc gia ở Donbas đã nghe hàng chục câu chuyện về những người dũng cảm quyết tâm chiến đấu vì đất nước của họ cho đến khi cuộc xâm lược của Nga bị ngăn chặn, và họ hứa sẽ truyền đạt thông điệp từ những người lính Ukraine. Nhãn của hộp thịt lợn đóng hộp mà họ gửi cho tôi có ghi: 'Cảm ơn vì đã giúp đỡ Cộng hòa Tiệp và người dân của đất nước này.'“
Cuộc chiến ở Kursk có thể leo thang, vì Ukraine đã phát động một cuộc tấn công ở phía nam của khu vực này ngày hôm qua; do đó, các tình nguyện viên nước ngoài có thể hỗ trợ đáng kể cho sáng kiến này khi cuộc chiến tiếp tục leo thang, bước sang năm thứ tư vào tháng 2. Các tình nguyện viên Tiệp, cũng như những người lính nước ngoài khác, có thể trực tiếp chiến đấu với cả lực lượng Nga và Bắc Hàn ở Kursk.
[Newsweek: NATO Ally Green-Lights Dozens of Troops To Join Ukraine War]
8. Tổng thống đắc cử Donald Trump không loại trừ hành động quân sự để giành Greenland và kênh đào Panama
Tổng thống đắc cử Donald Trump tuyên bố vào hôm Thứ Ba, 07 Tháng Giêng, rằng ông sẽ không loại trừ khả năng sử dụng vũ lực quân sự để kiểm soát Kênh đào Panama và Greenland, khẳng định rằng việc Mỹ kiểm soát cả hai nơi này là điều cần thiết cho an ninh quốc gia.
Khi được hỏi ông có thể cam kết không dùng đến các biện pháp quân sự để giành được Greenland và kênh đào Panama hay không, Tổng thống đắc cử Donald Trump nói ngay:
“Tôi sẽ không cam kết điều đó. Có thể bạn sẽ phải làm gì đó. Kênh đào Panama rất quan trọng đối với đất nước chúng ta”.
Ông nói thêm: “Chúng ta cần Greenland vì mục đích an ninh quốc gia”.
Kể từ chiến thắng trong cuộc bầu cử vào tháng 11 trước ứng cử viên Dân chủ Kamala Harris, tổng thống đắc cử đã bình luận về việc sở hữu và kiểm soát Greenland, một lãnh thổ do đồng minh Đan Mạch của Hoa Kỳ sở hữu, yêu cầu trả lại Kênh đào Panama và gợi ý rằng Canada có thể là tiểu bang tiếp theo của Hoa Kỳ. Những bình luận này đã vấp phải phản ứng dữ dội từ các nhà lãnh đạo và chuyên gia quốc tế.
Phát biểu với các phóng viên chưa đầy hai tuần trước lễ nhậm chức vào ngày 20 tháng Giêng, trong khi một phái đoàn gồm các phụ tá và cố vấn, bao gồm cả con trai cả của ông là Ông Donald Trump Jr., đang ở Greenland, Tổng thống đắc cử Donald Trump đã để ngỏ khả năng sử dụng quân đội Hoa Kỳ để bảo vệ Kênh đào Panama và Greenland.
Greenland là hòn đảo không phải lục địa lớn nhất thế giới, nằm giữa Bắc Băng Dương và Đại Tây Dương. Hòn đảo chủ yếu được bao phủ bởi băng, nơi sinh sống của chỉ 57.000 người, Greenland tự hào có nguồn tài nguyên khoáng sản khổng lồ và có tầm quan trọng chiến lược đáng kể đối với quân đội Hoa Kỳ. Nó đã là một phần của Đan Mạch trong hơn 600 năm.
Hôm thứ Ba, Tổng thống đắc cử Donald Trump cho biết tàu của Nga và Trung Quốc đi qua quốc đảo này và “chúng tôi sẽ không để điều đó xảy ra”.
“Chúng ta cần Greenland cho mục đích an ninh quốc gia. Tôi đã được nghe điều đó từ lâu rồi, thậm chí trước cả khi tôi ra tranh cử. Ý tôi là, mọi người đã nói về nó từ lâu rồi. Bạn có khoảng 45.000 người ở đó. Mọi người thực sự không biết liệu Đan Mạch có quyền hợp pháp đối với nó hay không, nhưng nếu họ có, họ nên từ bỏ nó, vì chúng ta cần nó cho an ninh quốc gia,” tổng thống đắc cử cho biết hôm thứ Ba.
Tờ Wall Street Journal đưa tin vào năm 2019 rằng Tổng thống đắc cử Donald Trump đang cân nhắc việc mua lại Greenland vì nguồn tài nguyên thiên nhiên của nơi này, mang lại cho ông “di sản tương tự như việc Tổng thống Dwight Eisenhower công nhận Alaska là một tiểu bang của Hoa Kỳ”.
Tổng thống đắc cử Donald Trump cũng đã gợi ra ý tưởng Canada gia nhập Hoa Kỳ nhưng hôm thứ Ba đã làm rõ rằng ông sẽ không sử dụng vũ lực quân sự cho mục đích này mà thay vào đó là “vũ lực kinh tế”.
Tại sao Tổng thống đắc cử Donald Trump muốn lấy lại kênh đào Panama?
Kênh đào Panama là tuyến đường thủy nhân tạo quan trọng ở Trung Mỹ, nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, giúp giảm đáng kể thời gian di chuyển trên biển cho hoạt động vận chuyển toàn cầu. Được Hoa Kỳ hoàn thành vào năm 1914, kênh đào này trải dài khoảng 50 dặm qua eo đất Panama.
Hoa Kỳ đã trao quyền kiểm soát Kênh đào Panama cho Panama vào ngày 31 tháng 12 năm 1999. Việc chuyển giao này tuân thủ theo các điều khoản của Hiệp ước Torrijos-Carter được cựu Tổng thống Jimmy Carter ký năm 1977, trong đó nêu rõ việc chuyển giao dần quyền kiểm soát và hoạt động của kênh đào từ Hoa Kỳ sang Panama.
Tổng thống đắc cử Donald Trump đã gây tranh cãi khi đe dọa sẽ đòi lại Kênh đào Panama, gọi mức phí mà Panama tính là “vô lý” và “cực kỳ bất công”. Tổng thống đắc cử cũng cáo buộc Trung Quốc can thiệp vào việc kiểm soát tuyến đường thủy quan trọng này.
“Kênh đào Panama rất quan trọng đối với đất nước chúng ta. Nó đang được Trung Quốc điều hành. Trung Quốc! Chúng ta đã trao Kênh đào Panama cho Panama, chúng ta không trao nó cho Trung Quốc. Và họ đã lạm dụng món quà đó,” Tổng thống đắc cử Donald Trump nói hôm thứ Ba.
Hứa hẹn về một “Thời kỳ hoàng kim của nước Mỹ”, Tổng thống đắc cử Donald Trump cũng đề cập đến ý định đổi tên Vịnh Mexico thành “Vịnh Mỹ Châu”, cho rằng tên này “có âm hưởng rất đẹp”.
Ngoài ra, Tổng thống đắc cử Donald Trump còn tận dụng buổi họp báo để chỉ trích Tổng thống Joe Biden vì bị cáo buộc phá hoại quá trình chuyển giao quyền lực của ông, một ngày sau khi Tổng thống Biden ra lệnh cấm khoan năng lượng ngoài khơi ở hầu hết các vùng biển liên bang.
Tổng thống Biden, người sẽ kết thúc nhiệm kỳ trong hai tuần nữa, đã sử dụng thẩm quyền của mình theo Đạo luật Đất đai Thềm lục địa ngoài của liên bang để bảo vệ các khu vực ngoài khơi dọc theo bờ biển phía Đông và phía Tây, phía đông Vịnh Mexico và một phần Biển Bering phía Bắc của Alaska khỏi việc cho thuê dầu khí trong tương lai. Quyết định này dẫn đến việc khoảng 625 triệu mẫu Anh vùng biển liên bang bị rút khỏi hoạt động thăm dò năng lượng, điều này có thể yêu cầu một đạo luật của Quốc hội để đảo ngược.
“Tôi sẽ đưa nó trở lại ngày đầu tiên”, Tổng thống đắc cử Donald Trump nói với các phóng viên. Ông cam kết sẽ đưa nó ra tòa “nếu chúng ta cần phải làm như thế”.
Thủ tướng Đan Mạch Mette Frederiksen, trả lời các phóng viên: “Hoa Kỳ chắc chắn là đồng minh thân cận nhất của chúng tôi. Chúng tôi có lợi ích rõ ràng trong việc bảo đảm rằng Hoa Kỳ đóng vai trò quan trọng trong khu vực đó, trái ngược với, ví dụ như Nga.”
Thủ tướng Greenland Múte B. Egede, phát biểu: “Greenland thuộc về người dân Greenland. Tương lai và cuộc đấu tranh giành độc lập của chúng tôi là công việc của chúng tôi.”
Frederiksen không bình luận vào thứ Ba về việc liệu bà có ủng hộ việc Greenland độc lập hay không nhưng cho biết, “Việc mọi người muốn tiến theo hướng đó là điều dễ hiểu và chính đáng.
Frederiksen cho biết: “Tương lai của Greenland phải được quyết định tại Greenland chứ không phải bất kỳ nơi nào khác”.
[Newsweek: Trump Doesn't Rule Out Military Action to Obtain Greenland, Panama Canal]
9. Thanh tra viên cho biết Ukraine đã nhận lại được 3 trẻ em từ các vùng lãnh thổ bị Nga tạm chiếm
Ba trẻ em Ukraine - một bé trai 17 tuổi và hai bé trai nhỏ hơn - đã được đưa trở về lãnh thổ do Ukraine kiểm soát từ các khu vực bị Nga tạm chiếm, Thanh tra viên Ukraine Dmytro Lubinets thông báo vào ngày 7 tháng Giêng.
Theo Lubinets, chàng trai 17 tuổi này đã phải đối mặt với sự đàn áp của chính quyền xâm lược Nga vì lập trường ủng hộ Ukraine và hỗ trợ quân đội Ukraine.
“Ông ấy ủng hộ Ukraine dưới sự xâm lược và chịu đựng các cuộc thẩm vấn, đe dọa và đe dọa từ những người đại diện xâm lược. Tuy nhiên, không nỗi sợ hãi hay áp lực nào có thể phá vỡ tinh thần của ông ấy”, Lubinets nói.
Cậu thiếu niên này đang nhận được sự hỗ trợ nhân đạo và tài chính và chuẩn bị tiếp tục việc học ở Ukraine.
Hai cậu bé nhỏ hơn đã bị tách khỏi mẹ, người đã chạy trốn khỏi Ukraine do chiến tranh. Bị bỏ lại ở Donetsk bị tạm chiếm cùng với cha ruột của mình, các cậu bé đã được di tản với sự hỗ trợ của văn phòng Lubinets và đoàn tụ với mẹ của mình.
“Hôm nay, gia đình này đã an toàn và bắt đầu hành trình chữa lành vết thương chiến tranh”, ông nói.
Theo cơ sở dữ liệu Children of War, kể từ khi Nga bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện, gần 20.000 trẻ em Ukraine đã bị Nga bắt cóc. Chỉ có chưa đến 400 trẻ được trả về nhà.
Các cuộc điều tra của tờ Financial Times và The Guardian đã tiết lộ những nỗ lực có hệ thống của chính quyền Nga nhằm giáo dục lại những đứa trẻ bị trục xuất bất hợp pháp và trong một số trường hợp, cho chúng làm con nuôi thông qua các nền tảng liên kết với chính phủ.
Tòa án Hình sự Quốc tế, gọi tắt là ICC đã ban hành lệnh bắt giữ Putin và Maria Lvova-Belova, quan chức Nga bị cáo buộc giám sát việc trục xuất cưỡng bức trẻ em Ukraine về Nga, vào tháng 3 năm 2023.
Tòa án Hình sự Quốc tế, gọi tắt là ICC viết rằng họ tin Putin “phải chịu trách nhiệm hình sự cá nhân” với tư cách là nhà lãnh đạo nước Nga về những tội ác đã gây ra đối với trẻ em Ukraine.
[Kyiv Independent: Ukraine secures return of 3 children from Russian-occupied territories, ombudsman says]
10. Tin tặc tuyên bố đã xâm nhập cơ sở dữ liệu bất động sản của Nga, Mạc Tư Khoa phủ nhận
Một nhóm tin tặc có tên Silent Crow đã tuyên bố đã hack và lấy được dữ liệu từ cơ quan địa chính và bản đồ nhà nước của Nga, hãng tin độc lập Agentstvo của Nga đưa tin vào ngày 7 tháng Giêng.
Cơ quan ghi danh nhà nước của Nga đã phủ nhận tin tức này và đưa ra tuyên bố rằng: “Chúng tôi hiện đang tiến hành kiểm tra thêm thông tin được công bố trên một số kênh Telegram”.
Cơ sở dữ liệu bị đánh cắp chứa thông tin nhận dạng nội bộ của từng bản ghi âm, tên chủ sở hữu bất động sản (họ tên đầy đủ hoặc tên pháp nhân), ngày sinh, thông tin chi tiết về tài liệu (hộ chiếu), địa chỉ và đôi khi cả số điện thoại có niên đại đến đầu năm 2024, Agentstvo đưa tin.
Agentstvo đã chọn ngẫu nhiên và kiểm tra 15 bản ghi âm, tất cả đều trùng khớp với chủ sở hữu thực sự.
Những tin tặc tuyên bố đã đánh cắp 2 tỷ dòng, công bố 82 triệu dòng làm bằng chứng. Không rõ ai đứng sau nhóm này. Kênh Silent Crow nơi tin tặc bị cáo buộc công bố được tạo vào ngày 25 tháng 12. Bài đăng duy nhất của kênh này là từ ngày 6 Tháng Giêng và liên quan đến vụ rò rỉ.
Nhiều nhà báo điều tra đã sử dụng sổ ghi danh nhà nước của Nga để vạch trần tham nhũng bằng cách chỉ ra giá trị tài sản của một người có vượt quá mức lương của họ hay không cho đến năm 2023, khi luật pháp Nga cấm công bố thông tin cá nhân của bên thứ ba mà không có sự đồng ý của người đã ghi danh hoặc công ty.
Cả Nga và Ukraine đều sử dụng rộng rãi các cuộc tấn công mạng để nhắm vào các tổ chức chính phủ và các doanh nghiệp quan trọng trong cuộc chiến toàn diện. Vào tháng 12, một cuộc tấn công mạng do Nga hậu thuẫn đã nhắm vào một số cơ quan ghi danh nhà nước do Bộ Tư pháp Ukraine giám sát.
[Kyiv Independent: Hackers claim to have breached Russia’s real estate database, Moscow denies]
1. Đức Hồng Y người Mỹ mở cửa thánh cuối cùng ở Rôma
Đức Hồng Y người Mỹ James Harvey đã mở cửa thánh tại Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành vào Chúa Nhật, hoàn thành việc mở cả năm cửa thánh tại Rôma cho Năm thánh Hy vọng năm 2025 của Giáo Hội Công Giáo.
Những người hành hương đến thăm Rôma trong Năm Thánh, một năm thánh được tổ chức 25 năm một lần, sẽ có cơ hội nhận được ơn toàn xá khi đi qua cánh cửa này.
Đức Hồng Y Harvey cho biết: “Việc mở cánh cửa thánh đánh dấu con đường cứu rỗi mà Chúa Kitô đã mở ra thông qua sự Nhập thể, cái chết và sự phục sinh của Người, kêu gọi mọi thành viên của Giáo hội hòa giải với Thiên Chúa và với nhau”.
Buổi lễ bắt đầu tại sân trong có hàng cột của nhà thờ lớn với âm thanh cổ xưa của shofar, một loại “tù và” bằng sừng cừu mà người Israel cổ đại thường dùng để báo hiệu năm thánh, như đã ghi chép trong Kinh thánh.
Đức Hồng Y Harvey đã dâng lời cầu nguyện, xin các Kitô hữu sống Năm Thánh với đức tin của Thánh Phaolô, “để được tình yêu của Chúa Kitô thu hút và được lòng thương xót của Người hoán cải, chúng ta có thể loan báo cho thế giới Tin Mừng ân sủng.”
Sau đó, ngài đẩy cánh cửa đồng nặng nề, dừng lại một lát để cầu nguyện thầm lặng ở ngưỡng cửa trước khi bước vào trong khi giáo đoàn hát bài thánh ca Jubilee, “Pilgrims of Hope.”
Đức Hồng Y Harvey, một người bản xứ Milwaukee và là đại diện của Đức Thánh Cha tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành, đã chủ trì Thánh lễ mở cửa thánh. Vị Hồng Y 75 tuổi này trước đây từng là đại diện của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđíctô XVI.
“Với lễ mở cửa thánh sáng nay tại Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành… chúng ta đã bước qua ngưỡng cửa của ngôi đền linh thiêng với niềm vui vô bờ bến bởi vì, theo một cách tượng trưng, chúng ta đã bước qua cánh cửa hy vọng,” Đức Hồng Y Harvey phát biểu trong bài giảng của mình.
Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành, một trong bốn Đền thờ của giáo hoàng tại Rôma, được xây dựng trên lăng mộ của Thánh Phaolô và được Đức Giáo Hoàng Sylvester thánh hiến lần đầu tiên vào năm 324. Từ lâu, đây đã là một địa điểm hành hương quan trọng và trong suốt Năm Thánh, nơi đây sẽ đóng vai trò trung tâm như một trong năm địa điểm cửa thánh do Đức Giáo Hoàng chỉ định.
“Bằng cách bước qua ngưỡng cửa Đền thờ này với đức tin, chúng ta bước vào thời đại của lòng thương xót và tha thứ để theo đúng lời diễn đạt của thánh bổn mạng Phaolô, con đường hy vọng không làm thất vọng có thể được mở ra cho mọi người phụ nữ và mọi người đàn ông,” Đức Hồng Y Harvey nói.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chọn “Những người hành hương của hy vọng” làm chủ đề cho Năm Thánh 2025. Trong Spes Non Confundit (“Hy vọng không làm thất vọng”), tông sắc của giáo hoàng công bố Năm Thánh, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã mô tả hy vọng là một đức tính “không lừa dối hay thất vọng vì nó dựa trên sự chắc chắn rằng không có gì và không ai có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa”.
Trong bài giảng của mình, Đức Hồng Y Harvey đã suy ngẫm về đức hy vọng, trích dẫn thông điệp Spes Salvi của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16: “Chúng ta đã được ban cho hy vọng, một niềm hy vọng đáng tin cậy, nhờ đó chúng ta có thể đối mặt với hiện tại: hiện tại, ngay cả khi gian khổ, vẫn có thể sống và chấp nhận được nếu nó hướng tới một mục tiêu, nếu chúng ta có thể chắc chắn về mục tiêu này, và nếu mục tiêu này đủ lớn để biện minh cho nỗ lực của cuộc hành trình.”
“'Tin mừng', thông điệp của Kitô giáo, là lời loan báo về thực tại đã hoàn thành này của Chúa Giêsu Christ đã chết, sống lại và được tôn vinh. Ngài là hy vọng của chúng ta,” Đức Hồng Y Harvey nói thêm.
Năm Thánh, năm đầu tiên kể từ Đại Năm Thánh 2000, dự kiến sẽ thu hút hàng triệu người hành hương đến Rôma. Bốn cửa thánh khác của Năm Thánh 2025 nằm tại Đền thờ Thánh Peter, Đền thờ Thánh Gioan Lateran, Đền thờ Thánh Mary Major và — lần đầu tiên trong lịch sử các Năm Thánh — bên trong Nhà tù Rebibbia của Rôma.
“Cánh cửa đen tối của thời gian, của tương lai, đã được mở toang. Người có hy vọng sẽ sống khác đi; người hy vọng đã được ban tặng món quà là một cuộc sống mới,” Đức Hồng Y Harvey nói, trích dẫn Spes Salvi của Bênêđíctô XVI.
Đức Hồng Y Harvey giải thích rằng hy vọng là “một đức tính thần học vì nó được Chúa truyền vào và có Chúa là người bảo lãnh. Nó không phải là một đức tính thụ động chỉ chờ đợi mọi thứ xảy ra. Nó là một đức tính cực kỳ tích cực giúp chúng xảy ra”.
“Giáo hội mời gọi mỗi người hành hương thực hiện một cuộc hành trình tâm linh theo bước chân đức tin, và Giáo hội hy vọng mạnh mẽ rằng điều này có thể thắp lại ngọn lửa hy vọng”, ngài nói.
Cánh cửa thánh tại Nhà thờ St. Paul sẽ vẫn mở cho đến ngày 28 tháng 12 năm 2025. Đức Hồng Y Harvey cho biết: “Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta những lời quý giá này khi ngài viết cho người Rôma: 'Nguyện xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng đổ đầy anh em mọi niềm vui và bình an trong đức tin, để anh em được tràn đầy hy vọng nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần'“.
“Thập giá của Chúa Kitô, biểu tượng vinh quang của chiến thắng trước tội lỗi và sự chết, là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta,” ông nói.
Đức Hồng Y nói thêm: “Việc lan tỏa hy vọng, trở thành người gieo hy vọng… chắc chắn là món quà đẹp nhất mà Giáo hội có thể trao tặng cho toàn thể nhân loại, đặc biệt là vào thời điểm này trong lịch sử”.
Source:Catholic News Agency
2. Nhật ký trừ tà #325: Điều quan trọng nhất
Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #325: What Matters Most”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà #325: Điều quan trọng nhất”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Một người đau khổ hỏi tôi: “Nếu con chết mà vẫn bị quỷ ám, con có phải xuống địa ngục không?” Tôi nhanh chóng trả lời: quỷ không chiếm hữu linh hồn của một người. Chúng chỉ có thể chiếm hữu tạm thời cơ thể và chúng có thể làm khổ tâm trí. Nhưng ý chí tự do của người đó vẫn tự do: họ có thể chọn Chúa hoặc bóng tối.
Bị quỷ ám là một thử thách khủng khiếp. Đó không phải là điều tôi muốn bất kỳ ai phải trải qua. Nhưng có một điều tệ hơn nhiều, nhiều hơn nữa. Đó là việc tự nguyện trao bản thân cho Satan và sự kiểm soát của hắn. Đáng buồn thay, nhiều người đã làm như vậy, mặc dù thường không nhận thức đầy đủ về hậu quả của những lựa chọn của họ. Nhiều người đắm chìm trong vật chất, nhục dục, tức giận, bạo lực và cuộc sống tự luyến tập trung vào bản thân. Tình trạng của thế giới ngày nay chứng kiến hậu quả của những lựa chọn như vậy.
Nhưng trong chức vụ được chúc phúc của chúng tôi, tôi thường xuyên trải nghiệm cuộc chiến dũng cảm của những người đau khổ chống lại các thế lực ma quỷ. Họ chịu đựng những lời chế giễu liên miên của ma quỷ và những lời tuyên bố sáo rỗng của Satan về sức mạnh vô địch. Những người đau khổ đầy đức tin của chúng ta cho chúng ta thấy sức mạnh của đức tin và Quyền thống trị thực sự của Chúa Giêsu. Một số người trong chúng ta đã đạt được tiến bộ lớn hướng đến sự giải thoát hoàn toàn trong mùa Giáng Sinh đầy ân sủng này.
Điều quan trọng nhất không phải là được giải thoát hoàn toàn khỏi những đau khổ của ma quỷ trong cuộc sống này. Nhiều vị thánh vĩ đại đã bị hành hạ và quấy nhiễu bởi các linh hồn ma quỷ trong suốt cuộc đời của họ. Thay vào đó, điều quan trọng nhất là được tính vào số những người được cứu bởi Huyết Chiên Con. Chúng ta muốn trao cuộc sống của mình cho Chúa Giêsu và để Ngài làm Chúa của chúng ta.
Khi chúng ta bước vào năm mới, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách đổi mới món quà bản thân mình cho Chúa Giêsu và cho Vương quốc tình yêu, niềm vui và hòa bình của Người. Chỉ có Người là Chúa. Bạn có thể bắt đầu năm nay bằng cách cầu nguyện với bài hát tuyệt đẹp này và đổi mới tình yêu của bạn dành cho Chúa Giêsu.
Source:Catholic Exorcism
3. Đức Hồng Y Charles Bo kêu gọi chấm dứt bạo lực tại Miến Điện
Đức Hồng Y Charles Bo, Dòng Don Bosco, Tổng giám mục Giáo phận Yangon, kêu gọi chấm dứt ngay tức khắc bạo lực tại nước này.
Trong sứ điệp nhân dịp đầu năm mới, được hãng tin Công Giáo Á châu Ucan truyền đi hôm mùng 03 tháng Giêng vừa qua, Đức Hồng Y Charles Bo nói rằng chúng ta cần phải liên kết với nhau chấm dứt cái vòng bạo lực, bảo vệ các thường dân, nhất là các trẻ em vô tội, khỏi những thiệt hại. Các gia đình bị tan vỡ cần được đoàn tụ và những người không có tiếng nói cần được lắng nghe.”
Theo Liên Hiệp Quốc, tính đến cuối năm 2024 vừa qua, hơn ba triệu 500.000 người dân Miến Điện phải di tản nội địa. Từ cuộc đảo chánh ngày 01 tháng Hai năm 2021 của giới quân phiệt, hơn một nửa dân số Miến Điện lâm vào tình trạng sống dưới mức nghèo đói.
Đức Hồng Y nói thêm rằng: “Chúng ta hãy mơ ước một nước Miến Điện, trong đó không có mạng sống nào bị coi rẻ, không cộng đoàn nào bị gạt ra ngoài lề, hòa bình không phải là một lý tưởng trừu tượng nhưng là một thực tại được chia sẻ. Ước gì năm 2025 là năm hòa bình được tươi nở trong mỗi tâm hồn và mọi góc trời ở Miến Điện”.
Có dư luận trong và ngoài nước phê bình Đức Hồng Y Bo vì gần gũi Tướng Min Aung Hlaing, thủ lãnh giới quân phiệt. Vị tướng này đã tham dự một buổi tiếp kiến, nhân dịp lễ Giáng Sinh tại nhà thờ chính tòa Đức Bà ở Yangon.
Tổ chức “Các tín hữu Công Giáo độc lập bênh vực công lý tại Miến Điện” không đồng ý với lập trường của Đức Hồng Y Bo. Trang mang “Irrawady” của tổ chức lưu vong này khẳng định rằng việc đón tiếp Tướng Min Aung Hlaing trong dịp lễ Giáng Sinh không đáp ứng nguyện vọng của các tín hữu Công Giáo, đa số họ chống lại mọi hình thức cấu kết với tập đoàn quân phiệt”.
Theo báo chí nhà nước Miến Điện, Đức Hồng Y Bo đã cầu chúc Tướng Min Aung Hlaing, phu nhân và gia đình, cũng như các thành viên Hội đồng nội các, quân đội và gia đình họ, cũng như nhân dân Miến Điện được “Phúc lành, Hạnh phúc và Thịnh vượng”. Trang mạng Irrawaddy nói rằng cùng với Tướng Min Aung Hlaing, Đức Hồng Y Bo ca bài “Miến Điện nở tươi”.
Trong chính sách của chế độ quân phiệt chống lại dân chúng, có cả việc tấn công vào các khu vực đó đa số dân theo Kitô giáo. Theo tin tức của các tổ chức nhân quyền, từ cuộc đảo chánh cách đây gần bốn năm, cho đến nay có gần 100 nhà thờ bị quân đội Miến Điện tấn công và phá hủy, trong đó có cả thánh đường ở làng quê Mone Hla của Đức Hồng Y Bo.
4. Linh mục Công Giáo bị bắn chết ở Nigeria một ngày sau lễ Giáng Sinh
Trong một vụ việc khác cho thấy tình hình mất an ninh ngày càng tồi tệ ở Nigeria, một linh mục Công Giáo ở bang Anambra đã bị bắn chết.
Theo linh mục đại diện giáo phận, là cha Raphael Ezeogu, cha Tobias Chukwujekwu Okonkwo đã bị những kẻ tấn công không rõ danh tính bắn chết vào ngày 26 tháng 12 tại lhiala.
“ Khi cộng đồng Công Giáo đau buồn vì mất đi một vị linh mục tận tụy này, họ cảm thấy an ủi với câu nói: 'Nơi nào nỗi buồn gia tăng, sự an ủi thiêng liêng càng gia tăng nhiều hơn'“, Cha Ezeogu cho biết trong tuyên bố ngày 27 tháng 12.
“Giáo phận Công Giáo Nnewi đã kêu gọi các tín hữu cầu nguyện và tham dự Thánh lễ cho sự an nghỉ vĩnh hằng của Cha Tobias và an ủi gia đình đau buồn của ngài,” ngài nói.
Vị linh mục bị sát hại là một dược sĩ làm việc tại nhiều cơ sở, bao gồm quản lý các trường Điều dưỡng, Khoa Hộ sinh và Phòng xét nghiệm Y khoa tại Bệnh viện Đức Mẹ Lộ Đức Ihiala.
“Chúng tôi xin các bạn cầu nguyện và dâng Thánh lễ cho niềm vui vĩnh hằng của ngài”, vị thủ tướng nói. Tin tức về cái chết của vị linh mục đã gây ra phản ứng mạnh mẽ trong số những người theo dõi Facebook của Giáo phận Nnewi.
Ifyben Esione cho biết ông “không nói nên lời”.
“Ôi không, tại sao lại là cha ấy, một vị linh mục rất hiền lành và tốt lành của Chúa. Cha ấy sống trong nhà tôi với tư cách là một chủng sinh tại Giáo xứ của tôi vào một trong những ngày thực tập. Thật khó để tôi có thể viết 'Hãy yên nghỉ nhé Cha Ozo,” Esione viết.
Ifeanyi Okonkwo chỉ đơn giản chúc linh mục “an nghỉ vĩnh hằng” và Ezeani Sunday cho biết ông đã gửi “lời chia buồn chân thành tới gia đình và toàn thể giáo phận Nnewi”.
“Điều này thật kinh hoàng và rất đau đớn. Cầu mong linh hồn ngài được yên nghỉ”, Kingsley Okoye viết.
Sinh vào tháng 8 năm 1984, Cha Okonkwo được thụ phong linh mục vào tháng 7 năm 2015. Vụ giết người này làm nổi bật các vấn đề an ninh ngày càng tồi tệ ở quốc gia đông dân nhất Phi Châu, với ước tính 205 triệu người. Và rất thường xuyên, các Kitô hữu là mục tiêu. Vào tháng 11, các băng đảng vũ trang được gọi là “kẻ cướp” tại địa phương đã bắt cóc — và thả — ba linh mục Công Giáo.
Thật khó để có được dữ liệu toàn diện, nhưng theo Hội đồng Giám mục Nigeria, 21 linh mục Công Giáo đã bị bắt cóc ở Nigeria trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2022 đến tháng 8 năm 2023.
Vụ giết người mới nhất xảy ra chỉ vài ngày sau khi tổ chức phi chính phủ Công Giáo International Society for Civil Liberties and the Rule of Law công bố một báo cáo khác thể hiện “một bản tường thuật chi tiết, gây sốc và rùng rợn” về các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng do quân đội Nigeria cũng như các tác nhân phi nhà nước gây ra ở miền đông Nigeria từ năm 2015.
Với tựa đề “Biển máu vô tội chảy ở phương Đông”, báo cáo vạch trần cả các thế lực bên ngoài và bên trong được cho là chịu trách nhiệm “cho tình hình chiến sự hiện tại ở khu vực Đông Nam và Nam-Nam của Đông Nigeria”.
Báo cáo cáo buộc quân đội Nigeria và các tổ chức tự vệ sát hại 32.300 thường dân không vũ trang ở Đông Nam Nigeria trong chín năm qua.
Báo cáo ngày 22 tháng 12 cũng lên án các tổ chức tội phạm có vũ trang có liên hệ với chính phủ và phi chính phủ đã giết hại hơn 14.500 “công dân không có khả năng tự vệ” trong cùng kỳ từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 12 năm 2024.
Báo cáo nói về “những vi phạm và lạm dụng nhân quyền ghê rợn và nghiêm trọng: Giết người hàng loạt và có chủ đích, đốt tài sản ngoài vòng pháp luật, cắt xẻo cơ thể, bắt cóc, mất tích, tra tấn và các hình phạt hoặc cách đối xử vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác và tham nhũng sau khi làm nhiệm vụ trong ngành an ninh, đặc biệt là quân đội, cảnh sát và lực lượng bán quân sự, chặn đường và tống tiền trong doanh trại và các hành vi tàn bạo khác của các thế lực phi nhà nước có vũ trang.”
Báo cáo tiếp tục cáo buộc quân đội Nigeria tham gia vào “việc chụp mũ, phân biệt chủng tộc - tôn giáo, kỳ thị giai cấp, hình sự hóa hàng loạt, tung tin đồn, thực thi pháp luật phân biệt đối xử, hình sự hóa các hành vi sai trái dân sự/hành vi dân sự, tái hình sự hóa và chuyển đổi các hành vi phạm tội và hành vi sai trái đơn giản thành các hành vi phạm tội bạo lực là 'khủng bố', 'nổi loạn', 'nổi loạn', 'phản quốc' và 'tội phản quốc nghiêm trọng', thường lấy 'Khủng bố IPOB/ESN/Biafra' làm cái cớ.”
Báo cáo cho biết, tất cả những điều này đã dẫn đến việc giết hại hàng ngàn công dân không có khả năng tự vệ, bỏ tù những người khác và phá hủy tài sản của họ.
“Hơn 6000 người bị bịt mắt hoặc bịt mặt và bị trói vào đêm khuya từ phía đông và bị ném xuống mà không được điều tra và xét xử tại các địa điểm quân sự bí mật và nhà tù ở bảy tiểu bang phía bắc… bao gồm hàng ngàn người bị ném đến chết hoặc bị đưa vào “phiên tòa” kangaroo bên trong doanh trại quân đội Wawa ở tiểu bang Niger và hàng chục trường hợp tử vong trong tù mỗi tuần”, báo cáo nêu.
Báo cáo ghi nhận rằng 6000 ngôi nhà của dân thường đã bị phá hủy, 180.000 người phải di dời và một triệu người sợ hãi và buộc phải rời bỏ nhà cửa và chạy trốn.
Thiệt hại về vật chất là đáng kể, với tài sản dân sự ước tính bị mất 290,5 triệu đô la do đốt phá và phá hoại của quân đội. Hơn nữa, khoảng 2 tỷ đô la đã bị tịch thu một cách tham nhũng và bỏ túi bất hợp pháp tại các chốt chặn đường và các điểm thu súng khác.
Source:Crux