Phụng Vụ - Mục Vụ
Phiền Muộn, Bối Rối, & Bình An
Nguyễn Trung Tây, SVD
16:08 20/04/2014
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
Phiền Muộn, Bối Rối, & Bình An
...Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô...
Ngoài thất vọng, tuần Thánh và tuần Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi cũng là hai tuần lễ đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.
Bắt đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã trải qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán đứng đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng dấu bởi nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá và sỏi dẫn lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và sắc nhọn tiếng búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng mọi người dẫn nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đức Giêsu.
Nhưng rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà hốt hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần lễ. Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi mộ đá nữa. Mà nếu xác Đức Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai trên cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích cho hiện tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những cụ già, từ những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin rằng có người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm mưu đen tối (Gioan 20:2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước bảo hộ La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh, lùng kiếm xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành Giêrusalem. Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giêsu bắt đầu, những người nam môn đệ sẽ là những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn lùng, và bị tra khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà nơi những người môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ Năm tuần trước lại càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của người Do Thái. Bởi thế, khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất, những người môn đệ của Đức Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to, “Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào ngày Phục Sinh đầu tiên, ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm thêm mùi vị đắng cay của muộn phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh cửa căn nhà bật tung bởi xích xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.
Cánh cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai người môn đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run sợ, tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai người môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài của Đức Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt đứt những sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai người môn đệ của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đã trở thành ngôi mộ trống không phải bởi vì người ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám, nhưng bởi vì Ngài đã phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên suốt một quãng đường dài mười một cây số.
Trong căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh đồng hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ ơn Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ, và hoang mang.
Không trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.
Suy Niệm
Bạn,
Trong ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là một điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con người. Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con dao hai lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình an.
Nhân loại ngày hôm nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian. Đồng hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong chớp mắt.
Ngày hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Nhân loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.
Ngày hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhiều hơn, nhưng hạnh phúc và bình an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm hồn rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông nở nhụy. Khi hai tòa nhà cao ngất trời của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế của thành phố New York hóa ra tro bụi vào một buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, mọi người trên thế giới đã biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn được gọi là vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại càng mất bình an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc héo úa trong từng mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ của thuở xưa, bởi không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin và Đức Giêsu hiện diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục thất vọng, lo lắng, phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào những lúc bạn cảm thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với cuộc sống, mời bạn, chúng ta cùng hướng về căn phòng đóng kín cửa với Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài,
Lời Nguyện
Lạy Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong căn phòng đóng kín cửa. Lạy Chúa, những khi con thất vọng với chính con, với những sa ngã, với những lỗi lầm của con và của anh chị em con, xin ban cho con lời chúc bình an của Chúa năm xưa, để tâm hồn của con thôi lo lắng, buồn phiền, nhưng ngập tràn hạnh phúc, và bình an.
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com
Phiền Muộn, Bối Rối, & Bình An
...Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô...
Ngoài thất vọng, tuần Thánh và tuần Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi cũng là hai tuần lễ đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.
Bắt đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã trải qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán đứng đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng dấu bởi nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá và sỏi dẫn lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và sắc nhọn tiếng búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng mọi người dẫn nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đức Giêsu.
Nhưng rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà hốt hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần lễ. Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi mộ đá nữa. Mà nếu xác Đức Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai trên cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích cho hiện tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những cụ già, từ những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin rằng có người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm mưu đen tối (Gioan 20:2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước bảo hộ La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh, lùng kiếm xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành Giêrusalem. Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giêsu bắt đầu, những người nam môn đệ sẽ là những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn lùng, và bị tra khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà nơi những người môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ Năm tuần trước lại càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của người Do Thái. Bởi thế, khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất, những người môn đệ của Đức Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to, “Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào ngày Phục Sinh đầu tiên, ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm thêm mùi vị đắng cay của muộn phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh cửa căn nhà bật tung bởi xích xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.
Cánh cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai người môn đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run sợ, tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai người môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài của Đức Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt đứt những sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai người môn đệ của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đã trở thành ngôi mộ trống không phải bởi vì người ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám, nhưng bởi vì Ngài đã phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên suốt một quãng đường dài mười một cây số.
Trong căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh đồng hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ ơn Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ, và hoang mang.
Không trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.
Suy Niệm
Bạn,
Trong ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là một điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con người. Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con dao hai lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình an.
Nhân loại ngày hôm nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian. Đồng hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong chớp mắt.
Ngày hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Nhân loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.
Ngày hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhiều hơn, nhưng hạnh phúc và bình an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm hồn rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông nở nhụy. Khi hai tòa nhà cao ngất trời của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế của thành phố New York hóa ra tro bụi vào một buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, mọi người trên thế giới đã biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn được gọi là vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại càng mất bình an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc héo úa trong từng mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ của thuở xưa, bởi không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin và Đức Giêsu hiện diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục thất vọng, lo lắng, phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào những lúc bạn cảm thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với cuộc sống, mời bạn, chúng ta cùng hướng về căn phòng đóng kín cửa với Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài,
Lời Nguyện
Lạy Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong căn phòng đóng kín cửa. Lạy Chúa, những khi con thất vọng với chính con, với những sa ngã, với những lỗi lầm của con và của anh chị em con, xin ban cho con lời chúc bình an của Chúa năm xưa, để tâm hồn của con thôi lo lắng, buồn phiền, nhưng ngập tràn hạnh phúc, và bình an.
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài Giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Lễ Vọng Phục Sinh 2014
J.B. Đặng Minh An dịch
00:06 20/04/2014
Tin Mừng về sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô bắt đầu với hành trình của những người phụ nữ đến mộ vào lúc bình minh vào ngày kế tiếp ngày Sa-bát. Họ đi đến ngôi mộ để chăm sóc cho thi hài của Chúa, nhưng họ nhận thấy ngôi mộ đã mở toang ra và trống rỗng. Một thiên thần oai vệ nói với họ: "Đừng sợ !" (Mt 28:5 ) và truyền cho họ hãy đi và nói với các môn đệ rằng "Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Galilê trước các ông." ( câu 7). Những người phụ nữ vội vã lên đường và trên đường đi Chúa Giêsu đã gặp họ. Ngài nói: "Đừng sợ! về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó" (câu 10).
Sau cái chết của Thầy, các môn đệ đã tản mác; đức tin của họ đã bị lung lay hoàn toàn, tất cả mọi thứ dường như đã kết thúc, tất cả những xác tín của họ đã sụp đổ và hy vọng của họ đã chết. Nhưng giờ đây thông điệp của những người phụ nữ, tự nó là không thể tin được, đến với họ như một tia sáng trong bóng tối. Tin tức loan đi: Chúa Giêsu đã sống lại như Ngài đã phán. Và sau đó có cả lệnh truyền của Ngài hãy đi Galilê. Những người phụ nữ đã nghe lệnh truyền này hai lần, lần đầu tiên từ thiên thần và sau đó từ chính Chúa Giêsu: "báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó ".
Galilê là nơi mà các tông đồ lần đầu tiên gặp Chúa, nơi mà mọi thứ bắt đầu! Trở lại đó, tức là quay trở lại nơi mà họ được kêu gọi ban đầu. Chúa Giêsu đã đi bộ dọc theo bờ hồ trong khi những ngư phủ này đang thả lưới. Ngài đã kêu gọi họ, và họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (x. Mt 4:18-22 ).
Trở về Galilê có nghĩa là đọc lại tất cả mọi thứ trên cơ sở của thánh giá và vinh quang của thánh giá. Đọc lại tất cả mọi thứ - những lời rao giảng của Chúa, các phép lạ của Ngài, cộng đoàn mới, những phấn khích và đào tẩu, ngay cả sự phản bội - đọc lại tất cả mọi thứ bắt đầu từ cái sau cùng, dưới ánh sáng của hành động là tuyệt đỉnh của tình yêu. Đó là một khởi đầu mới.
Đối với mỗi người chúng ta cũng có một "Galilê" là nguồn gốc cuộc hành trình của chúng ta với Chúa Giêsu. "Đi đến Galilê " có nghĩa là một cái gì đó rất đẹp, nó có nghĩa là tái khám phá bí tích rửa tội của chúng ta như một suối nguồn sự sống, là kín múc năng lượng mới từ nguồn mạch đức tin và kinh nghiệm Kitô của chúng ta. Trở về Galilê trên tất cả có nghĩa là trở về với ngọn lửa mà ân sủng của Thiên Chúa đã chạm vào tôi lúc bắt đầu cuộc hành trình với Ngài. Từ ngọn lửa đó tôi có thể đốt lên ngọn lửa cho ngày hôm nay và cho mỗi ngày, và mang lại sức nóng và ánh sáng cho anh chị em của tôi. Ngọn lửa này loé lên một niềm vui khiêm nhường, một niềm vui mà u sầu và đau khổ không thể làm mất tinh thần, một niềm vui tốt lành và nhẹ nhàng.
Trong đời sống của mỗi Kitô hữu, sau phép rửa tội cũng có là một “Galilê” hiện sinh hơn: đó là kinh nghiệm của một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô Đấng đã gọi tôi theo Ngài và chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Theo nghĩa đó, trở về Galilê là lưu giữ trong trái tim tôi ký ức sống động về lời mời gọi, khi Chúa Giêsu đi ngang qua tôi, nhìn tôi chăm chú với lòng thương xót và gọi tôi theo Ngài. Nó có nghĩa là làm sống lại ký ức về thời điểm khi mắt Ngài gặp gỡ mắt tôi, thời điểm khi Ngài làm tôi nhận ra rằng Ngài yêu thương tôi.
Hôm nay, tối nay, mỗi người chúng ta có thể hỏi: Galilê của tôi là gì ? Galilê của tôi ở đâu? Tôi có nhớ nó không? Hay tôi đã quên nó rồi? Hay tôi đã đi chệch khỏi những con đường cho nên tôi đã quên nó? Lạy Chúa, xin giúp con: cho con biết Galilê của con ở đâu; vì Chúa muốn con trở lại đó gặp Chúa và để cho con được ôm ấp bởi lòng thương xót Chúa.
Tin Mừng Phục Sinh rất rõ ràng: chúng ta cần phải trở lại đó, để thấy Chúa Giêsu phục sinh, và trở thành chứng nhân phục sinh của Người. Điều này không phải là đi ngược thời gian; nó không phải là một loại hoài niệm quá khứ. Nó là trở lại với mối tình đầu của chúng ta với Chúa, để nhận được ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã nhen nhóm trong thế giới này và mang ngọn lửa ấy đến cho tất cả mọi người, khắp cùng bờ cõi trái đất.
"Galilê của dân ngoại" (Mt 4:15; Is 08:23 ) ! Chân trời của Chúa Phục Sinh, chân trời của Giáo Hội; mong muốn mãnh liệt của cuộc gặp gỡ. .. Nào chúng ta hãy lên đường! "
Sau cái chết của Thầy, các môn đệ đã tản mác; đức tin của họ đã bị lung lay hoàn toàn, tất cả mọi thứ dường như đã kết thúc, tất cả những xác tín của họ đã sụp đổ và hy vọng của họ đã chết. Nhưng giờ đây thông điệp của những người phụ nữ, tự nó là không thể tin được, đến với họ như một tia sáng trong bóng tối. Tin tức loan đi: Chúa Giêsu đã sống lại như Ngài đã phán. Và sau đó có cả lệnh truyền của Ngài hãy đi Galilê. Những người phụ nữ đã nghe lệnh truyền này hai lần, lần đầu tiên từ thiên thần và sau đó từ chính Chúa Giêsu: "báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó ".
Galilê là nơi mà các tông đồ lần đầu tiên gặp Chúa, nơi mà mọi thứ bắt đầu! Trở lại đó, tức là quay trở lại nơi mà họ được kêu gọi ban đầu. Chúa Giêsu đã đi bộ dọc theo bờ hồ trong khi những ngư phủ này đang thả lưới. Ngài đã kêu gọi họ, và họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (x. Mt 4:18-22 ).
Trở về Galilê có nghĩa là đọc lại tất cả mọi thứ trên cơ sở của thánh giá và vinh quang của thánh giá. Đọc lại tất cả mọi thứ - những lời rao giảng của Chúa, các phép lạ của Ngài, cộng đoàn mới, những phấn khích và đào tẩu, ngay cả sự phản bội - đọc lại tất cả mọi thứ bắt đầu từ cái sau cùng, dưới ánh sáng của hành động là tuyệt đỉnh của tình yêu. Đó là một khởi đầu mới.
Đối với mỗi người chúng ta cũng có một "Galilê" là nguồn gốc cuộc hành trình của chúng ta với Chúa Giêsu. "Đi đến Galilê " có nghĩa là một cái gì đó rất đẹp, nó có nghĩa là tái khám phá bí tích rửa tội của chúng ta như một suối nguồn sự sống, là kín múc năng lượng mới từ nguồn mạch đức tin và kinh nghiệm Kitô của chúng ta. Trở về Galilê trên tất cả có nghĩa là trở về với ngọn lửa mà ân sủng của Thiên Chúa đã chạm vào tôi lúc bắt đầu cuộc hành trình với Ngài. Từ ngọn lửa đó tôi có thể đốt lên ngọn lửa cho ngày hôm nay và cho mỗi ngày, và mang lại sức nóng và ánh sáng cho anh chị em của tôi. Ngọn lửa này loé lên một niềm vui khiêm nhường, một niềm vui mà u sầu và đau khổ không thể làm mất tinh thần, một niềm vui tốt lành và nhẹ nhàng.
Trong đời sống của mỗi Kitô hữu, sau phép rửa tội cũng có là một “Galilê” hiện sinh hơn: đó là kinh nghiệm của một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô Đấng đã gọi tôi theo Ngài và chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Theo nghĩa đó, trở về Galilê là lưu giữ trong trái tim tôi ký ức sống động về lời mời gọi, khi Chúa Giêsu đi ngang qua tôi, nhìn tôi chăm chú với lòng thương xót và gọi tôi theo Ngài. Nó có nghĩa là làm sống lại ký ức về thời điểm khi mắt Ngài gặp gỡ mắt tôi, thời điểm khi Ngài làm tôi nhận ra rằng Ngài yêu thương tôi.
Hôm nay, tối nay, mỗi người chúng ta có thể hỏi: Galilê của tôi là gì ? Galilê của tôi ở đâu? Tôi có nhớ nó không? Hay tôi đã quên nó rồi? Hay tôi đã đi chệch khỏi những con đường cho nên tôi đã quên nó? Lạy Chúa, xin giúp con: cho con biết Galilê của con ở đâu; vì Chúa muốn con trở lại đó gặp Chúa và để cho con được ôm ấp bởi lòng thương xót Chúa.
Tin Mừng Phục Sinh rất rõ ràng: chúng ta cần phải trở lại đó, để thấy Chúa Giêsu phục sinh, và trở thành chứng nhân phục sinh của Người. Điều này không phải là đi ngược thời gian; nó không phải là một loại hoài niệm quá khứ. Nó là trở lại với mối tình đầu của chúng ta với Chúa, để nhận được ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã nhen nhóm trong thế giới này và mang ngọn lửa ấy đến cho tất cả mọi người, khắp cùng bờ cõi trái đất.
"Galilê của dân ngoại" (Mt 4:15; Is 08:23 ) ! Chân trời của Chúa Phục Sinh, chân trời của Giáo Hội; mong muốn mãnh liệt của cuộc gặp gỡ. .. Nào chúng ta hãy lên đường! "
Thông Điệp Phục Sinh Urbi et Orbi 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô
J.B. Đặng Minh An dịch
07:41 20/04/2014
Anh chị em thân mến, Chúc Mừng Phục Sinh!
Giáo Hội trên khắp thế giới vang vọng thông điệp của thiên thần cho những người phụ nữ: “Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy... Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm” (Mt 28:5-6)
Đây là đỉnh cao của Tin Mừng, đó là Tin Vui tuyệt hảo: Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh, đã sống lại! Biến cố này là cơ sở của niềm tin và hy vọng của chúng ta. Nếu Chúa Kitô không sống lại, Kitô giáo sẽ mất đi chính ý nghĩa của nó; toàn bộ sứ mệnh của Giáo Hội sẽ mất hết xung động, đây là điểm khởi đầu và tiếp tục mở ra bất tận những điều mới mẻ. Thông điệp mà các Kitô hữu mang đến cho thế giới này là: Chúa Giêsu, là tình yêu nhập thể, đã chết trên thập tự giá cho tội lỗi của chúng ta, nhưng Chúa Cha đã cho Ngài sống lại và đặt Ngài trở thành Chúa của sự sống và cái chết. Trong Chúa Giêsu, tình yêu đã chiến thắng hận thù, lòng thương xót lướt thắng tội lỗi, sự thiện hảo chiến thắng trên sự dữ, sự thật vượt lên trên dối trá, sự sống đánh bại sự chết.
Đó là lý do tại sao chúng ta nói với mọi người: “Hãy đến và xem” Trong mọi tình huống của con người, ghi dấu bởi sự yếu đuối, tội lỗi và cái chết, Tin Mừng không chỉ đơn thuần là những từ ngữ, nhưng là một chứng tá cho tình yêu vô điều kiện và trung tín: đó là chuyện để lại chính mình phía sau và gặp gỡ những người khác, gần gũi với những người bị chà đạp bởi những vấn nạn trong cuộc đời, chia sẻ với những người nghèo, đứng bên cạnh người bệnh, người già và người bị bỏ rơi. .. “Hãy đến và xem !” Tình yêu là mạnh hơn, tình yêu trao ban cuộc sống, tình yêu làm cho hy vọng nở hoa trong chốn hoang dại.
Với niềm vui chắc chắn này trong tâm hồn, hôm nay chúng con hướng về Ngài, Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh!
Xin Chúa giúp chúng con tìm kiếm Chúa và gặp thấy Chúa, để nhận ra rằng chúng con có một Cha và không phải là những trẻ mồ côi; và chúng con có thể yêu thương và tôn thờ Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con vượt qua tai ương đói kém, ngày càng trầm trọng hơn bởi các cuộc xung đột và các lãng phí to lớn mà thường là chúng con phải chịu trách nhiệm.
Xin Chúa cho chúng con có thể bảo vệ những người dễ bị tổn thương, đặc biệt là trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi, những người đôi khi bị khai thác và bị bỏ rơi.
Xin Chúa cho chúng con có thể chăm sóc cho anh chị em của chúng con đang gánh chịu trận dịch Ebola ở Guinea Conakry, Sierra Leone và Liberia, và có thể chăm sóc cho những người mắc rất nhiều bệnh khác nữa cũng lây lan bởi sự thờ ơ và nghèo đói cùng cực.
Xin Chúa an ủi tất cả những ai không thể mừng lễ Phục Sinh này với những người thân yêu của họ, vì họ đã bị chia lìa một cách bất công khỏi những tình thân, như nhiều người, linh mục và giáo dân, đã bị bắt cóc ở nhiều miền khác nhau trên thế giới.
Xin Chúa an ủi những người phải bỏ lại sau lưng đất nước của họ để di dân đến những nơi cho họ chút hy vọng về một tương lai tốt hơn và khả năng có thể sống trong phẩm giá và có thể tự do tuyên xưng đức tin của mình.
Chúng con xin Chúa, Lạy Chúa Giêsu, xin chấm dứt tất cả các cuộc chiến tranh và mọi xung đột, lớn nhỏ, cũ mới.
Chúng con cầu nguyện cách đặc biệt cho Syria, xin cho tất cả những người bị ảnh hưởng của cuộc xung đột có thể nhận được viện trợ nhân đạo cần thiết và không một bên nào tái sử dụng vũ lực chết người, đặc biệt là trên những người dân vô phương tự vệ, nhưng thay vào đó là mạnh dạn đàm phán cho nền hòa bình lâu dài đã được mong ngóng quá lâu!
Xin Chúa an ủi các nạn nhân của các hành vi bạo lực huynh đệ tương tàn tại Iraq và nâng đỡ hy vọng vừa loé lên từ việc nối lại các cuộc đàm phán giữa Israel và Palestine.
Chúng con xin Chúa chấm dứt các cuộc xung đột tại nước Cộng hòa Trung Phi và ngưng các cuộc tấn công khủng bố tàn bạo trong các miền tại Nigeria cũng như các hành vi bạo lực ở Nam Sudan.
Chúng con xin lòng trí con người có thể hướng đến hòa giải và hòa hợp huynh đệ tại Venezuela.
Nhờ sự Phục Sinh của Chúa, mà năm nay chúng con cử hành cùng một thời điểm với các Giáo Hội sử dụng lịch Julian, chúng con xin Chúa soi sáng và truyền cảm hứng cho những sáng kiến nhằm thúc đẩy hòa bình ở Ukraine để tất cả những người có liên quan, với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, sẽ đưa ra mọi nỗ lực để ngăn chặn bạo lực và vạch ra một con đường cho tương lai của đất nước trong một tinh thần đoàn kết và đối thoại.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho tất cả các dân tộc trên trái đất này: Chúa là Đấng đã chiến thắng sự chết, xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, xin ban cho chúng con bình an của Chúa!
Giáo Hội trên khắp thế giới vang vọng thông điệp của thiên thần cho những người phụ nữ: “Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy... Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm” (Mt 28:5-6)
Đây là đỉnh cao của Tin Mừng, đó là Tin Vui tuyệt hảo: Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh, đã sống lại! Biến cố này là cơ sở của niềm tin và hy vọng của chúng ta. Nếu Chúa Kitô không sống lại, Kitô giáo sẽ mất đi chính ý nghĩa của nó; toàn bộ sứ mệnh của Giáo Hội sẽ mất hết xung động, đây là điểm khởi đầu và tiếp tục mở ra bất tận những điều mới mẻ. Thông điệp mà các Kitô hữu mang đến cho thế giới này là: Chúa Giêsu, là tình yêu nhập thể, đã chết trên thập tự giá cho tội lỗi của chúng ta, nhưng Chúa Cha đã cho Ngài sống lại và đặt Ngài trở thành Chúa của sự sống và cái chết. Trong Chúa Giêsu, tình yêu đã chiến thắng hận thù, lòng thương xót lướt thắng tội lỗi, sự thiện hảo chiến thắng trên sự dữ, sự thật vượt lên trên dối trá, sự sống đánh bại sự chết.
Đó là lý do tại sao chúng ta nói với mọi người: “Hãy đến và xem” Trong mọi tình huống của con người, ghi dấu bởi sự yếu đuối, tội lỗi và cái chết, Tin Mừng không chỉ đơn thuần là những từ ngữ, nhưng là một chứng tá cho tình yêu vô điều kiện và trung tín: đó là chuyện để lại chính mình phía sau và gặp gỡ những người khác, gần gũi với những người bị chà đạp bởi những vấn nạn trong cuộc đời, chia sẻ với những người nghèo, đứng bên cạnh người bệnh, người già và người bị bỏ rơi. .. “Hãy đến và xem !” Tình yêu là mạnh hơn, tình yêu trao ban cuộc sống, tình yêu làm cho hy vọng nở hoa trong chốn hoang dại.
Với niềm vui chắc chắn này trong tâm hồn, hôm nay chúng con hướng về Ngài, Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh!
Xin Chúa giúp chúng con tìm kiếm Chúa và gặp thấy Chúa, để nhận ra rằng chúng con có một Cha và không phải là những trẻ mồ côi; và chúng con có thể yêu thương và tôn thờ Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con vượt qua tai ương đói kém, ngày càng trầm trọng hơn bởi các cuộc xung đột và các lãng phí to lớn mà thường là chúng con phải chịu trách nhiệm.
Xin Chúa cho chúng con có thể bảo vệ những người dễ bị tổn thương, đặc biệt là trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi, những người đôi khi bị khai thác và bị bỏ rơi.
Xin Chúa cho chúng con có thể chăm sóc cho anh chị em của chúng con đang gánh chịu trận dịch Ebola ở Guinea Conakry, Sierra Leone và Liberia, và có thể chăm sóc cho những người mắc rất nhiều bệnh khác nữa cũng lây lan bởi sự thờ ơ và nghèo đói cùng cực.
Xin Chúa an ủi tất cả những ai không thể mừng lễ Phục Sinh này với những người thân yêu của họ, vì họ đã bị chia lìa một cách bất công khỏi những tình thân, như nhiều người, linh mục và giáo dân, đã bị bắt cóc ở nhiều miền khác nhau trên thế giới.
Xin Chúa an ủi những người phải bỏ lại sau lưng đất nước của họ để di dân đến những nơi cho họ chút hy vọng về một tương lai tốt hơn và khả năng có thể sống trong phẩm giá và có thể tự do tuyên xưng đức tin của mình.
Chúng con xin Chúa, Lạy Chúa Giêsu, xin chấm dứt tất cả các cuộc chiến tranh và mọi xung đột, lớn nhỏ, cũ mới.
Chúng con cầu nguyện cách đặc biệt cho Syria, xin cho tất cả những người bị ảnh hưởng của cuộc xung đột có thể nhận được viện trợ nhân đạo cần thiết và không một bên nào tái sử dụng vũ lực chết người, đặc biệt là trên những người dân vô phương tự vệ, nhưng thay vào đó là mạnh dạn đàm phán cho nền hòa bình lâu dài đã được mong ngóng quá lâu!
Xin Chúa an ủi các nạn nhân của các hành vi bạo lực huynh đệ tương tàn tại Iraq và nâng đỡ hy vọng vừa loé lên từ việc nối lại các cuộc đàm phán giữa Israel và Palestine.
Chúng con xin Chúa chấm dứt các cuộc xung đột tại nước Cộng hòa Trung Phi và ngưng các cuộc tấn công khủng bố tàn bạo trong các miền tại Nigeria cũng như các hành vi bạo lực ở Nam Sudan.
Chúng con xin lòng trí con người có thể hướng đến hòa giải và hòa hợp huynh đệ tại Venezuela.
Nhờ sự Phục Sinh của Chúa, mà năm nay chúng con cử hành cùng một thời điểm với các Giáo Hội sử dụng lịch Julian, chúng con xin Chúa soi sáng và truyền cảm hứng cho những sáng kiến nhằm thúc đẩy hòa bình ở Ukraine để tất cả những người có liên quan, với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, sẽ đưa ra mọi nỗ lực để ngăn chặn bạo lực và vạch ra một con đường cho tương lai của đất nước trong một tinh thần đoàn kết và đối thoại.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho tất cả các dân tộc trên trái đất này: Chúa là Đấng đã chiến thắng sự chết, xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, xin ban cho chúng con bình an của Chúa!
Ngàn hoa trong vườn của sự sống lại và hòa bình của Đấng đã Phục Sinh
Bùi Hữu Thư
08:51 20/04/2014
Đức Thánh Cha cầu nguyện với Đức Ki-tô hiển vinh cho toàn thế giới
Rome, 20 tháng 4, 2014 (Zenit.org)
Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố trong điệp văn ngày Phục Sinh, trước khi chúc lành cho toàn thế giới và cho Thành Rôma - Urbi et Orbi - từ loggia (Phòng tiếp tân của cung điện Vatican), và nài xin Chúa Kitô ban hòa bình cho toàn thế giới: “Đây là đỉnh cao của Phúc Âm, đây là Tin Mừng tuyệt vời nhất: Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh, đã sống lại!”
Trước đó Đức Thánh Cha đã chủ tế Thánh Lễ Phục Sinh, trong “vườn” của sự sống lại, hàng năm được trang hoàng bởi 30 công ty sản xuất hoa trên thềm của quảng trường Thánh Phêrô, với muôn mầu hoa: 2 500 bông hồng Avanlanche, 6 000 hoa huệ đủ mầu và 8 000 hoa huệ vàng, thêm 1 200 hoa tulip đỏ, vàng, cam, trắng, hồng và tím, 2 500 hoa jacinthe thơm ngào ngạt, rhododendron, hoa mận, acer, forsithia vàng, strelizia, magnolia, delphinum trắng, xanh, hồng, nâu, và các hoa đặc biệt khác như hoa eliconia mầu da cam... Và tại loggia có những hoa lan trắng mảnh mai...
Đây là một truyền thống bắt đầu từ năm 1985, nhờ ông Nic van der Voort nhân dịp phong chân phước cho Thánh Titus Bransma: ngày nay được em của ông là Charles van der Voort tiếp tục. Đây là một công trình vĩ đại, ông Charles van der Voort tâm sự với hãng thông tấn Zenit, hàng năm phải ước tính số lượng hoa cần thiết cho Chúa Nhật Phục Sinh, tùy theo nhiệt độ của mùa xuân: năm nay ấm nhiều hơn thường lệ.
Ông đã giải thích rằng có hai xe vận tải hoa đã chạy trong 24 tiếng để cho sự phục sinh của Chúa được thể hiện năm nay với bao nhiêu hương thơm ngào ngạt, bao nhiêu mầu sắc và hình thể chung quanh bàn thờ, trước tòa Đức Thánh Cha, trước các tượng Chúa Ki-tô Cứu Thế, và tượng Đức Mẹ cùng Chúa Hài Nhi.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã không quên cám ơn ông Charles van der Voort sau khi ban phép lành về công trình tuyệt vời này.
Một vẻ huy hoàng này, một sự bùng nổ của sức sống này trái nghịch với các vết thương trên toàn thế giới. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc tới và cầu xin quyền năng vinh hiển của Chúa Ki-tô Phục Sinh ban hòa bình cho Miền Trung Phi Châu, xứ Nigeria, các nước Phi Châu bị tàn phá bởi chiến tranh hay vì dịch vi khuẩn Ebola, nước Syria yêu quý (về sự can đảm trong việc thương lượng cho hòa bình), Đất Thánh, Iraq, Nam Sudan, Venezuela, và Ukraine (để ngăn chăn sự bạo tàn và xây dựng tương lai của quốc gia này trong một tinh thần hiệp nhất và đối thoại), gánh nặng và sự ô nhục của nạn đói kém, khai thác con người, của những đau khổ, phung phí, và số phận của những người bị giam cầm.
Rome, 20 tháng 4, 2014 (Zenit.org)
Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố trong điệp văn ngày Phục Sinh, trước khi chúc lành cho toàn thế giới và cho Thành Rôma - Urbi et Orbi - từ loggia (Phòng tiếp tân của cung điện Vatican), và nài xin Chúa Kitô ban hòa bình cho toàn thế giới: “Đây là đỉnh cao của Phúc Âm, đây là Tin Mừng tuyệt vời nhất: Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh, đã sống lại!”
Trước đó Đức Thánh Cha đã chủ tế Thánh Lễ Phục Sinh, trong “vườn” của sự sống lại, hàng năm được trang hoàng bởi 30 công ty sản xuất hoa trên thềm của quảng trường Thánh Phêrô, với muôn mầu hoa: 2 500 bông hồng Avanlanche, 6 000 hoa huệ đủ mầu và 8 000 hoa huệ vàng, thêm 1 200 hoa tulip đỏ, vàng, cam, trắng, hồng và tím, 2 500 hoa jacinthe thơm ngào ngạt, rhododendron, hoa mận, acer, forsithia vàng, strelizia, magnolia, delphinum trắng, xanh, hồng, nâu, và các hoa đặc biệt khác như hoa eliconia mầu da cam... Và tại loggia có những hoa lan trắng mảnh mai...
Đây là một truyền thống bắt đầu từ năm 1985, nhờ ông Nic van der Voort nhân dịp phong chân phước cho Thánh Titus Bransma: ngày nay được em của ông là Charles van der Voort tiếp tục. Đây là một công trình vĩ đại, ông Charles van der Voort tâm sự với hãng thông tấn Zenit, hàng năm phải ước tính số lượng hoa cần thiết cho Chúa Nhật Phục Sinh, tùy theo nhiệt độ của mùa xuân: năm nay ấm nhiều hơn thường lệ.
Ông đã giải thích rằng có hai xe vận tải hoa đã chạy trong 24 tiếng để cho sự phục sinh của Chúa được thể hiện năm nay với bao nhiêu hương thơm ngào ngạt, bao nhiêu mầu sắc và hình thể chung quanh bàn thờ, trước tòa Đức Thánh Cha, trước các tượng Chúa Ki-tô Cứu Thế, và tượng Đức Mẹ cùng Chúa Hài Nhi.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã không quên cám ơn ông Charles van der Voort sau khi ban phép lành về công trình tuyệt vời này.
Một vẻ huy hoàng này, một sự bùng nổ của sức sống này trái nghịch với các vết thương trên toàn thế giới. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc tới và cầu xin quyền năng vinh hiển của Chúa Ki-tô Phục Sinh ban hòa bình cho Miền Trung Phi Châu, xứ Nigeria, các nước Phi Châu bị tàn phá bởi chiến tranh hay vì dịch vi khuẩn Ebola, nước Syria yêu quý (về sự can đảm trong việc thương lượng cho hòa bình), Đất Thánh, Iraq, Nam Sudan, Venezuela, và Ukraine (để ngăn chăn sự bạo tàn và xây dựng tương lai của quốc gia này trong một tinh thần hiệp nhất và đối thoại), gánh nặng và sự ô nhục của nạn đói kém, khai thác con người, của những đau khổ, phung phí, và số phận của những người bị giam cầm.
Bài giảng của Cha Raniero Cantalamessa trước ĐTC và Giáo Triều Rôma ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 18/04/2014
J.B. Đặng Minh An dịch
09:48 20/04/2014
“Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ” (Ga 18:5)
Lịch sử Thiên Chúa – loài người trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu bao gồm nhiều câu chuyện nhỏ về những người nam nữ tham gia vào những mảng sáng, tối của biến cố này. Câu chuyện bi thảm nhất là câu chuyện của Giuđa Iscariot. Đây là một trong số ít các sự kiện được đề cập với cùng một mức nhấn mạnh như nhau bởi cả bốn sách Phúc Âm và phần còn lại của Tân Ước. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã suy tư rất nhiều về sự kiện này và chúng ta thật là bất cẩn nếu không làm như thế. Câu chuyện này có nhiều điều để nói với chúng ta.
Giuđa đã được lựa chọn ngay từ đầu trong Nhóm Mười Hai. Khi đưa tên ông ta vào trong danh sách các tông đồ, Thánh Sử Luca viết "Giuđa Iscariot, người trở thành (egeneto) một kẻ phản bội" (Lc 6:16). Như thế, Giuđa đã không phải là một kẻ phản bội từ lúc lọt lòng mẹ, và cũng chẳng phải là một kẻ phản bội lúc Chúa Giêsu chọn ông; sau này ông mới trở thành một kẻ phản bội! Chúng ta đang đứng trước một trong những thảm kịch bi đát nhất của tự do con người.
Tại sao anh ta trở thành một kẻ phản bội? Cách đây không lâu , khi luận đề về "Chúa Giêsu cách mạng" đang cuốn hút nhiều người, người ta cố gắng để gán cho hành động phản bội của Giuđa những động cơ mang tính lý tưởng. Có người nhìn thấy trong tên của ông ta "Iscariot" một chút biến tướng của từ sicariot, nghĩa là anh ta thuộc về một nhóm cuồng tín cực đoan chuyên sử dụng một loại dao găm (sica) để chống lại người La Mã. Lại có những người khác nghĩ rằng Giuđa đã thất vọng với Chúa Giêsu về cách Ngài trình bày "vương quốc Thiên Chúa" và muốn buộc Ngài ra tay hành động chống lại các dân ngoại cả trên bình diện chính trị. Đây là Giuđa của vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar và của những bộ phim và tiểu thuyết khác được chào đời gần đây - một Giuđa giống như một kẻ nổi tiếng đã phản bội ân nhân mình, là Brutus, người đã giết Julius Caesar để cứu nền Cộng hòa La Mã!
Đây là những tái tạo lại câu chuyện phải được tôn trọng nếu như chúng có giá trị văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng không có bất kỳ cơ sở lịch sử nào. Những sách Phúc Âm là các nguồn đáng tin cậy duy nhất mà chúng ta có về nhân vật Giuđa đều đồng thanh nói về một động cơ rất trần tục: đó là tiền. Giuđa đã được giao phó giữ tiền của nhóm; khi bà Maria Mađalêna xức dầu thơm cho Chúa tại Bethany, Giuđa đã phản đối việc dùng dầu thơm quý giá để đổ lên chân Chúa không phải vì ông quan tâm đến người nghèo nhưng, như thánh Gioan lưu ý , "vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung."(Ga 12:6 ). Đề nghị của ông với các thượng tế thật là rõ ràng: ‘Các ông định cho tôi bao nhiêu, nếu tôi giao nạp Người cho các ông? Và các thượng tế ấn định số tiền là 30 đồng bạc’” (Mt 26,15).
Nhưng tại sao người ta lại ngạc nhiên trước lời giải thích này, câu trả lời hiển nhiên quá mà? Chẳng phải chuyện như thế vẫn luôn xảy ra trong lịch sử và vẫn xảy ra ngày hôm nay sao? Mammon, thần tài, không chỉ là một ngẫu tượng trong số rất nhiều những ngẫu tượng: nhưng đó là thứ ngẫu tượng trỗi vượt nhất, đó là thứ "thần được người ta đúc lên" (xem Xh 34:17 ) Và chúng ta biết lý do tại sao. Khách quan mà nói ai là kẻ thù thực sự, là đối thủ của Thiên Chúa trong thế giới này? Không phải Satan sao? Chẳng ai quyết định phụng sự Satan mà không có một động cơ . Bất cứ ai quyết định làm như vậy đều tin rằng họ sẽ có được một số quyền thế hoặc lợi ích trần tục nào đó từ hắn ta. Ngoài Thiên Chúa ra, một số người lại có một ông chủ khác đối nghịch với Thiên Chúa, Chúa Giêsu nói với chúng ta rõ ràng người chủ khác ấy là ai: "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được "(Mt 6:24 ). Tiền của là thứ “thần có thể nhìn thấy được” trái ngược với Thiên Chúa là Đấng vô hình.
Thần tài chống lại Thiên Chúa vì nó tạo ra nơi con người một vũ trụ tinh thần khác; nó thay đổi mục đích của nhân đức đối thần. Đức tin, hy vọng và lòng bác ái không còn được đặt vào Thiên Chúa nhưng vào tiền. Một đảo ngược nham hiểm của tất cả các giá trị xảy ra. Kinh Thánh nói: " Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin " (Mc 9:23), nhưng thế gian nói: "Có tiền mua tiên cũng được." Và trên một bình diện nhất định, mọi thứ dường như là như thế thật.
Kinh Thánh nói: "Lòng yêu mến tiền bạc là căn nguyên của mọi tội lỗi" (1 Tim 6:10). Đằng sau mọi sự dữ trong xã hội của chúng ta là tiền bạc, hay ít nhất cũng có dính líu đến tiền. Chúng ta nhớ lại trong Kinh Thánh câu chuyện các thanh niên nam nữ đã phải hy sinh cho thần Mo-lóc (x. Gr 32:35 ) hay câu chuyện thần Aztec mà hàng ngày một số lượng nhất định dân chúng bị giết để lấy tim dâng lên thần . Những gì nằm phía sau nạn buôn bán ma túy phá hủy rất nhiều cuộc sống của con người, đằng sau hiện tượng mafia, đằng sau việc tham nhũng của các chính trị gia, đằng sau việc sản xuất và bán các loại vũ khí, và thậm chí đằng sau một điều thật khủng khiếp - khi phải đề cập đến - là việc bán nội tạng con người lấy từ trẻ em? Và còn cuộc khủng hoảng tài chính mà thế giới đã và đang trải qua cũng như đất nước này vẫn còn đang gánh chịu, không phải phần lớn là do “sự ham hố tiền của đáng nguyền rủa” của một số người sao? Giuđa đã bắt đầu nhón khỏi ví chung cuả cả nhóm. Còn một số các quản trị viên công quỹ thì sao?
Tuy nhiên, bên cạnh những tội phạm hình sự để có tiền, còn có cả những xì căng đan trong đó một số người kiếm được tiền lương và hưu trí đôi khi cao hơn so với những người làm việc cho họ 100 lần và họ ồn ào phản đối khi một đề nghị được đưa ra để giảm tiền lương của họ ngõ hầu xã hội có thể công bằng hơn?
Trong những thập niên 1970 và 1980, tại Ý, để giải thích cho những thay đổi chính trị bất ngờ, những hành xử quyền lực bí ẩn, khủng bố, và tất cả các loại bí ẩn gây phiền hà cho cuộc sống dân sự, người ta bắt đầu đề cập đến ý tưởng bán thần thoại về sự tồn tại của một "Bố Già", một nhân vật quỷ quyệt và quyền thế là kẻ đứng sau hậu trường giật dây cho tất cả mọi chuyện để đạt đến những mục tiêu chỉ mình hắn ta biết mà thôi. “Bố Già” quyền uy ngất ngưởng này thực sự tồn tại và chẳng phải là một huyền thoại đâu. Tên hắn ta là tiền!
Giống như tất cả các ngẫu tượng khác, thần tài quỷ quyệt gian ngoa: nó hứa hẹn an ninh nhưng thay vào đó nó lấy đi; nó hứa hẹn tự do nhưng thực tế lại phá hủy tự do. Thánh Phanxicô Assisi , với một mức độ nghiêm khắc không thường thấy nơi ngài, đã mô tả giờ phút kết thúc cuộc đời của một người đã sống chỉ để làm tăng “vốn liếng” của mình. Khi gần chết ông ta mời linh mục đến. Vị linh mục hỏi người sắp chết, "Ông có muốn được tha thứ tất cả tội lỗi của ông không?" Và ông trả lời: "Thưa có." Linh mục hỏi tiếp: "Ông có sẵn sàng để sửa chữa những sai lầm ông đã gây ra, khôi phục lại những thứ ông đã lừa đảo của những người khác không? "người đàn ông sắp chết thều thào trả lời: "không, không thể được." "Tại sao lại không thể được?" "Bởi vì tôi đã giao phó mọi sự trong tay của người thân và bạn bè của tôi.". Như thế, ông ta chết đi mà không ăn năn hối cải, và trong khi thi hài ông bắt đầu lạnh dần người thân và bạn bè của ông tụ họp lại bên cạnh. Họ nói, "Thằng chết tiệt này! Lẽ ra nó nên kiếm nhiều tiền hơn để lại cho chúng ta mới phải chứ."
Bao nhiêu lần trong thời buổi này chúng ta lẽ ra phải suy nghĩ lại một lần nữa tiếng Chúa Giêsu kêu lên với người phú hộ trong dụ ngôn về người cứ lo thu tóm của cải bất tận và nghĩ rằng phần còn lại của cuộc đời mình sẽ được an toàn: "Đồ ngu! Nội đêm nay, mạng ngươi bị đòi lại, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? "(Lc 12:20)
Những người có quyền chức tham ô đến nỗi hết nhớ nổi ngân hàng nào, thiên đường tài chính nào tàng trữ bao nhiêu tiền tham nhũng của mình đã nhận ra bản thân mình đang bị xét xử tại tòa án hoặc tại một nhà tù đúng ngay vào lúc họ tự nhủ với lòng mình: "Yên tâm mà hưởng đi, hồn tôi ơi." Họ làm điều đó cho ai? Nó có đáng không? Phải chăng họ làm như thế vì lợi ích của con em và gia đình của họ, hoặc đảng phái của họ, nếu thực sự họ nghĩ như thế? Hay là chỉ hủy hoại bản thân và những người khác?
Sự phản bội của Giuđa vẫn tiếp tục xuyên suốt trong lịch sử, và người bị phản bội luôn luôn là Chúa Giêsu. Giuđa bán Đầu [ý chỉ Chúa Giêsu – chú thích của người dịch], trong khi những kẻ bắt chước ông bán phần thân mình, vì người nghèo là chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô, cho dù họ biết điều đó hay không. "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy " (Mt 25:40 ) . Tuy nhiên , sự phản bội của Giuđa không chỉ tiếp tục trong phạm vi các nhân vật cao cấp các loại mà tôi vừa đề cập. Thật là an ủi cho chúng ta nếu được như thế, nhưng không phải vậy đâu. Bài giảng mà cha Primo Mazzolari vào Thứ Năm Tuần Thánh năm 1958, về "Anh Giuđa của chúng ta" vẫn còn rất nổi tiếng. Ngài nói với vài giáo dân ngồi trước mặt ngài, "Hãy để tôi suy nghĩ về cái tên Giuđa trong người tôi đây một lúc, về cái tên Giuđa, có lẽ cũng có cả bên trong anh chị em. "
Người ta có thể phản bội Chúa Giêsu để đổi lấy những thứ khác hơn là 30 đồng bạc. Một người đàn ông phản bội vợ mình, hoặc người vợ phản bội chồng, là phản bội Chúa Kitô. Các thừa tác viên của Chúa không trung thành với đấng bậc của mình trong cuộc sống, hoặc thay vì nuôi dưỡng những con chiên được giao phó cho ngài lại dùng những con chiên ấy như nguồn vỗ béo cho chính mình, là phản bội Chúa Giêsu. Bất cứ ai phản bội lương tâm của họ đều phản bội Chúa Giêsu. Thậm chí tôi có thể phản bội Ngài ngay lúc này đây- và điều này làm cho tôi run sợ - nếu như trong khi giảng về Giuđa tôi quan tâm đến sự đồng thuận của khán giả hơn là dự phần trong nỗi buồn bao la của Đấng Cứu Thế . Có một trường hợp giảm khinh trong trường hợp của Giuđa mà tôi không có. Ông ta không biết Chúa Giêsu là ai và chỉ coi Ngài là "một người công chính"; ông không biết rõ như chúng ta rằng Ngài là Con Thiên Chúa!
Mỗi năm khi Mùa Phục Sinh đến gần, tôi đều muốn nghe lại bản "Cuộc thương khó Chúa Kitô theo Thánh Matthêu" của Bach. Nó bao gồm một chi tiết khiến tôi rùng mình mỗi lần. “Ðang bữa ăn, Người nói: Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Mt 26:21). Khi Chúa Giêsu thông báo như thế, tất cả các tông đồ đều hỏi Chúa Giêsu : "Có phải con không, thưa Thầy?" Trước khi chúng ta nghe câu trả lời của Chúa Kitô , nhà soạn nhạc - xóa đi khoảng cách giữa biến cố và việc tưởng niệm biến cố ấy - thêm vào một hợp xướng bắt đầu như thế này: "Đó là con; Con là kẻ phản bội! Con cần phải đền bù tội lỗi con." Giống như tất cả các hợp xướng thánh ca trong tác phẩm âm nhạc này, nó thể hiện tình cảm của những người đang lắng nghe. Nó cũng là một lời mời gọi chúng ta xưng thú tội lỗi mình.
Tin Mừng mô tả cái kết cục khủng khiếp của Giuđa: "Bấy giờ, Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan". Nhưng họ đáp: ‘Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!’ Giuđa ném số bạc vào Ðền Thờ rồi lui ra và đi thắt cổ" (Mt 27:3-5). Nhưng chúng ta không nên đưa ra một phán quyết vội vàng ở đây. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi Giuđa, và không ai biết, sau khi ông treo mình lên cây với một sợi dây thừng quanh cổ, ông ta sẽ đi về đâu: trong tay của Satan hay trong bàn tay của Thiên Chúa. Ai có thể biết được điều gì đã loé lên trong tâm hồn ông trong những giây phút cuối cùng này? “Bạn” là từ cuối cùng mà Chúa Giêsu gọi ông, và ông không thể quên được, cũng giống như ông không thể quên ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn ông.
Đúng là khi nói chuyện với Chúa Cha về các môn đệ của Ngài, Chúa Giêsu đã nói về Giuđa, “không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng”(Ga 17:12) . Nhưng ở đây, như trong rất nhiều trường hợp khác, Ngài đang nói từ quan điểm của thời gian và không phải vĩnh hằng. Tầm cỡ của sự phản bội này tự mình đã đủ, không cần phải tính đến sự thất bại đó là vĩnh cửu để giải thích một bản án đáng sợ khác nói về Giuđa: “Ðã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mc 14 : 21). Số phận đời đời của một con người là một bí mật bất khả xâm phạm được gìn giữ bởi Thiên Chúa. Giáo Hội bảo đảm với chúng ta rằng một người nam hay một người nữ được công bố là một vị thánh đang được nếm hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng Giáo Hội không biết chắc chắn rằng một người cụ thể nào đó đã phải sa hoả ngục hay không.
Dante Alighieri, là một nhà thơ, là người đã đặt Giuđa trong tầng cuối cùng sâu nhất của địa ngục trong tác phẩm Divine Comedy của mình, đã kể về việc hoán cải vào giờ phút cuối cùng của Manfred, con trai Hoàng Đế Frederick II và là vua xứ Sicily, người mà tất cả mọi người vào thời điểm đó đều coi y là đáng nguyền rủa vì ông đã chết trong vạ tuyệt thông. Bị thương chí mạng trong một trận chiến, Manfred tâm sự với nhà thơ rằng vào thời điểm cuối cùng của cuộc đời mình, " ... trong than khóc, tôi đã phó linh hồn tôi cho Đấng đã sẵn sàng tha thứ" và ông đã gửi một tin nhắn từ Luyện Ngục về trái đất mà ngày nay vẫn còn có liên quan tới chúng ta:
Khủng khiếp là bản chất của tội lỗi tôi, nhưng lòng thương xót vô biên mở rộng vòng tay của mình cho bất kỳ người nào tìm kiếm nó.
Đây là điều mà câu chuyện về người anh em Giuđa của chúng ta nên khiến chúng ta phải làm: ấy là sấp mình trước Đấng sẵn lòng tha thứ cho chúng ta cách nhưng không, là ném mình tương tự như vậy vào cánh tay đang dang ra của Đấng chịu đóng đinh. Điều quan trọng nhất trong câu chuyện của Giuđa không phải là sự phản bội của ông ta nhưng là phản ứng của Chúa Giêsu đối với ông. Ngài biết rõ những gì đã phát triển trong trái tim người môn đệ mình, nhưng Ngài không phơi bày ra; Ngài muốn cho Giuđa cơ hội cho tới tận phút cuối cùng để quay trở lại, và gần như che chắn cho anh ta. Ngài biết lý do tại sao Giuđa đến vườn ô liu, nhưng Ngài không từ chối nụ hôn lạnh lùng của y và thậm chí còn gọi y là "bạn" (xem Mt 26:50 ). Ngài đã tìm ra Phêrô sau khi chối Chúa để tha thứ cho ông, vì vậy Ngài có thể đã tìm ra Giuđa tại chỗ nào đó trên đường lên núi Sọ! Khi Chúa Giêsu cầu nguyện từ trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng; vì chúng không biết việc chúng làm "(Lc 23:34) , Chúa chắc chắn không loại trừ Giuđa trong số những người mà Ngài cầu nguyện cho.
Vì vậy, những gì chúng ta sẽ làm là gì? Ai là người mà chúng ta nên noi theo, Giuđa hay Phêrô? Phêrô đã hối hận vì những gì ông đã làm, nhưng chẳng phải Giuđa cũng đã hối hận đến mức bật khóc sao? "Tôi đã phản bội máu người vô tội!" Và ông đã trả lại ba mươi đồng bạc. Vậy đâu là sự khác biệt? Chỉ là một điều này thôi: đó là Phêrô thì tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa Kitô, còn Giuđa thì không! Tội lỗi lớn nhất của Giuđa không phải là phản bội Chúa Kitô nhưng là đã nghi ngờ lòng thương xót vô biên của Ngài.
Nếu chúng ta đã bắt chước Giuđa ít nhiều trong sự phản bội của ông, chúng ta đừng bắt chước ông trong sự thiếu niềm tin vào sự tha thứ. Có một bí tích mà qua đó chúng ta có thể kinh nghiệm chắc chắn về lòng thương xót của Chúa Kitô: đó là bí tích hòa giải. Bí tích này tuyệt vời là ngần nào! Thật là ngọt ngào để cảm nghiệm về Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa , nhưng thậm chí còn ngọt ngào hơn để cảm nghiệm Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đấng lôi anh chị em ra khỏi vực thẳm, như Ngài đã kéo Phêrô khỏi chìm xuống biển, để cảm nghiệm Ngài là Đấng đã chạm vào anh chị em như Ngài đã làm với người bị bệnh phong, và nói với anh chị em, “Tôi muốn, anh sạch đi” (Mt 8:3) .
Bí tích Hòa Giải cho chúng ta cảm nghiệm chính bản thân mình những gì Giáo Hội nói về tội lỗi của A Dong vào đêm Phục Sinh trong bài "Vinh Tụng Ca": "Ôi tội hồng phúc vì đã đem đến một Đấng Cứu Chuộc vĩ đại và vinh quang" Chúa Giêsu biết làm thế nào để lấy đi tất cả tội lỗi của chúng ta, khi chúng ta có lòng ăn năn, và làm cho những tội lỗi này thành "tội hồng phúc", những tội lỗi đó sẽ không còn được nhớ đến, chúng chỉ là dịp để chúng ta cảm nghiệm lòng thương xót và sự dịu dàng của Thiên Chúa.
Tôi có một mong muốn cho bản thân mình và cho tất cả những người cha, người anh, người chị, người em đáng kính: đó là cầu xin cho vào sáng Phục Sinh, chúng ta có thể thức giấc và để cho những lời của một người cải đạo vĩ đại trong thời hiện đại là Paul Claudel, vang vọng trong trái tim của chúng ta.
Thiên Chúa của con, con đã được hồi sinh, và con sống với Chúa một lần nữa!
Con đang mê ngủ, duỗi thẳng tứ chi như một người đã chết trong đêm. Chúa nói: " Hãy có ánh sáng!" Và con tỉnh dậy òa khóc!
Cha của con, Chúa là Đấng đã ban cho con cuộc sống trước lúc rạng đông, con đặt bản thân con trong sự hiện diện của Chúa.
Con tim con tự do và miệng của con sạch sẽ; cơ thể và tinh thần của con đang chay tịnh. Con đã được xá khỏi tất cả các tội lỗi của con, những tội con đã thú nhận từng tội một .
Chiếc nhẫn cưới trên ngón tay con và khuôn mặt của con được rửa sạch. Con giống như một con người vô tội trong ân sủng mà Ngài ban cho con.
Đây là những gì lễ Vượt Qua của Chúa Kitô có thể làm cho chúng ta.
Lịch sử Thiên Chúa – loài người trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu bao gồm nhiều câu chuyện nhỏ về những người nam nữ tham gia vào những mảng sáng, tối của biến cố này. Câu chuyện bi thảm nhất là câu chuyện của Giuđa Iscariot. Đây là một trong số ít các sự kiện được đề cập với cùng một mức nhấn mạnh như nhau bởi cả bốn sách Phúc Âm và phần còn lại của Tân Ước. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã suy tư rất nhiều về sự kiện này và chúng ta thật là bất cẩn nếu không làm như thế. Câu chuyện này có nhiều điều để nói với chúng ta.
Giuđa đã được lựa chọn ngay từ đầu trong Nhóm Mười Hai. Khi đưa tên ông ta vào trong danh sách các tông đồ, Thánh Sử Luca viết "Giuđa Iscariot, người trở thành (egeneto) một kẻ phản bội" (Lc 6:16). Như thế, Giuđa đã không phải là một kẻ phản bội từ lúc lọt lòng mẹ, và cũng chẳng phải là một kẻ phản bội lúc Chúa Giêsu chọn ông; sau này ông mới trở thành một kẻ phản bội! Chúng ta đang đứng trước một trong những thảm kịch bi đát nhất của tự do con người.
Tại sao anh ta trở thành một kẻ phản bội? Cách đây không lâu , khi luận đề về "Chúa Giêsu cách mạng" đang cuốn hút nhiều người, người ta cố gắng để gán cho hành động phản bội của Giuđa những động cơ mang tính lý tưởng. Có người nhìn thấy trong tên của ông ta "Iscariot" một chút biến tướng của từ sicariot, nghĩa là anh ta thuộc về một nhóm cuồng tín cực đoan chuyên sử dụng một loại dao găm (sica) để chống lại người La Mã. Lại có những người khác nghĩ rằng Giuđa đã thất vọng với Chúa Giêsu về cách Ngài trình bày "vương quốc Thiên Chúa" và muốn buộc Ngài ra tay hành động chống lại các dân ngoại cả trên bình diện chính trị. Đây là Giuđa của vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar và của những bộ phim và tiểu thuyết khác được chào đời gần đây - một Giuđa giống như một kẻ nổi tiếng đã phản bội ân nhân mình, là Brutus, người đã giết Julius Caesar để cứu nền Cộng hòa La Mã!
Đây là những tái tạo lại câu chuyện phải được tôn trọng nếu như chúng có giá trị văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng không có bất kỳ cơ sở lịch sử nào. Những sách Phúc Âm là các nguồn đáng tin cậy duy nhất mà chúng ta có về nhân vật Giuđa đều đồng thanh nói về một động cơ rất trần tục: đó là tiền. Giuđa đã được giao phó giữ tiền của nhóm; khi bà Maria Mađalêna xức dầu thơm cho Chúa tại Bethany, Giuđa đã phản đối việc dùng dầu thơm quý giá để đổ lên chân Chúa không phải vì ông quan tâm đến người nghèo nhưng, như thánh Gioan lưu ý , "vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung."(Ga 12:6 ). Đề nghị của ông với các thượng tế thật là rõ ràng: ‘Các ông định cho tôi bao nhiêu, nếu tôi giao nạp Người cho các ông? Và các thượng tế ấn định số tiền là 30 đồng bạc’” (Mt 26,15).
Nhưng tại sao người ta lại ngạc nhiên trước lời giải thích này, câu trả lời hiển nhiên quá mà? Chẳng phải chuyện như thế vẫn luôn xảy ra trong lịch sử và vẫn xảy ra ngày hôm nay sao? Mammon, thần tài, không chỉ là một ngẫu tượng trong số rất nhiều những ngẫu tượng: nhưng đó là thứ ngẫu tượng trỗi vượt nhất, đó là thứ "thần được người ta đúc lên" (xem Xh 34:17 ) Và chúng ta biết lý do tại sao. Khách quan mà nói ai là kẻ thù thực sự, là đối thủ của Thiên Chúa trong thế giới này? Không phải Satan sao? Chẳng ai quyết định phụng sự Satan mà không có một động cơ . Bất cứ ai quyết định làm như vậy đều tin rằng họ sẽ có được một số quyền thế hoặc lợi ích trần tục nào đó từ hắn ta. Ngoài Thiên Chúa ra, một số người lại có một ông chủ khác đối nghịch với Thiên Chúa, Chúa Giêsu nói với chúng ta rõ ràng người chủ khác ấy là ai: "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được "(Mt 6:24 ). Tiền của là thứ “thần có thể nhìn thấy được” trái ngược với Thiên Chúa là Đấng vô hình.
Thần tài chống lại Thiên Chúa vì nó tạo ra nơi con người một vũ trụ tinh thần khác; nó thay đổi mục đích của nhân đức đối thần. Đức tin, hy vọng và lòng bác ái không còn được đặt vào Thiên Chúa nhưng vào tiền. Một đảo ngược nham hiểm của tất cả các giá trị xảy ra. Kinh Thánh nói: " Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin " (Mc 9:23), nhưng thế gian nói: "Có tiền mua tiên cũng được." Và trên một bình diện nhất định, mọi thứ dường như là như thế thật.
Kinh Thánh nói: "Lòng yêu mến tiền bạc là căn nguyên của mọi tội lỗi" (1 Tim 6:10). Đằng sau mọi sự dữ trong xã hội của chúng ta là tiền bạc, hay ít nhất cũng có dính líu đến tiền. Chúng ta nhớ lại trong Kinh Thánh câu chuyện các thanh niên nam nữ đã phải hy sinh cho thần Mo-lóc (x. Gr 32:35 ) hay câu chuyện thần Aztec mà hàng ngày một số lượng nhất định dân chúng bị giết để lấy tim dâng lên thần . Những gì nằm phía sau nạn buôn bán ma túy phá hủy rất nhiều cuộc sống của con người, đằng sau hiện tượng mafia, đằng sau việc tham nhũng của các chính trị gia, đằng sau việc sản xuất và bán các loại vũ khí, và thậm chí đằng sau một điều thật khủng khiếp - khi phải đề cập đến - là việc bán nội tạng con người lấy từ trẻ em? Và còn cuộc khủng hoảng tài chính mà thế giới đã và đang trải qua cũng như đất nước này vẫn còn đang gánh chịu, không phải phần lớn là do “sự ham hố tiền của đáng nguyền rủa” của một số người sao? Giuđa đã bắt đầu nhón khỏi ví chung cuả cả nhóm. Còn một số các quản trị viên công quỹ thì sao?
Tuy nhiên, bên cạnh những tội phạm hình sự để có tiền, còn có cả những xì căng đan trong đó một số người kiếm được tiền lương và hưu trí đôi khi cao hơn so với những người làm việc cho họ 100 lần và họ ồn ào phản đối khi một đề nghị được đưa ra để giảm tiền lương của họ ngõ hầu xã hội có thể công bằng hơn?
Trong những thập niên 1970 và 1980, tại Ý, để giải thích cho những thay đổi chính trị bất ngờ, những hành xử quyền lực bí ẩn, khủng bố, và tất cả các loại bí ẩn gây phiền hà cho cuộc sống dân sự, người ta bắt đầu đề cập đến ý tưởng bán thần thoại về sự tồn tại của một "Bố Già", một nhân vật quỷ quyệt và quyền thế là kẻ đứng sau hậu trường giật dây cho tất cả mọi chuyện để đạt đến những mục tiêu chỉ mình hắn ta biết mà thôi. “Bố Già” quyền uy ngất ngưởng này thực sự tồn tại và chẳng phải là một huyền thoại đâu. Tên hắn ta là tiền!
Giống như tất cả các ngẫu tượng khác, thần tài quỷ quyệt gian ngoa: nó hứa hẹn an ninh nhưng thay vào đó nó lấy đi; nó hứa hẹn tự do nhưng thực tế lại phá hủy tự do. Thánh Phanxicô Assisi , với một mức độ nghiêm khắc không thường thấy nơi ngài, đã mô tả giờ phút kết thúc cuộc đời của một người đã sống chỉ để làm tăng “vốn liếng” của mình. Khi gần chết ông ta mời linh mục đến. Vị linh mục hỏi người sắp chết, "Ông có muốn được tha thứ tất cả tội lỗi của ông không?" Và ông trả lời: "Thưa có." Linh mục hỏi tiếp: "Ông có sẵn sàng để sửa chữa những sai lầm ông đã gây ra, khôi phục lại những thứ ông đã lừa đảo của những người khác không? "người đàn ông sắp chết thều thào trả lời: "không, không thể được." "Tại sao lại không thể được?" "Bởi vì tôi đã giao phó mọi sự trong tay của người thân và bạn bè của tôi.". Như thế, ông ta chết đi mà không ăn năn hối cải, và trong khi thi hài ông bắt đầu lạnh dần người thân và bạn bè của ông tụ họp lại bên cạnh. Họ nói, "Thằng chết tiệt này! Lẽ ra nó nên kiếm nhiều tiền hơn để lại cho chúng ta mới phải chứ."
Bao nhiêu lần trong thời buổi này chúng ta lẽ ra phải suy nghĩ lại một lần nữa tiếng Chúa Giêsu kêu lên với người phú hộ trong dụ ngôn về người cứ lo thu tóm của cải bất tận và nghĩ rằng phần còn lại của cuộc đời mình sẽ được an toàn: "Đồ ngu! Nội đêm nay, mạng ngươi bị đòi lại, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? "(Lc 12:20)
Những người có quyền chức tham ô đến nỗi hết nhớ nổi ngân hàng nào, thiên đường tài chính nào tàng trữ bao nhiêu tiền tham nhũng của mình đã nhận ra bản thân mình đang bị xét xử tại tòa án hoặc tại một nhà tù đúng ngay vào lúc họ tự nhủ với lòng mình: "Yên tâm mà hưởng đi, hồn tôi ơi." Họ làm điều đó cho ai? Nó có đáng không? Phải chăng họ làm như thế vì lợi ích của con em và gia đình của họ, hoặc đảng phái của họ, nếu thực sự họ nghĩ như thế? Hay là chỉ hủy hoại bản thân và những người khác?
Sự phản bội của Giuđa vẫn tiếp tục xuyên suốt trong lịch sử, và người bị phản bội luôn luôn là Chúa Giêsu. Giuđa bán Đầu [ý chỉ Chúa Giêsu – chú thích của người dịch], trong khi những kẻ bắt chước ông bán phần thân mình, vì người nghèo là chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô, cho dù họ biết điều đó hay không. "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy " (Mt 25:40 ) . Tuy nhiên , sự phản bội của Giuđa không chỉ tiếp tục trong phạm vi các nhân vật cao cấp các loại mà tôi vừa đề cập. Thật là an ủi cho chúng ta nếu được như thế, nhưng không phải vậy đâu. Bài giảng mà cha Primo Mazzolari vào Thứ Năm Tuần Thánh năm 1958, về "Anh Giuđa của chúng ta" vẫn còn rất nổi tiếng. Ngài nói với vài giáo dân ngồi trước mặt ngài, "Hãy để tôi suy nghĩ về cái tên Giuđa trong người tôi đây một lúc, về cái tên Giuđa, có lẽ cũng có cả bên trong anh chị em. "
Người ta có thể phản bội Chúa Giêsu để đổi lấy những thứ khác hơn là 30 đồng bạc. Một người đàn ông phản bội vợ mình, hoặc người vợ phản bội chồng, là phản bội Chúa Kitô. Các thừa tác viên của Chúa không trung thành với đấng bậc của mình trong cuộc sống, hoặc thay vì nuôi dưỡng những con chiên được giao phó cho ngài lại dùng những con chiên ấy như nguồn vỗ béo cho chính mình, là phản bội Chúa Giêsu. Bất cứ ai phản bội lương tâm của họ đều phản bội Chúa Giêsu. Thậm chí tôi có thể phản bội Ngài ngay lúc này đây- và điều này làm cho tôi run sợ - nếu như trong khi giảng về Giuđa tôi quan tâm đến sự đồng thuận của khán giả hơn là dự phần trong nỗi buồn bao la của Đấng Cứu Thế . Có một trường hợp giảm khinh trong trường hợp của Giuđa mà tôi không có. Ông ta không biết Chúa Giêsu là ai và chỉ coi Ngài là "một người công chính"; ông không biết rõ như chúng ta rằng Ngài là Con Thiên Chúa!
Mỗi năm khi Mùa Phục Sinh đến gần, tôi đều muốn nghe lại bản "Cuộc thương khó Chúa Kitô theo Thánh Matthêu" của Bach. Nó bao gồm một chi tiết khiến tôi rùng mình mỗi lần. “Ðang bữa ăn, Người nói: Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Mt 26:21). Khi Chúa Giêsu thông báo như thế, tất cả các tông đồ đều hỏi Chúa Giêsu : "Có phải con không, thưa Thầy?" Trước khi chúng ta nghe câu trả lời của Chúa Kitô , nhà soạn nhạc - xóa đi khoảng cách giữa biến cố và việc tưởng niệm biến cố ấy - thêm vào một hợp xướng bắt đầu như thế này: "Đó là con; Con là kẻ phản bội! Con cần phải đền bù tội lỗi con." Giống như tất cả các hợp xướng thánh ca trong tác phẩm âm nhạc này, nó thể hiện tình cảm của những người đang lắng nghe. Nó cũng là một lời mời gọi chúng ta xưng thú tội lỗi mình.
Tin Mừng mô tả cái kết cục khủng khiếp của Giuđa: "Bấy giờ, Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan". Nhưng họ đáp: ‘Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!’ Giuđa ném số bạc vào Ðền Thờ rồi lui ra và đi thắt cổ" (Mt 27:3-5). Nhưng chúng ta không nên đưa ra một phán quyết vội vàng ở đây. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi Giuđa, và không ai biết, sau khi ông treo mình lên cây với một sợi dây thừng quanh cổ, ông ta sẽ đi về đâu: trong tay của Satan hay trong bàn tay của Thiên Chúa. Ai có thể biết được điều gì đã loé lên trong tâm hồn ông trong những giây phút cuối cùng này? “Bạn” là từ cuối cùng mà Chúa Giêsu gọi ông, và ông không thể quên được, cũng giống như ông không thể quên ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn ông.
Đúng là khi nói chuyện với Chúa Cha về các môn đệ của Ngài, Chúa Giêsu đã nói về Giuđa, “không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng”(Ga 17:12) . Nhưng ở đây, như trong rất nhiều trường hợp khác, Ngài đang nói từ quan điểm của thời gian và không phải vĩnh hằng. Tầm cỡ của sự phản bội này tự mình đã đủ, không cần phải tính đến sự thất bại đó là vĩnh cửu để giải thích một bản án đáng sợ khác nói về Giuđa: “Ðã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mc 14 : 21). Số phận đời đời của một con người là một bí mật bất khả xâm phạm được gìn giữ bởi Thiên Chúa. Giáo Hội bảo đảm với chúng ta rằng một người nam hay một người nữ được công bố là một vị thánh đang được nếm hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng Giáo Hội không biết chắc chắn rằng một người cụ thể nào đó đã phải sa hoả ngục hay không.
Dante Alighieri, là một nhà thơ, là người đã đặt Giuđa trong tầng cuối cùng sâu nhất của địa ngục trong tác phẩm Divine Comedy của mình, đã kể về việc hoán cải vào giờ phút cuối cùng của Manfred, con trai Hoàng Đế Frederick II và là vua xứ Sicily, người mà tất cả mọi người vào thời điểm đó đều coi y là đáng nguyền rủa vì ông đã chết trong vạ tuyệt thông. Bị thương chí mạng trong một trận chiến, Manfred tâm sự với nhà thơ rằng vào thời điểm cuối cùng của cuộc đời mình, " ... trong than khóc, tôi đã phó linh hồn tôi cho Đấng đã sẵn sàng tha thứ" và ông đã gửi một tin nhắn từ Luyện Ngục về trái đất mà ngày nay vẫn còn có liên quan tới chúng ta:
Khủng khiếp là bản chất của tội lỗi tôi, nhưng lòng thương xót vô biên mở rộng vòng tay của mình cho bất kỳ người nào tìm kiếm nó.
Đây là điều mà câu chuyện về người anh em Giuđa của chúng ta nên khiến chúng ta phải làm: ấy là sấp mình trước Đấng sẵn lòng tha thứ cho chúng ta cách nhưng không, là ném mình tương tự như vậy vào cánh tay đang dang ra của Đấng chịu đóng đinh. Điều quan trọng nhất trong câu chuyện của Giuđa không phải là sự phản bội của ông ta nhưng là phản ứng của Chúa Giêsu đối với ông. Ngài biết rõ những gì đã phát triển trong trái tim người môn đệ mình, nhưng Ngài không phơi bày ra; Ngài muốn cho Giuđa cơ hội cho tới tận phút cuối cùng để quay trở lại, và gần như che chắn cho anh ta. Ngài biết lý do tại sao Giuđa đến vườn ô liu, nhưng Ngài không từ chối nụ hôn lạnh lùng của y và thậm chí còn gọi y là "bạn" (xem Mt 26:50 ). Ngài đã tìm ra Phêrô sau khi chối Chúa để tha thứ cho ông, vì vậy Ngài có thể đã tìm ra Giuđa tại chỗ nào đó trên đường lên núi Sọ! Khi Chúa Giêsu cầu nguyện từ trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng; vì chúng không biết việc chúng làm "(Lc 23:34) , Chúa chắc chắn không loại trừ Giuđa trong số những người mà Ngài cầu nguyện cho.
Vì vậy, những gì chúng ta sẽ làm là gì? Ai là người mà chúng ta nên noi theo, Giuđa hay Phêrô? Phêrô đã hối hận vì những gì ông đã làm, nhưng chẳng phải Giuđa cũng đã hối hận đến mức bật khóc sao? "Tôi đã phản bội máu người vô tội!" Và ông đã trả lại ba mươi đồng bạc. Vậy đâu là sự khác biệt? Chỉ là một điều này thôi: đó là Phêrô thì tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa Kitô, còn Giuđa thì không! Tội lỗi lớn nhất của Giuđa không phải là phản bội Chúa Kitô nhưng là đã nghi ngờ lòng thương xót vô biên của Ngài.
Nếu chúng ta đã bắt chước Giuđa ít nhiều trong sự phản bội của ông, chúng ta đừng bắt chước ông trong sự thiếu niềm tin vào sự tha thứ. Có một bí tích mà qua đó chúng ta có thể kinh nghiệm chắc chắn về lòng thương xót của Chúa Kitô: đó là bí tích hòa giải. Bí tích này tuyệt vời là ngần nào! Thật là ngọt ngào để cảm nghiệm về Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa , nhưng thậm chí còn ngọt ngào hơn để cảm nghiệm Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đấng lôi anh chị em ra khỏi vực thẳm, như Ngài đã kéo Phêrô khỏi chìm xuống biển, để cảm nghiệm Ngài là Đấng đã chạm vào anh chị em như Ngài đã làm với người bị bệnh phong, và nói với anh chị em, “Tôi muốn, anh sạch đi” (Mt 8:3) .
Bí tích Hòa Giải cho chúng ta cảm nghiệm chính bản thân mình những gì Giáo Hội nói về tội lỗi của A Dong vào đêm Phục Sinh trong bài "Vinh Tụng Ca": "Ôi tội hồng phúc vì đã đem đến một Đấng Cứu Chuộc vĩ đại và vinh quang" Chúa Giêsu biết làm thế nào để lấy đi tất cả tội lỗi của chúng ta, khi chúng ta có lòng ăn năn, và làm cho những tội lỗi này thành "tội hồng phúc", những tội lỗi đó sẽ không còn được nhớ đến, chúng chỉ là dịp để chúng ta cảm nghiệm lòng thương xót và sự dịu dàng của Thiên Chúa.
Tôi có một mong muốn cho bản thân mình và cho tất cả những người cha, người anh, người chị, người em đáng kính: đó là cầu xin cho vào sáng Phục Sinh, chúng ta có thể thức giấc và để cho những lời của một người cải đạo vĩ đại trong thời hiện đại là Paul Claudel, vang vọng trong trái tim của chúng ta.
Thiên Chúa của con, con đã được hồi sinh, và con sống với Chúa một lần nữa!
Con đang mê ngủ, duỗi thẳng tứ chi như một người đã chết trong đêm. Chúa nói: " Hãy có ánh sáng!" Và con tỉnh dậy òa khóc!
Cha của con, Chúa là Đấng đã ban cho con cuộc sống trước lúc rạng đông, con đặt bản thân con trong sự hiện diện của Chúa.
Con tim con tự do và miệng của con sạch sẽ; cơ thể và tinh thần của con đang chay tịnh. Con đã được xá khỏi tất cả các tội lỗi của con, những tội con đã thú nhận từng tội một .
Chiếc nhẫn cưới trên ngón tay con và khuôn mặt của con được rửa sạch. Con giống như một con người vô tội trong ân sủng mà Ngài ban cho con.
Đây là những gì lễ Vượt Qua của Chúa Kitô có thể làm cho chúng ta.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Văn Hạnh: Bữa Cơm Huynh Đệ
Văn Hạnh
17:01 20/04/2014
Giáo xứ Văn Hạnh, Bữa Cơn Huynh Đệ
Sáng thứ 5 Tuần Thánh, ngày 17 tháng 4 năm 2014, Ban Tình Thương cùng Hội Đồng Mục Vụ giáo xứ đã tổ chức bữa cơm huynh đệ cho những người có hoàn cảnh đặc biệt: người già cả neo đơn, người tàn tật…, trong toàn xứ.
Xem Hình
Mặc dù bận rộn với nhiều công việc trong tuần thánh, nhưng Ban tổ chức muốn tổ chức bữa cơm trong ngày này như muốn cụ thể hóa và làm nổi bật ý nghĩa của thánh lễ Tiệc Ly vào buổi chiều cùng ngày. Bởi trong thánh lễ này, Chúa Giêsu đã thực hiện hành động phục vụ khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ và hiến tế chính mình làm Bánh bẻ ra để trao ban cho muôn người.
Cũng vậy, trong bữa cơm thân mật này, Ban tổ chức đã trực tiếp dẫn các vị khác được mời vào bàn tiệc, giúp đỡ họ ăn, vì có người không nhìn thấy nên không thể tự lấy thức ăn được, có người phải ngồi xe lăn nên khó khăn trong khi ngồi vào bàn, có người bị tai biến nên tay chân run rẩy…
Phát biểu trước giờ cơm, cha quản xứ Phêrô Trần Phúc Chính đã đơn thành ngỏ lời, Tôi xin thay mặt cho toàn giáo xứ, cám ơn quy vị đã đáp lại lời mời của Ban tổ chức để đếm đây trong bữa cơm đạm bạc này. Quý vị đã chịu nhiều thệt thòi trong cuộc sống, chính quý vị đã góp của lễ hy sinh của bản thân cùng với của lễ của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, của lễ của quý vị đã được Chúa nhận lời, vì vậy Chúa đã gìn giữ giáo xứ được lớn mạnh qua mọi biến cố của lịch sử. Cũng trong buổi sáng đó, ngài đã ban Bí tích Hòa giải và Bí tích Xức dầu cho 50 người trong tổng số 66 người được mời.
Bữa cơm không có gì cao lương mỹ vị, tuy nhiên đã làm no thỏa thực khách, bởi tình Chúa và tình người được hòa quyện vào nhau. Ban tổ chức phấn khởi vui mừng vì được thực hiện nghĩa cử yêu thương; khách mời được ấm lòng vì nhận được sự quan tâm, được động viên khích lệ, xóa đi nỗi cô đơn, dịu đi những đau đớn vì bệnh tật, gạt qua những mặc cảm vì khiếm khuyết thân thể.
Cuối bữa cơm, một cụ bà tuổi đã ngoài thất thập không nén được cảm xúc, đã rưng rưng nước mắt chia sẻ, cám ơn cha, cám ơn các ông, con…sung sướng quá…!
Được biết, đây là lần đầu tiên Ban Tình Thương và Hội Đồng Mục Vụ xứ tổ chức bữa cơm huynh đệ cho những người có hoàn cảnh đặc biệt vào ngày thứ 5 Tuần Thánh như thế này. Ước mong của Ban tổ chức là trong tương lai có thể tổ chức quy mô hơn, khách mời không chỉ giới hạn trong xứ mà có thể là toàn hạt và đặc biệt là những bà con lương dân sống lân cận.
Văn Hạnh
Sáng thứ 5 Tuần Thánh, ngày 17 tháng 4 năm 2014, Ban Tình Thương cùng Hội Đồng Mục Vụ giáo xứ đã tổ chức bữa cơm huynh đệ cho những người có hoàn cảnh đặc biệt: người già cả neo đơn, người tàn tật…, trong toàn xứ.
Xem Hình
Mặc dù bận rộn với nhiều công việc trong tuần thánh, nhưng Ban tổ chức muốn tổ chức bữa cơm trong ngày này như muốn cụ thể hóa và làm nổi bật ý nghĩa của thánh lễ Tiệc Ly vào buổi chiều cùng ngày. Bởi trong thánh lễ này, Chúa Giêsu đã thực hiện hành động phục vụ khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ và hiến tế chính mình làm Bánh bẻ ra để trao ban cho muôn người.
Cũng vậy, trong bữa cơm thân mật này, Ban tổ chức đã trực tiếp dẫn các vị khác được mời vào bàn tiệc, giúp đỡ họ ăn, vì có người không nhìn thấy nên không thể tự lấy thức ăn được, có người phải ngồi xe lăn nên khó khăn trong khi ngồi vào bàn, có người bị tai biến nên tay chân run rẩy…
Phát biểu trước giờ cơm, cha quản xứ Phêrô Trần Phúc Chính đã đơn thành ngỏ lời, Tôi xin thay mặt cho toàn giáo xứ, cám ơn quy vị đã đáp lại lời mời của Ban tổ chức để đếm đây trong bữa cơm đạm bạc này. Quý vị đã chịu nhiều thệt thòi trong cuộc sống, chính quý vị đã góp của lễ hy sinh của bản thân cùng với của lễ của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, của lễ của quý vị đã được Chúa nhận lời, vì vậy Chúa đã gìn giữ giáo xứ được lớn mạnh qua mọi biến cố của lịch sử. Cũng trong buổi sáng đó, ngài đã ban Bí tích Hòa giải và Bí tích Xức dầu cho 50 người trong tổng số 66 người được mời.
Bữa cơm không có gì cao lương mỹ vị, tuy nhiên đã làm no thỏa thực khách, bởi tình Chúa và tình người được hòa quyện vào nhau. Ban tổ chức phấn khởi vui mừng vì được thực hiện nghĩa cử yêu thương; khách mời được ấm lòng vì nhận được sự quan tâm, được động viên khích lệ, xóa đi nỗi cô đơn, dịu đi những đau đớn vì bệnh tật, gạt qua những mặc cảm vì khiếm khuyết thân thể.
Cuối bữa cơm, một cụ bà tuổi đã ngoài thất thập không nén được cảm xúc, đã rưng rưng nước mắt chia sẻ, cám ơn cha, cám ơn các ông, con…sung sướng quá…!
Được biết, đây là lần đầu tiên Ban Tình Thương và Hội Đồng Mục Vụ xứ tổ chức bữa cơm huynh đệ cho những người có hoàn cảnh đặc biệt vào ngày thứ 5 Tuần Thánh như thế này. Ước mong của Ban tổ chức là trong tương lai có thể tổ chức quy mô hơn, khách mời không chỉ giới hạn trong xứ mà có thể là toàn hạt và đặc biệt là những bà con lương dân sống lân cận.
Văn Hạnh
Chúa đã sống lại thật
Nguyễn Đức Vượng
08:05 20/04/2014
Ngày 19/4/2014: Giáo xứ Đức Mẹ La Vang, tổng Giáo Phận Galveston Houston, TX
ALLÊLUIA. ALLÊLUIA! CHÚA SỐNG LẠI THẬT, NGÀY THỨ NHẤT TRONG TUẦN
Với Giáo xứ Đức Mẹ La Vang thuộc tổng Giáo Phận Galveston Houston năm nay, Giáo Hội Hoàn Vũ vui mừng, Giáo xứ vui mừng và mọi người vui mừng vì được nhận đón 10 anh chị em tân tòng.
Vào một buổi tĩnh tâm cuối cùng cũng là buổi kiểm lại những gì đã được cô Hương dậy dỗ trong năm vừa qua. Cha giảng phòng hỏi mấy câu hỏi hôm nay thật khó trả lời đó nghe!
1. Anh chị em thân mến tại sao chúng ta không gọi Chúa Giêsu sống lại ngày Sabat của tuần mà lại gọi là Chúa Giêsu sống lại trong ngày thứ nhất trong tuần. 10 học viên cùng những người đỡ đầu, sau khi suy nghĩ một hồi, mặt mọi người càng lúc càng căng thẳng trong thinh lặng. Có một anh học viên giơ tay lên nói rằng vì Chúa Giêsu là người đầu tiên từ cõi chết sống lại nên goị là ngày Chúa Giêsu sống lại trong ngày thứ nhất trong tuần. Cha nói chưa đúng. Có người khác đáp ngay, theo con thì ngày Chúa Giêsu sống lại là ngày thứ nhất trong tuần vì đó là ngày Sabat của người Do Thái được đổi lại là ngày thứ nhất trong tuần. Cha giảng phòng nói vẫn chưa đúng. Mọi người thật vui mừng và cùng vỗ một tràng pháo tay khi cha giảng phòng ra hiệu là chính xác. Vì có một người học viên khác trả lời: Vì Chúa Giêsu sống lại trong ngày thứ nhất đầu tuần nay chúng ta gọi là ngày Chúa Nhật rồi đến thứ hai, thứ ba thứ tư… Câu trả lời này đúng nhất.
Chúa Giêsu không sống lại vào ngày Sabat của người Do Thái là ngày nghỉ, đó là ngày thứ bảy bây giờ. Trong Kinh thánh rõ ràng Chúa nói: Ta sẽ chết trong 3 ngày, Ta sẽ sống lại” Như thế, Chúa chết vào thứ sáu thì vào ngày thứ nhất trong tuần mà ngày hôm nay chúng ta vẫn gọi là ngày Chúa Nhật,” Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Madalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ…” (Ga 2,1-9), thế là mọi người vui mừng vì đã có được câu giải đáp thỏa đáng.
Vâng, Chúa đã sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần và hiện ra với Bà Maria… Ông Phêrô, Gioan…và còn nhiều lần nữa với việc hiện ra vào ngày thứ nhất trong tuần mà toàn thể thế giới hôm nay dùng ngày thứ nhất trong tuần để nghỉ ngơi, còn đối với những ai tin vào Chúa thì đến với Thánh Đường thờ phượng, cảm tạ Chúa vì Chúa sống lại để cứu chuộc chúng ta và cho chúng ta được hợp đoàn thành dân thánh Chúa.
2. Câu hỏi thứ hai tại sao Chúa không sống lại trong ngày Sabat mà sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần hay còn gọi là ngày Chúa Nhật? Nếu Chúa Chúa sống lại vào ngày Sabat thì có gì khác với truyền thống ngày nghỉ của người Do Thái. Như thế người ta đâu có thấy sự khác biệt giữa ngày lễ của người Do Thái và ngày Chúa Sống lại. Có một điều người Do Thái vẫn làm mà Chúa cũng làm nhưng người ta không hiểu. Đó là Ngài và họ cùng có ngày tam nhật Vượt Qua. Do vậy, ngày thứ nhất trong tuần tính ra từ trong sách Sáng Thế là ngày Thiên Chúa đã bắt đầu công trình sáng tạo, nghĩa là ngày đầu tuần của Thiên Chúa mà người Do Thái đón nhận như một luật buộc phải làm việc. Phải chăng vô hình chung mà tam nhật Vượt Qua của người Do Thái với Ngày Đầu Tuần đã làm nên một sự kiện hiển hách’ Chúa đã sống lại”. Chúa đã sống lại ngày thứ nhất trong tuần để ngày hôm nay toàn thể thế giới đều nghỉ đó là ngày Chúa Nhật ( vì là ngày của Chúa) hay Chúa Nhật (vì là ngày chúng ta làm chủ để nghi ngơi). Nói chung, chúng ta có ngày nghỉ trải qua 21 thế kỷ cho toàn thể thế giới đó là ngày Chúa Giêsu sống lại mà người ta vãn thường gọi là ngày thứ nhất trong tuần.
3. Tại sao Chúa Giêsu lại chết cho chúng ta? Nếu chúng ta lần giở lại Kinh Thánh trong sách Sáng Thế thì bởi vì Ông Adong và Bà Evà đã không vâng lời Thiên Chúa, đã vâng nghe ma quỷ và ăn trái cấm giữa vườn nên bị Chúa phạt. Chính hai ông bà đã đón nhận một sự xa lìa bởi tội và từ đó tội lỗi nhập vào thế gian và tội lỗi lại lây lan đến chúng ta, nên Chúa phải chết và có sự sống lại, để cho chúng ta cũng chết với Chúa để loại trừ tội lỗi trong ta.
Vâng, Thiên Chúa đã cho con người một món quà tuyệt đối là tự do, nhưng con người đã dùng quyền tự do này để phạm tội và tội đã không chỉ làm cho người đó bị chết mà còn mang hậu quả của sự chết cho toàn thể nhân loại chúng ta. Chỉ cần một tội như tôi nói dối người thân, tôi nói tôi đi nhà thờ thế mà tôi đi với bạn tôi, tới một nơi để chơi bài, người thân nghe được như vậy thì người thân tôi sẽ đau khổ như thế nào : Vì không làm đúng lời đã nói, mất niềm tin nơi ngưởi thân và gây đau khổ cho chính mình vì lương tâm cứ bị cắn rứt, sao tôi lại làm thế? Sức mạnh của tội làm tôi còn lún sâu hơn nữa, vì người thân không còn tin tôi. Thì từ nay giữa người thân với tôi sẽ nghĩ gì và nói gì khi đã mất tin tưởng nhau và cuối cùng tôi và người thân sẽ xa lìa nhau.
Anh Chị Em Tân Tòng đêm nay, đã nhận ra việc Chúa Giêsu không phải chỉ chết trong mồ ba ngày rồi chỗi dậy vào ngày thứ ba đó, được gọi là ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng từ đây còn khám phá ra tội đã làm cho con người lạc bước, gây chia rẽ, hận thù và con người không muốn nhìn nhau. Qua bí tích Rửa Tội, anh chị em dám dân thân theo Chúa Kitô để được cởi bỏ hoàn toàn tội lỗi và tháp nhập cùng dâng hiến tội lỗi mình cho Chúa. Tội lỗi được đóng tội vào thập giá và Chúa Giêsu cất nhắc cùng đem đi qua cái chết của Ngài, cùng cho chúng ta sống lại và trở thành anh chị em với nhau ngay ở đời này.
Cũng vậy, là người đã được chịu phép thanh tẩy, Chúa còn cho một Bí Tích quan trọng khác nữa đó là Bí Tích Hòa Giải hay Giao Hòa. Trong tuần qua, Giáo Xứ chúng ta đã được các buổi tối quý cha, từ năm cha cho đến 10 cha đã đến để cho hàng trăm trăm người được giao hòa với Chúa và về với nhau. Quý ban phụng vụ đã ra công sắp xếp phòng ốc tòa giải tội, những người xướng kinh chuẩn bị cho việc ngắm nguyện năm nay thật tươm tất. Thế nên, sự tham dự của đông đảo tín hữu vây quanh thập giá, đứng trước thập giá và nhà tạm trong nguyện đường đã dâng lên Chúa những cung ngắm ba miền thật sốt sắng và cảm động. Những tiếng chiêng, trống nổi lên vào những khi đọc, ngắm đến tên Giêsu. Tiếp đến, đoàn dâng hạt năm nay, hội các Bà Mẹ đã dầy công tập luyện để ca vãn giữa các ngắm và kết thức mười lăm ngắm thật xúc tích và đầy cảm kích, còn bao nhiêu những đóng góp tắt đèn đóng cổng của những người lao công trong đêm tối phủ xuống. Nhưng tất cả mọi trái tim được bừng lên sức sống của Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Ban Giáo Dục đã thực hiện một cuộc thương khó dính liền với những cành lá thật cảm động, rồi với hai Đoàn Tông Đồ trẻ là các bạn TA trong ban Giáo Dục đã được chuẩn bị kỹ lưỡng tay cầm cành lá và gậy tiến vào Giêrusalem để dám chết với Thầy, thì đại diện các Chi Tộc, năm nay cũng sẵn sàng theo bước cha anh là những vị tử đạo tay cầm cành vạn tuế cùng gậy của khử trừ rắn rết, bọ cạp mà tiến lên cùng Đức Kitô, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta.
Cùng qua một tam nhật thánh với sự đóng góp vừa kiên nhẫn vừa mất nhiều thời giờ của Hội Đồng Mục Vụ, các Ban Ngành Đoàn thể Công Giáo Tiến Hành thực hiện một cuộc thương khó, táng xác Chúa để chúng ta cùng thông công sự đau khổ với Ngài. Từ bên ngoài bao người đang cùng nhau chuẩn bị cho Đại Hội Thánh Mẫu, trồng cây, đóng bục hát, in ấn, sơn phết tạo nên một sức sống trong phục sinh của Chúa Kitô hầu mọi người cùng vang lên khúc khải hoàn ca ALLÊLUIA, ALLELUIA.
Ước mong chính Chúa luôn là ngày THỨ NHẤT TRONG TÂM HỒN MỌI NGƯỜI ĐỂ CHÚNG TA ĐƯỢC SỐNG LẠI TỪNG GIÂY TỪNG PHÚT VỚI NGÀI”
Kính chúc quý thành viên hội đồng mục vụ, quý thành viên hội đồng tài chánh, quý ban ngành đoàn thể Công Giáo tiến hành, quý gia tộc, quý ca đoàn và toàn thể quý vị cùng góp công sức, thời gian và tài chánh; cùng hiện diện để chúng ta có một Mùa Phục SInh thật thánh thiện và đầy tình thương của Chúa. Xin trin ân triệu triệu lần đến với quý cha, quý thầy sáu, quý tu sĩ nam nữ, quý cụ quý ông bà và anh chị em.
Chúc mừng phục sinh và đồng tri ân
Hình ảnh lễ Vọng Phục Sinh do Joseph Ký Nguyễn thực hiện: https://www.flickr.com/photos/23686708@N05/sets/72157644168124744/
ALLÊLUIA. ALLÊLUIA! CHÚA SỐNG LẠI THẬT, NGÀY THỨ NHẤT TRONG TUẦN
Với Giáo xứ Đức Mẹ La Vang thuộc tổng Giáo Phận Galveston Houston năm nay, Giáo Hội Hoàn Vũ vui mừng, Giáo xứ vui mừng và mọi người vui mừng vì được nhận đón 10 anh chị em tân tòng.
Vào một buổi tĩnh tâm cuối cùng cũng là buổi kiểm lại những gì đã được cô Hương dậy dỗ trong năm vừa qua. Cha giảng phòng hỏi mấy câu hỏi hôm nay thật khó trả lời đó nghe!
1. Anh chị em thân mến tại sao chúng ta không gọi Chúa Giêsu sống lại ngày Sabat của tuần mà lại gọi là Chúa Giêsu sống lại trong ngày thứ nhất trong tuần. 10 học viên cùng những người đỡ đầu, sau khi suy nghĩ một hồi, mặt mọi người càng lúc càng căng thẳng trong thinh lặng. Có một anh học viên giơ tay lên nói rằng vì Chúa Giêsu là người đầu tiên từ cõi chết sống lại nên goị là ngày Chúa Giêsu sống lại trong ngày thứ nhất trong tuần. Cha nói chưa đúng. Có người khác đáp ngay, theo con thì ngày Chúa Giêsu sống lại là ngày thứ nhất trong tuần vì đó là ngày Sabat của người Do Thái được đổi lại là ngày thứ nhất trong tuần. Cha giảng phòng nói vẫn chưa đúng. Mọi người thật vui mừng và cùng vỗ một tràng pháo tay khi cha giảng phòng ra hiệu là chính xác. Vì có một người học viên khác trả lời: Vì Chúa Giêsu sống lại trong ngày thứ nhất đầu tuần nay chúng ta gọi là ngày Chúa Nhật rồi đến thứ hai, thứ ba thứ tư… Câu trả lời này đúng nhất.
Chúa Giêsu không sống lại vào ngày Sabat của người Do Thái là ngày nghỉ, đó là ngày thứ bảy bây giờ. Trong Kinh thánh rõ ràng Chúa nói: Ta sẽ chết trong 3 ngày, Ta sẽ sống lại” Như thế, Chúa chết vào thứ sáu thì vào ngày thứ nhất trong tuần mà ngày hôm nay chúng ta vẫn gọi là ngày Chúa Nhật,” Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Madalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ…” (Ga 2,1-9), thế là mọi người vui mừng vì đã có được câu giải đáp thỏa đáng.
Vâng, Chúa đã sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần và hiện ra với Bà Maria… Ông Phêrô, Gioan…và còn nhiều lần nữa với việc hiện ra vào ngày thứ nhất trong tuần mà toàn thể thế giới hôm nay dùng ngày thứ nhất trong tuần để nghỉ ngơi, còn đối với những ai tin vào Chúa thì đến với Thánh Đường thờ phượng, cảm tạ Chúa vì Chúa sống lại để cứu chuộc chúng ta và cho chúng ta được hợp đoàn thành dân thánh Chúa.
2. Câu hỏi thứ hai tại sao Chúa không sống lại trong ngày Sabat mà sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần hay còn gọi là ngày Chúa Nhật? Nếu Chúa Chúa sống lại vào ngày Sabat thì có gì khác với truyền thống ngày nghỉ của người Do Thái. Như thế người ta đâu có thấy sự khác biệt giữa ngày lễ của người Do Thái và ngày Chúa Sống lại. Có một điều người Do Thái vẫn làm mà Chúa cũng làm nhưng người ta không hiểu. Đó là Ngài và họ cùng có ngày tam nhật Vượt Qua. Do vậy, ngày thứ nhất trong tuần tính ra từ trong sách Sáng Thế là ngày Thiên Chúa đã bắt đầu công trình sáng tạo, nghĩa là ngày đầu tuần của Thiên Chúa mà người Do Thái đón nhận như một luật buộc phải làm việc. Phải chăng vô hình chung mà tam nhật Vượt Qua của người Do Thái với Ngày Đầu Tuần đã làm nên một sự kiện hiển hách’ Chúa đã sống lại”. Chúa đã sống lại ngày thứ nhất trong tuần để ngày hôm nay toàn thể thế giới đều nghỉ đó là ngày Chúa Nhật ( vì là ngày của Chúa) hay Chúa Nhật (vì là ngày chúng ta làm chủ để nghi ngơi). Nói chung, chúng ta có ngày nghỉ trải qua 21 thế kỷ cho toàn thể thế giới đó là ngày Chúa Giêsu sống lại mà người ta vãn thường gọi là ngày thứ nhất trong tuần.
3. Tại sao Chúa Giêsu lại chết cho chúng ta? Nếu chúng ta lần giở lại Kinh Thánh trong sách Sáng Thế thì bởi vì Ông Adong và Bà Evà đã không vâng lời Thiên Chúa, đã vâng nghe ma quỷ và ăn trái cấm giữa vườn nên bị Chúa phạt. Chính hai ông bà đã đón nhận một sự xa lìa bởi tội và từ đó tội lỗi nhập vào thế gian và tội lỗi lại lây lan đến chúng ta, nên Chúa phải chết và có sự sống lại, để cho chúng ta cũng chết với Chúa để loại trừ tội lỗi trong ta.
Vâng, Thiên Chúa đã cho con người một món quà tuyệt đối là tự do, nhưng con người đã dùng quyền tự do này để phạm tội và tội đã không chỉ làm cho người đó bị chết mà còn mang hậu quả của sự chết cho toàn thể nhân loại chúng ta. Chỉ cần một tội như tôi nói dối người thân, tôi nói tôi đi nhà thờ thế mà tôi đi với bạn tôi, tới một nơi để chơi bài, người thân nghe được như vậy thì người thân tôi sẽ đau khổ như thế nào : Vì không làm đúng lời đã nói, mất niềm tin nơi ngưởi thân và gây đau khổ cho chính mình vì lương tâm cứ bị cắn rứt, sao tôi lại làm thế? Sức mạnh của tội làm tôi còn lún sâu hơn nữa, vì người thân không còn tin tôi. Thì từ nay giữa người thân với tôi sẽ nghĩ gì và nói gì khi đã mất tin tưởng nhau và cuối cùng tôi và người thân sẽ xa lìa nhau.
Anh Chị Em Tân Tòng đêm nay, đã nhận ra việc Chúa Giêsu không phải chỉ chết trong mồ ba ngày rồi chỗi dậy vào ngày thứ ba đó, được gọi là ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng từ đây còn khám phá ra tội đã làm cho con người lạc bước, gây chia rẽ, hận thù và con người không muốn nhìn nhau. Qua bí tích Rửa Tội, anh chị em dám dân thân theo Chúa Kitô để được cởi bỏ hoàn toàn tội lỗi và tháp nhập cùng dâng hiến tội lỗi mình cho Chúa. Tội lỗi được đóng tội vào thập giá và Chúa Giêsu cất nhắc cùng đem đi qua cái chết của Ngài, cùng cho chúng ta sống lại và trở thành anh chị em với nhau ngay ở đời này.
Cũng vậy, là người đã được chịu phép thanh tẩy, Chúa còn cho một Bí Tích quan trọng khác nữa đó là Bí Tích Hòa Giải hay Giao Hòa. Trong tuần qua, Giáo Xứ chúng ta đã được các buổi tối quý cha, từ năm cha cho đến 10 cha đã đến để cho hàng trăm trăm người được giao hòa với Chúa và về với nhau. Quý ban phụng vụ đã ra công sắp xếp phòng ốc tòa giải tội, những người xướng kinh chuẩn bị cho việc ngắm nguyện năm nay thật tươm tất. Thế nên, sự tham dự của đông đảo tín hữu vây quanh thập giá, đứng trước thập giá và nhà tạm trong nguyện đường đã dâng lên Chúa những cung ngắm ba miền thật sốt sắng và cảm động. Những tiếng chiêng, trống nổi lên vào những khi đọc, ngắm đến tên Giêsu. Tiếp đến, đoàn dâng hạt năm nay, hội các Bà Mẹ đã dầy công tập luyện để ca vãn giữa các ngắm và kết thức mười lăm ngắm thật xúc tích và đầy cảm kích, còn bao nhiêu những đóng góp tắt đèn đóng cổng của những người lao công trong đêm tối phủ xuống. Nhưng tất cả mọi trái tim được bừng lên sức sống của Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Ban Giáo Dục đã thực hiện một cuộc thương khó dính liền với những cành lá thật cảm động, rồi với hai Đoàn Tông Đồ trẻ là các bạn TA trong ban Giáo Dục đã được chuẩn bị kỹ lưỡng tay cầm cành lá và gậy tiến vào Giêrusalem để dám chết với Thầy, thì đại diện các Chi Tộc, năm nay cũng sẵn sàng theo bước cha anh là những vị tử đạo tay cầm cành vạn tuế cùng gậy của khử trừ rắn rết, bọ cạp mà tiến lên cùng Đức Kitô, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta.
Cùng qua một tam nhật thánh với sự đóng góp vừa kiên nhẫn vừa mất nhiều thời giờ của Hội Đồng Mục Vụ, các Ban Ngành Đoàn thể Công Giáo Tiến Hành thực hiện một cuộc thương khó, táng xác Chúa để chúng ta cùng thông công sự đau khổ với Ngài. Từ bên ngoài bao người đang cùng nhau chuẩn bị cho Đại Hội Thánh Mẫu, trồng cây, đóng bục hát, in ấn, sơn phết tạo nên một sức sống trong phục sinh của Chúa Kitô hầu mọi người cùng vang lên khúc khải hoàn ca ALLÊLUIA, ALLELUIA.
Ước mong chính Chúa luôn là ngày THỨ NHẤT TRONG TÂM HỒN MỌI NGƯỜI ĐỂ CHÚNG TA ĐƯỢC SỐNG LẠI TỪNG GIÂY TỪNG PHÚT VỚI NGÀI”
Kính chúc quý thành viên hội đồng mục vụ, quý thành viên hội đồng tài chánh, quý ban ngành đoàn thể Công Giáo tiến hành, quý gia tộc, quý ca đoàn và toàn thể quý vị cùng góp công sức, thời gian và tài chánh; cùng hiện diện để chúng ta có một Mùa Phục SInh thật thánh thiện và đầy tình thương của Chúa. Xin trin ân triệu triệu lần đến với quý cha, quý thầy sáu, quý tu sĩ nam nữ, quý cụ quý ông bà và anh chị em.
Chúc mừng phục sinh và đồng tri ân
Hình ảnh lễ Vọng Phục Sinh do Joseph Ký Nguyễn thực hiện: https://www.flickr.com/photos/23686708@N05/sets/72157644168124744/
Thánh lễ Phục Sinh tại nhà thờ Phủ Cam Huế
Trương Trí
09:16 20/04/2014
HUẾ - Thánh lễ Vọng Phục sinh tại Nhà thờ Chính toà Phủ Cam Huế do Đức Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể, Nguyên Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế chủ tế, cùng đồng tế có Cha J.B. Etcharren, nguyên Bề trên Tổng quyền Hội Thừa sai Paris, Cha Tổng Đại diện Antôn Dương Quỳnh, quý cha Phó xứ Chính toà Phủ Cam.
Hình ảnh
Vào lúc 20giờ30, Nghi thức Phục sinh trước Tiền đường Nhà thờ, nến Phục sinh được thắp sáng lên, từ lửa phục sinh, cộng đoàn thắp sángnến trên tay và rước nến phục sinh vào Nhà thờ. Ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu cho trần gian, Ngài đến để đem ánh sáng chân lý, đem lửa tình yêu sưởi ấm cho loài người.
Trước khi công bố Tin mừng Phục sinh, Đức Tổng Giám mục chủ tế mời gọi cộng đoàn hãy nhìn xem và lắng nghe công trình cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho nhân loại như thế nào qua các bài Tin mừng.
Bước vào phần Canh thức Vượt qua, Phụng vụ lời Chúa cho mọi người cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa, Ngài đã cuuw mang loài người dù cho loài người phản bội Thiên Chúa: bài đọc 1 cho thấy Thiên Chúa thử thách lòng trung tín của Tổ Phụ Abraham, Ngài bảo Abraham đem con trai của mình là Isaac để hiến tế cho Thiên Chúa, nhưng khi Abraham trói Isaac và đinh hiến tế thì Ngài xuất hiện và bảo rằng đã thấy được sự trung tín của Abraham, đồng thời Ngài bảo ông hãy bắt con chiên trong bụi gai để hiến tế thay cho con mình. Bài đọc 2 cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương dân Ngài. Khi Môisê dẫn dân Israel trốn khỏi Ai Cập, chiến xa và kỵ binh của Ai Cập đuổi theo, đến bờ Biển Đỏ là nơi cùng đường, Thiên Chúa đã sai Môisê đưa tay chỉ lên biển, tức thì nước biển rẽ ra làm thành 2 bức tường hai bên. Dân Israel bước qua giữa lòng biển khô cạn, khi chiến xa và kỵ binh của Ai Cập đuổi theo, Môisê đưa tay chỉ lên biển, tức thì nước biển ập lại vùi dập chiến xa và kỵ binh của Ai Cập giữa lòng biển khơi. Bài đọc 3 lại cho chúng ta thấy tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa, mặc dù dân Irael phản bội Người, xúc phạm đến Danh Thánh của Người. Thiên Chúa đã dùng nước tẩy rửa mọi tội lỗi và còn ban cho họ một tâm hồn mới, một trái tim mới để họ tuân giữ và thực hành các lề luật của Thiên Chúa. Ngài tỏ cho nhân loại biết họ là dân riêng của Chúa và Thiên Chúa là Chúa của họ.
Trong bài giảng lễ, Đức Tổng Giám mục chia sẻ: Ánh sáng Phục sinh là ánh sáng chiếu soi giữa bóng tối. Bên cây nến Phục sinh, chúng ta ca ngợi ánh sáng Phục sinh là ánh sáng cứu độ, mỗi người chúng ta bày tỏ hết tâm can của mình với lòng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa. Chúng ta mắc tội nguyên tổ, nhưng chính vì tội nguyên tổ mà loài người chúng ta được Thiên Chúa sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến với chúng ta. Khi Chúa Giêsu từ trong cõi chết sống lại, các bà tìm ra thăm mộ Ngài thì gặp Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài bảo các bà hãy về báo tin cho anh em biết Ngài đã sống lại thật. Chúa Giêsu Phục sinh là để mang Tin Mừng cứu độ đến cho loài người.
Phần Phụng vụ thánh tẩy, Đức Tổng Giám mục đã ban phép Thánh tẩy và thêm sức cho những anh chị em đã trải qua một thời gian dài học hỏi giáo lý để nhận biết sâu sắc về đức tin. Đức Tổng Giám mục làm phép nước và rửa sạch tội nguyên tổ và những vết nhơ tội lỗi mà anh chị em tân tong đã mắc phải. Ngài trao áo trắng và nến sáng biểu trưng cho sự trong sạch và ánh sáng của Chúa Kitô để Đức tin luôn toả sáng.
Trong phần dâng Lễ vật, các anh chị em tân tòng lần đầu tiên được vinh dự cùng với Giáo xứ dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Các anh chị cũng vinh dự được Đức Tổng Giám mục cho rước Mình và Máu Thánh Chúa.
Sau Thánh lễ, Đức Tổng Giám mục trao tặng mỗi tân tong một món quà kỷ niệm ngày gia nhập Hội Thánh Chúa.
Cha Tổng Đại diện Antôn Dương Quỳnh nói lời cảm tạ Đức Tổng Giám mục Stêphanô, dù sức khoẻ già yếu nhưng Ngài vẫn yêu thương Giáo xứ Chính toà, đến dâng Thánh lễ Vọng Phục sinh hôm nay. Giáo xứ luôn tỏ lòng tri ân Đức Tổng vì những gì Ngài đã làm cho giáo xứ. Nhờ có Ngài mà ngôi Nhà thờ mới được haonf thiện nưh ngày hôm nay.
Ông Matthêô Nguyễn Đình Lục, Chủ tịch HĐGX thay mặt cộng đoàn nói lời tri ân Đức Tổng Stêphanô, Ngài luôn quan tâm đến Giáo xứ Chính toa này, ngôi nàh Mục vụ chuẩn bị hoàn thành cũng nhờ Ngài đặt viên đá khởi công xây dựng mới được mau chóng hoàn thành, giáo xứ trao tặng Ngài bó hoa tươi thắm bày tỏ lòng kính yêu của giáo xứ đối với Ngài, cộng đoàn vỗ tay chúc tụng Ngài nồng nhiệt.
Sau cùng, Đức Tổng Giám mục Stêphanô chúc cộng đoàn giáo xứ, những người có mặt cũng như vắng mặt, một mùa Phục sinh an bình trong Chúa. Ngài cũng chúc mừng anh chị em tân tong đã được lãnh nhận ơn Thánh Chúa, Ngài chúc anh chị em tân tong luôn biết nuôi dưỡng Đức Tin.
Cộng đoàn lãnh nhận phép lành của Đức Tổng Giám mục và ra về trong niềm hân hoan vui mừng phục sinh, mọi người chúc nhau một ngày lễ vui tươi, một mùa Phục sinh thánh thiện.
Hình ảnh
Vào lúc 20giờ30, Nghi thức Phục sinh trước Tiền đường Nhà thờ, nến Phục sinh được thắp sáng lên, từ lửa phục sinh, cộng đoàn thắp sángnến trên tay và rước nến phục sinh vào Nhà thờ. Ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu cho trần gian, Ngài đến để đem ánh sáng chân lý, đem lửa tình yêu sưởi ấm cho loài người.
Trước khi công bố Tin mừng Phục sinh, Đức Tổng Giám mục chủ tế mời gọi cộng đoàn hãy nhìn xem và lắng nghe công trình cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho nhân loại như thế nào qua các bài Tin mừng.
Bước vào phần Canh thức Vượt qua, Phụng vụ lời Chúa cho mọi người cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa, Ngài đã cuuw mang loài người dù cho loài người phản bội Thiên Chúa: bài đọc 1 cho thấy Thiên Chúa thử thách lòng trung tín của Tổ Phụ Abraham, Ngài bảo Abraham đem con trai của mình là Isaac để hiến tế cho Thiên Chúa, nhưng khi Abraham trói Isaac và đinh hiến tế thì Ngài xuất hiện và bảo rằng đã thấy được sự trung tín của Abraham, đồng thời Ngài bảo ông hãy bắt con chiên trong bụi gai để hiến tế thay cho con mình. Bài đọc 2 cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương dân Ngài. Khi Môisê dẫn dân Israel trốn khỏi Ai Cập, chiến xa và kỵ binh của Ai Cập đuổi theo, đến bờ Biển Đỏ là nơi cùng đường, Thiên Chúa đã sai Môisê đưa tay chỉ lên biển, tức thì nước biển rẽ ra làm thành 2 bức tường hai bên. Dân Israel bước qua giữa lòng biển khô cạn, khi chiến xa và kỵ binh của Ai Cập đuổi theo, Môisê đưa tay chỉ lên biển, tức thì nước biển ập lại vùi dập chiến xa và kỵ binh của Ai Cập giữa lòng biển khơi. Bài đọc 3 lại cho chúng ta thấy tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa, mặc dù dân Irael phản bội Người, xúc phạm đến Danh Thánh của Người. Thiên Chúa đã dùng nước tẩy rửa mọi tội lỗi và còn ban cho họ một tâm hồn mới, một trái tim mới để họ tuân giữ và thực hành các lề luật của Thiên Chúa. Ngài tỏ cho nhân loại biết họ là dân riêng của Chúa và Thiên Chúa là Chúa của họ.
Trong bài giảng lễ, Đức Tổng Giám mục chia sẻ: Ánh sáng Phục sinh là ánh sáng chiếu soi giữa bóng tối. Bên cây nến Phục sinh, chúng ta ca ngợi ánh sáng Phục sinh là ánh sáng cứu độ, mỗi người chúng ta bày tỏ hết tâm can của mình với lòng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa. Chúng ta mắc tội nguyên tổ, nhưng chính vì tội nguyên tổ mà loài người chúng ta được Thiên Chúa sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến với chúng ta. Khi Chúa Giêsu từ trong cõi chết sống lại, các bà tìm ra thăm mộ Ngài thì gặp Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài bảo các bà hãy về báo tin cho anh em biết Ngài đã sống lại thật. Chúa Giêsu Phục sinh là để mang Tin Mừng cứu độ đến cho loài người.
Phần Phụng vụ thánh tẩy, Đức Tổng Giám mục đã ban phép Thánh tẩy và thêm sức cho những anh chị em đã trải qua một thời gian dài học hỏi giáo lý để nhận biết sâu sắc về đức tin. Đức Tổng Giám mục làm phép nước và rửa sạch tội nguyên tổ và những vết nhơ tội lỗi mà anh chị em tân tong đã mắc phải. Ngài trao áo trắng và nến sáng biểu trưng cho sự trong sạch và ánh sáng của Chúa Kitô để Đức tin luôn toả sáng.
Trong phần dâng Lễ vật, các anh chị em tân tòng lần đầu tiên được vinh dự cùng với Giáo xứ dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Các anh chị cũng vinh dự được Đức Tổng Giám mục cho rước Mình và Máu Thánh Chúa.
Sau Thánh lễ, Đức Tổng Giám mục trao tặng mỗi tân tong một món quà kỷ niệm ngày gia nhập Hội Thánh Chúa.
Cha Tổng Đại diện Antôn Dương Quỳnh nói lời cảm tạ Đức Tổng Giám mục Stêphanô, dù sức khoẻ già yếu nhưng Ngài vẫn yêu thương Giáo xứ Chính toà, đến dâng Thánh lễ Vọng Phục sinh hôm nay. Giáo xứ luôn tỏ lòng tri ân Đức Tổng vì những gì Ngài đã làm cho giáo xứ. Nhờ có Ngài mà ngôi Nhà thờ mới được haonf thiện nưh ngày hôm nay.
Ông Matthêô Nguyễn Đình Lục, Chủ tịch HĐGX thay mặt cộng đoàn nói lời tri ân Đức Tổng Stêphanô, Ngài luôn quan tâm đến Giáo xứ Chính toa này, ngôi nàh Mục vụ chuẩn bị hoàn thành cũng nhờ Ngài đặt viên đá khởi công xây dựng mới được mau chóng hoàn thành, giáo xứ trao tặng Ngài bó hoa tươi thắm bày tỏ lòng kính yêu của giáo xứ đối với Ngài, cộng đoàn vỗ tay chúc tụng Ngài nồng nhiệt.
Sau cùng, Đức Tổng Giám mục Stêphanô chúc cộng đoàn giáo xứ, những người có mặt cũng như vắng mặt, một mùa Phục sinh an bình trong Chúa. Ngài cũng chúc mừng anh chị em tân tong đã được lãnh nhận ơn Thánh Chúa, Ngài chúc anh chị em tân tong luôn biết nuôi dưỡng Đức Tin.
Cộng đoàn lãnh nhận phép lành của Đức Tổng Giám mục và ra về trong niềm hân hoan vui mừng phục sinh, mọi người chúc nhau một ngày lễ vui tươi, một mùa Phục sinh thánh thiện.
Sydney: Mừng Lễ Phục Sinh và Rửa tội Tân Tòng
Diêp Hải Dung
18:38 20/04/2014
Mừng Lễ Phục Sinh Tân Tòng Sydney Gia Nhập Giáo Hội
Chúa Nhật Phục Sinh 20/04/2014 Sau những tháng ngày học hiểu về Giáo Lý, Kinh Thánh 9 Anh Chị Em Tân Tòng thuộc Giáo đoàn Cabramatta, Revesby, Lakemba, đã đến nhà thờ Sacred Heart Cabramatta Sydney tham dự Đại Lễ Phục Sinh và lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Bí tích Thánh Thể để chính thức gia nhập vào đoàn chiên của Chúa.
Hình ảnh
Sau bài giảng, ông Giuse Huỳnh Công Lợi Ban Truyền Giáo đọc danh sách các anh chị em Tân Tòng lên trước bàn thờ tuyên xưng Đức Tin và lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, đồng thời nhận Khăn Trắng và Ánh Nến Phục Sinh của Chúa Kitô sau đó các anh chị em đón nhận ơn Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức. Cha Paul Văn Chi Đặc trách Ban Truyền Giáo chúc mừng 9 anh chị em Tân Tòng và mọi người cùng vỗ tay chúc mừng.
Trước khi kết thúc Thánh lễ cô Ngọc Châu đại diện anh chị em Tân Tòng ngỏ lời cám ơn Cha Chủ tế Paul Văn Chi, quý Giảng Viên Giáo Lý, quý Vú Bõ đỡ đầu đã tận tình hướng dẫn cho các anh chị em Tân Tòng chúng con học hiểu Giáo Lý, Kinh Thánh biết về Chúa để chúng con gia nhập vào Giáo Hội của Chúa. Chúng con kính xin Cha và tất cả mọi người cầu nguyện cho chúng con trên bước đường chập chững bước theo Chúa. Ông Đào Huy Thái Trưởng Ban Mục Vụ Giáo đoàn Cabramtta thay mặt Giáo đoàn ngỏ lời chúc mừng các anh chị em Tân Tòng gia nhập vào Giáo Hội.
Thánh lễ kết thúc Cha Paul Văn Chi và Ban Mục Vụ Giáo đoàn phát quà Trứng Phục Sinh (Easter Eggs) mừng Phục Sinh cho các anh chị em Tân Tòng và tất cả mọi người.
Thánh Lễ Vọng Phục Sinh tại Sydney
Tối thứ Bảy 19/04/2014 khoảng 6000 người (kể cả những người không Công Giáo) đã đến công viên Paul Keating Park Bankstown, Sydney tham dự Lễ Vọng Phục Sinh. Giờ khai mạc đoàn phụng vụ và quý Cha xuống cuối công viên với nghi thức trang trọng làm phép Lửa và nến Phục Sinh. Tất cả mọi người đều hướng về cuối công viên thinh lặng cầu nguyện và đón mừng Ánh Sáng Phục Sinh của Chúa KiTô.
Sau đó Cha FX Nguyễn Văn Tuyết cung nghinh nến Phục Sinh được rước lên lễ Đài và thắp sáng cho tất cả mọi nguời, tiếp theo là phần hát Exultet và Phụng Vụ Lời Chúa do Cha Paul Văn Chi điều hợp, mọi người đều sốt sắng hướng lên Lễ đài và giơ cao ngọn Nến hân hoan mừng Chúa Sống Lại. Hàng ngàn ánh nến và các đèn trên Lễ đài và công viên đều bật sáng lên tạo bầu khí rực rỡ trong ánh sánh vinh quang của Chúa Kitô, cùng với Bài Khải Hoàn Ca Alleluia uy nghiêm huy hoàng trong Đêm Vọng Phục Sinh do Ca đoàn Thánh Tử Đạo Anrê Phú Yên Giáo Đoàn Revesby cùng hợp xướng.
Trong bài giảng Cha Tuyên uý Trưởng Phêrô Dương Thanh chia sẻ Sứ điệp Phục Sinh, Cha nói về niềm vinh dự lớn nhất của người KiTô Hữu là thập giá là sự tử nạn của Đức Kitô cũng như sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô và niềm tin vào sự Phục Sinh của Ngài chính là chóp đỉnh căn nguyên của đời sống Kitô Hữu. Thánh Phaolô đã nói” Nếu Chúa Giêsu Kitô không sống lại, chúng ta là những kẻ khốn khổ nhất trong mọi người..” Chính các vị anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta đã chứng minh Đức Giêsu Kitô đã thực sự Phục Sinh nơi quê hương Việt Nam chúng ta….
Sau bài giảng nghi thức làm phép nước Thánh mới và rảy trên Cộng Đoàn tham dự sau đó quý Cha Tuyên uý Trưởng Dương Thanh Liêm, Cha Paul Văn Chi, Cha Nguyễn Văn Tuyết, Cha Mai Đào Hiền, Cha Nguyễn Thái Hoạch, cùng hiệp dâng Thánh lễ.
Truớc khi kết thúc Thánh lễ, anh Hoàng Đức Tính Phó Chủ tịch CĐCGVN Sydney ngỏ lời chúc mừng Phục Sinh (Happy Easter) đến quý Cha, quý Sơ, và tất cả mọi người trong Cộng Đồng, đặc biệt cám ơn Ca đoàn Thánh Tử Đạo Anrê Phú Yên Giáo đoàn Revesby đã phụng vụ phần Thánh nhạc rất hay tạo cho mọi người sốt sắng trong buổi Lễ và anh cũng thông báo ngày mai Chúa Nhật Phục Sinh các anh chị em Tân Tòng được Rửa Tội tại Giáo Đoàn Cabramatta. Cha Tuyên Uý Trưởng cũng ngỏ lời cám ơn quý Cha Paul Văn Chi, Cha Nguyễn Văn Tuyết và chúc mừng Phục Sinh đến quý Sơ và tất cả mọi người. Đặc biệt Cha cám ơn Cha Mai Đào Hiền và Cha Nguyễn Thái Hoạch đã trợ giúp cho Cha rất nhiều nói riêng và trợ giúp cho Cộng Đồng nói chung. Sau cùng Cha cũng cám ơn Hội Đồng Mục Vụ đã giúp ích rất nhiều cho công việc tổ chức Thánh lễ Vọng Phục Sinh tại công viên Paul Keating Park và Cha cũng khen ngợi Ca Đoàn Revesby.
Sau đó Thánh lễ kết thúc mọi người cùng ra về trong niềm tin yêu của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh.
Chúa Nhật Phục Sinh 20/04/2014 Sau những tháng ngày học hiểu về Giáo Lý, Kinh Thánh 9 Anh Chị Em Tân Tòng thuộc Giáo đoàn Cabramatta, Revesby, Lakemba, đã đến nhà thờ Sacred Heart Cabramatta Sydney tham dự Đại Lễ Phục Sinh và lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Bí tích Thánh Thể để chính thức gia nhập vào đoàn chiên của Chúa.
Hình ảnh
Sau bài giảng, ông Giuse Huỳnh Công Lợi Ban Truyền Giáo đọc danh sách các anh chị em Tân Tòng lên trước bàn thờ tuyên xưng Đức Tin và lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, đồng thời nhận Khăn Trắng và Ánh Nến Phục Sinh của Chúa Kitô sau đó các anh chị em đón nhận ơn Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức. Cha Paul Văn Chi Đặc trách Ban Truyền Giáo chúc mừng 9 anh chị em Tân Tòng và mọi người cùng vỗ tay chúc mừng.
Trước khi kết thúc Thánh lễ cô Ngọc Châu đại diện anh chị em Tân Tòng ngỏ lời cám ơn Cha Chủ tế Paul Văn Chi, quý Giảng Viên Giáo Lý, quý Vú Bõ đỡ đầu đã tận tình hướng dẫn cho các anh chị em Tân Tòng chúng con học hiểu Giáo Lý, Kinh Thánh biết về Chúa để chúng con gia nhập vào Giáo Hội của Chúa. Chúng con kính xin Cha và tất cả mọi người cầu nguyện cho chúng con trên bước đường chập chững bước theo Chúa. Ông Đào Huy Thái Trưởng Ban Mục Vụ Giáo đoàn Cabramtta thay mặt Giáo đoàn ngỏ lời chúc mừng các anh chị em Tân Tòng gia nhập vào Giáo Hội.
Thánh lễ kết thúc Cha Paul Văn Chi và Ban Mục Vụ Giáo đoàn phát quà Trứng Phục Sinh (Easter Eggs) mừng Phục Sinh cho các anh chị em Tân Tòng và tất cả mọi người.
Thánh Lễ Vọng Phục Sinh tại Sydney
Tối thứ Bảy 19/04/2014 khoảng 6000 người (kể cả những người không Công Giáo) đã đến công viên Paul Keating Park Bankstown, Sydney tham dự Lễ Vọng Phục Sinh. Giờ khai mạc đoàn phụng vụ và quý Cha xuống cuối công viên với nghi thức trang trọng làm phép Lửa và nến Phục Sinh. Tất cả mọi người đều hướng về cuối công viên thinh lặng cầu nguyện và đón mừng Ánh Sáng Phục Sinh của Chúa KiTô.
Sau đó Cha FX Nguyễn Văn Tuyết cung nghinh nến Phục Sinh được rước lên lễ Đài và thắp sáng cho tất cả mọi nguời, tiếp theo là phần hát Exultet và Phụng Vụ Lời Chúa do Cha Paul Văn Chi điều hợp, mọi người đều sốt sắng hướng lên Lễ đài và giơ cao ngọn Nến hân hoan mừng Chúa Sống Lại. Hàng ngàn ánh nến và các đèn trên Lễ đài và công viên đều bật sáng lên tạo bầu khí rực rỡ trong ánh sánh vinh quang của Chúa Kitô, cùng với Bài Khải Hoàn Ca Alleluia uy nghiêm huy hoàng trong Đêm Vọng Phục Sinh do Ca đoàn Thánh Tử Đạo Anrê Phú Yên Giáo Đoàn Revesby cùng hợp xướng.
Trong bài giảng Cha Tuyên uý Trưởng Phêrô Dương Thanh chia sẻ Sứ điệp Phục Sinh, Cha nói về niềm vinh dự lớn nhất của người KiTô Hữu là thập giá là sự tử nạn của Đức Kitô cũng như sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô và niềm tin vào sự Phục Sinh của Ngài chính là chóp đỉnh căn nguyên của đời sống Kitô Hữu. Thánh Phaolô đã nói” Nếu Chúa Giêsu Kitô không sống lại, chúng ta là những kẻ khốn khổ nhất trong mọi người..” Chính các vị anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta đã chứng minh Đức Giêsu Kitô đã thực sự Phục Sinh nơi quê hương Việt Nam chúng ta….
Sau bài giảng nghi thức làm phép nước Thánh mới và rảy trên Cộng Đoàn tham dự sau đó quý Cha Tuyên uý Trưởng Dương Thanh Liêm, Cha Paul Văn Chi, Cha Nguyễn Văn Tuyết, Cha Mai Đào Hiền, Cha Nguyễn Thái Hoạch, cùng hiệp dâng Thánh lễ.
Truớc khi kết thúc Thánh lễ, anh Hoàng Đức Tính Phó Chủ tịch CĐCGVN Sydney ngỏ lời chúc mừng Phục Sinh (Happy Easter) đến quý Cha, quý Sơ, và tất cả mọi người trong Cộng Đồng, đặc biệt cám ơn Ca đoàn Thánh Tử Đạo Anrê Phú Yên Giáo đoàn Revesby đã phụng vụ phần Thánh nhạc rất hay tạo cho mọi người sốt sắng trong buổi Lễ và anh cũng thông báo ngày mai Chúa Nhật Phục Sinh các anh chị em Tân Tòng được Rửa Tội tại Giáo Đoàn Cabramatta. Cha Tuyên Uý Trưởng cũng ngỏ lời cám ơn quý Cha Paul Văn Chi, Cha Nguyễn Văn Tuyết và chúc mừng Phục Sinh đến quý Sơ và tất cả mọi người. Đặc biệt Cha cám ơn Cha Mai Đào Hiền và Cha Nguyễn Thái Hoạch đã trợ giúp cho Cha rất nhiều nói riêng và trợ giúp cho Cộng Đồng nói chung. Sau cùng Cha cũng cám ơn Hội Đồng Mục Vụ đã giúp ích rất nhiều cho công việc tổ chức Thánh lễ Vọng Phục Sinh tại công viên Paul Keating Park và Cha cũng khen ngợi Ca Đoàn Revesby.
Sau đó Thánh lễ kết thúc mọi người cùng ra về trong niềm tin yêu của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh.
Phục Sinh 2014 tại giáo xứ Tam Biên - Mừng Vui Lên
Phạm văn Ry
10:07 20/04/2014
Phục Sinh 2014 - Mừng Vui Lên
Mừng vui lên (Exsultet), hỡi muôn lớp cơ binh Thiên Thần trên trời.......
Đúng thế, chúng ta phải vui lên vì Thiên Chúa đã sống lại, Ngài đã đem lại niềm vui cho trần thế vì từ nay bóng tối của tội lỗi, bóng tối của sự dữ, bóng tối của xiềng xích sự chết sẽ không còn chế ngự được con người nữa mà là ánh sáng của Phục Sinh, ánh sáng của tình yêu, ánh sáng của chiến thắng sẽ thống trị toàn cầu, thống trị thế giới.
“Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì Đức Tin của chúng ta sẽ ra huyền ảo vô ích, và chúng ta vẫn còn trong tội lỗi” (1 Cor 15, 17).
Cùng với Giáo Hội mừng ngày Chúa Khải Hoàn trong Vinh Quang, cộng đoàn Tam Biên, giáo phận Orange, California hân hoan đón nhận hơn 10 anh chị em tân tòng. Họ là những người đã can đảm dám theo Chúa, dám lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và Thêm sức. Họ đã không sợ để được gia nhập vào chi thể của Giáo Hội Công Giáo. Họ đã không sợ để sẵn sàng đem tin mừng ơn cứu rỗi và sự Phục Sinh đến với những bạn bè, anh em trong nơi làm việc và nhất là trong đời sống gia đình mà Bố Mẹ hoặc thân nhân vẫn còn chưa nhận biết Chúa.
Trong đêm màu nhiệm Chúa Phục Sinh hôm nay, ba chữ "Mừng Vui Lên", được lập lại nhiều lần để nhắc nhở chúng ta về Tình Yêu con người mà Thiên Chúa đã sai con một của Ngài xuống để cứu chuộc nhân loại, và để giao hòa giữa con người với Thiên Chúa vì tội lỗi của Tổ Tông mà chúng ta phải gánh chịu.
"Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không còn ở đây vì người đã sống lại "(Mt 28, 5-6). “Các bà đừng sợ”, chúng ta cũng đừng sợ, vì Đức Kitô đã sống lại thật, màu nhiệm tin mừng này đã làm cho các phụ nữ theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình lên đồi Calvario ngày xưa rất vui mừng nhưng không khỏi hoang mang, lo lắng và sợ hãi khi các chị được Thiên Thần loan báo: " “Chúa Giêsu không có ở đây, Ngài đã chỗi dậy như Ngài đã nói”
Màu nhiệm Phục Sinh của đêm nay có lẽ sẽ thức tỉnh làm sống lại con người đang ngủ mê trong tội lỗi, trong sự hận thù giữa con người với con người, trong những dằn vặt bất công nơi xã hội, trong những bất hòa giữa vợ chồng và con cái. Chúa đã sống lại từ cõi chết, mỗi người chúng ta cũng phải sống lại từ cõi chết tức là phải thoát ra ngoài cái ích kỷ tự ái cá nhân, để tin mừng Chúa Kitô Phục Sinh sẽ luôn sống mãi trong tâm hồn của chúng ta.
Các anh chị em tân tòng đã can đảm theo Chúa, chúng ta cũng phải can đảm giữ vững niềm tin và làm chứng nhân cho Chúa. Hãy can đảm và đừng sợ để loan báo tin mừng Chúa Phục Sinh. Đó là Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết, là tột đỉnh của nền tảng màu nhiệm đức tin trong đời sống của một Kitô hữu.
Kính chúc quí vị một mùa Phục Sinh thánh thiện và bình an.
Phạm văn Ry
Thứ Bảy Vọng Phục Sinh
19-4-2014
Mừng vui lên (Exsultet), hỡi muôn lớp cơ binh Thiên Thần trên trời.......
“Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì Đức Tin của chúng ta sẽ ra huyền ảo vô ích, và chúng ta vẫn còn trong tội lỗi” (1 Cor 15, 17).
Cùng với Giáo Hội mừng ngày Chúa Khải Hoàn trong Vinh Quang, cộng đoàn Tam Biên, giáo phận Orange, California hân hoan đón nhận hơn 10 anh chị em tân tòng. Họ là những người đã can đảm dám theo Chúa, dám lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và Thêm sức. Họ đã không sợ để được gia nhập vào chi thể của Giáo Hội Công Giáo. Họ đã không sợ để sẵn sàng đem tin mừng ơn cứu rỗi và sự Phục Sinh đến với những bạn bè, anh em trong nơi làm việc và nhất là trong đời sống gia đình mà Bố Mẹ hoặc thân nhân vẫn còn chưa nhận biết Chúa.
Trong đêm màu nhiệm Chúa Phục Sinh hôm nay, ba chữ "Mừng Vui Lên", được lập lại nhiều lần để nhắc nhở chúng ta về Tình Yêu con người mà Thiên Chúa đã sai con một của Ngài xuống để cứu chuộc nhân loại, và để giao hòa giữa con người với Thiên Chúa vì tội lỗi của Tổ Tông mà chúng ta phải gánh chịu.
Màu nhiệm Phục Sinh của đêm nay có lẽ sẽ thức tỉnh làm sống lại con người đang ngủ mê trong tội lỗi, trong sự hận thù giữa con người với con người, trong những dằn vặt bất công nơi xã hội, trong những bất hòa giữa vợ chồng và con cái. Chúa đã sống lại từ cõi chết, mỗi người chúng ta cũng phải sống lại từ cõi chết tức là phải thoát ra ngoài cái ích kỷ tự ái cá nhân, để tin mừng Chúa Kitô Phục Sinh sẽ luôn sống mãi trong tâm hồn của chúng ta.
Các anh chị em tân tòng đã can đảm theo Chúa, chúng ta cũng phải can đảm giữ vững niềm tin và làm chứng nhân cho Chúa. Hãy can đảm và đừng sợ để loan báo tin mừng Chúa Phục Sinh. Đó là Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết, là tột đỉnh của nền tảng màu nhiệm đức tin trong đời sống của một Kitô hữu.
Kính chúc quí vị một mùa Phục Sinh thánh thiện và bình an.
Phạm văn Ry
Thứ Bảy Vọng Phục Sinh
19-4-2014
Diễn nguyện Chúa chịu chết tại giáo xứ Tân Đông, GP Sàigòn
Minh Thiên
17:00 20/04/2014
Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng ưu ái dân tộc Việt Nam
Trần Hiếu
10:19 20/04/2014
Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng ưu ái dân tộc Việt Nam
Cùng với Giáo Hội hoàn vũ, tín hữu Việt Nam vui mừng trước biến cố Đức Gioan Phaolô II được tuyên phong hiển thánh vào ngày 27/4/14. Ngài không những là ân huệ lớn lao Chúa đã ban cho thế giới mà còn là một ân nhân đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Với tình thương bao la, ngài luôn dành cho Việt Nam một chỗ đầy ưu ái trong trái tim rộng mở của ngài.
Đúng nghĩa một lãnh tụ tinh thần, với vũ khí là Lời Chúa, sự thật và phong trào quần chúng bất bạo động, ngài đã làm thay đổi lịch sử thế giới, khiến công luận gọi ngài là "lương tâm của thế giới", "con người của thế kỷ". Là mục tử của một tỷ tín hữu, ngài không ngần ngại thẳng thắn lên tiếng trước các nguy cơ suy đồi luân lý và phô bày tấm lòng thao thức của ngài trước những đàn áp bất công mà nhiều dân tộc đang phải gánh chịu, trong đó có Việt Nam.
Ngay khi vừa mới đăng quang giáo hoàng năm 1978, với một xúc động mãnh liệt trước cao trào thuyền nhân Việt bỏ nước ra đi, ngài đã mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi thế giới cứu giúp người tỵ nạn. Trong dịp thăm viếng các quốc gia vùng Đông Nam Á, ngài đã hiện diện trong các trại tạm cư để vỗ về an ủi và xoa dịu sự cô đơn của những thuyền nhân đói khổ, cũng như nhằm gây sự chú ý của lương tâm thế giới trước thảm cảnh thời đại.
Chính ngài đã làm gương trong nổ lực đón tiếp người tỵ nạn bằng việc bảo trợ một gia đình Việt Nam đến tạm trú tại Vatican. Khi được một thương thuyền Thổ Nhĩ Kỳ vớt lên nơi Biển Đông tháng 5, 1978, gia đình ông Nguyễn Thành và các bạn cùng chuyến ghe vượt biên từ Cửa Hàn, Đà Nẵng, được đưa đến Djibouti, Phi Châu. Trong 15 tháng tạm trú tại đây, nhóm 11 người gần như tuyệt vọng giấc mơ định cư tại một quốc gia Tây Phương. Thế rồi bất chợt họ được đưa về Rôma, trú ngụ trong một căn chung cư nơi khuôn viên Tòa Thánh Vatican, không xa văn phòng làm việc của Đức Giáo Hoàng. Sau ba tháng ở đây, cả gia đình được sắp xếp đi định cư tại Hoa Kỳ.
Chỉ sau ít năm trên ngôi vị giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm một người Việt Nam, Đức Ông Vincent Trần Ngọc Thụ, làm thư ký riêng cho ngài. Ở cương vị nầy, đức ông Thụ giúp Đức Thánh Cha các công tác thường ngày, một sự gần gũi đặc biệt, và theo lời đức ông khi sinh tiền đã thuật lại, "việc bổ nhiệm nầy là để ngài nhớ đến đất nước Việt Nam".
Ngày 22/6/1987, Đức Gioan Phaolô II đã châu phê nghị quyết phong thánh các chân phước tử đạo Việt Nam. Và một năm sau, ngày 19/6/1988, trước sự hiện diện đông đảo các tín hữu khắp năm châu, gồm cả khoảng 10 ngàn người Việt, ngài đã chủ tọa đại lễ long trọng tôn phong 117 anh hùng tử đạo lên hàng hiển thánh. Đây là một biến cố quan trọng vô tiền khoáng hậu cho Việt Nam, làm nức lòng các tín hữu, nhất là những người đang ở trong lòng Giáo Hội thầm lặng bị bức hại cấm cách sau bức màn tre cọng sản. Nhà nước Việt Nam cực lực phản kháng, cấm việc cử hành trong nước và khước từ cấp chiếu khán cho bất kỳ một giám mục nào qua Rôma dự lễ.
Trong bài giảng thuyết đại lễ phong thánh, sau khi mở lời chào Giáo Hội Việt Nam, "mặc dầu trùng dương cách biệt nhưng rất gần gũi trong tình thân ái của tôi" ngài ngỏ lời cùng dân tộc Việt Nam, "Dịp nầy, tôi xin gửi lời chào thân ái tới toàn thể dân tộc Việt Nam và nói lên rằng: cả Giáo Hội hoàn vũ hết lòng cầu chúc cho dân tộc quý quốc được trăm phần an lành..."
Là người đến từ quốc gia cọng sản, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II am hiểu sự hà khắc của thể chế độc tài và đặc biệt quan tâm tình trạng ngược đãi các tín hữu và mục tử. Trong nhiều lần, ngài công khai lên tiếng yêu cầu Việt Nam tôn trọng nhân quyền và phản đối sự bức bách của nhà nước đối với các giám mục, linh mục và tín hữu. Ngoài các vận động hậu trường, ngài đã không ngần ngại công khai nhắc đến trường hợp các Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Kim Điền bị tù đày chèn ép và yêu cầu nhà nước trả tự do cho họ.
Chính khi Đức Tổng Thuận bị tống xuất khỏi Việt Nam, Đức Gioan Phaolô II đã mở rộng vòng tay đón tiếp và cắt cử vị giám mục cựu tù làm việc trong giáo triều Rôma. Ngài bổ nhiệm Đức Tổng Thuận vào một công việc hết sức ý nghĩa là đảm đương một bộ của Giáo Triều Vatican: Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình. Ở cương vị nầy và với những chứng từ cá nhân hùng hồn, Đức Tổng Thuận đã nhiệt tình hoạt động, đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều người để cổ võ hòa bình và công lý cho toàn thế giới.
Vào ngày 15/12/1999 Đức Gioan Phaolô II đã làm Đức Tổng Thuận bối rối và ngạc nhiên khi ngài nói, "Năm đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba, một người Việt Nam sẽ giảng tuần tĩnh tâm cho giáo triều Rôma." Và ngài tiếp, "Đức Cha đã chọn đề tài nào chưa?" Kết quả là, qua biến cố giảng phòng lịch sử, các mẩu chuyện cuộc sống tù đày của Đức Tổng Thuận đã được loan truyền khắp thế giới. Hai mươi hai bài tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma về sau được in lại trong tập sách "Chứng Nhân Hy Vọng" và đã phiên dịch ra nhiều thứ tiếng.
Ngày Đức Tổng Thuận được tấn phong Hồng Y, trong khi bước lên để nhận mũ và nhẫn Hồng Y, Đức Thánh Cha đã hai lần thốt lên, "Việt Nam!" "Việt Nam!", một cử chỉ ưu ái đối với dân Việt mà khi sinh tiền Đức Hồng Y Thuận đã nhiều lần nhắc lại. Trong thánh lễ an táng trước linh cửu Đức Hồng Y Thuận tại Vatican, Đức Giáo Hoàng đã hiện diện để bày tỏ tình hiệp thông sâu xa với Giáo Hội Việt Nam và phân ưu với dân tộc Việt Nam. Ngài nói, "Tôi nghĩ đến Giáo Hội Việt Nam yêu quí, nơi Đức Hồng Y đã sinh ra trong đức tin, và tôi cũng nghĩ đến toàn thể dân tộc Việt Nam, mà Đức Hồng Y đáng kính đã công khai nhắc đến trong chúc thư thiêng liêng và khẳng định tấm lòng luôn luôn yêu mến".
Là một con người nhạy cảm, Đức Gioan Phaolô đã luôn tận dụng mọi cơ hội để bày tỏ tình liên đới và tình thương của ngài với dân Việt khi gặp cảnh thiên tai hoặc qua các biến cố. Trong dịp tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1993 tại Denver, Colorado, ngài đã dành cho trên 10 ngàn tín hữu Việt Nam tại Hoa Kỳ một cuộc tiếp xúc riêng tại sân vận động trường thành phố. Ngài thành lập Văn Phòng Phối Kết Tông Đồ Việt Nam Hải Ngoại tại Rôma để đặc biệt chăm sóc đời sống đức tin và mục vụ cho các tín hữu Việt Nam hải ngoại, một cơ chế được thấy hiếm hoi nơi các sắc dân khác. Ngài bổ nhiệm một giám mục gốc Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ là Đức Cha Mai Thanh Lương, và một Tổng Giám Mục người Việt phục vụ trong ngành ngoại giao với cấp bậc sứ thần, là Đức Tổng Nguyễn Văn Tốt.
Trong khi am hiểu sâu xa vô vàn khó khăn các vị mục tử phải gánh chịu trong một quốc gia độc tài đàn áp, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại thúc giục các giám mục can đảm nêu gương chứng nhân đức tin, và ra sức hoạt động đối thoại để mang lại các thay đổi tích cực cho xã hội. Nhân chuyến Ad Limena viếng thăm Mộ Các Thánh Tông Đồ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại Giáo Đô La Mã vào đầu năm 2002, ngài đã tán thành việc lên tiếng đòi hỏi nhân quyền và cám ơn "sự kiên vững và chứng từ can đảm" của các giám mục Việt Nam. Vừa căn dặn các giám mục, "sứ mạng truyền giáo phải luôn luôn hướng dẫn những chọn lựa căn bản mà anh em cần thực hiện... và không ngừng đối thoại", ngài vừa kêu gọi mọi người dân Việt, không phân biệt tôn giáo, "dấn thân một cách trung thực để làm tăng trưởng con người và xây dựng một xã hội công bằng, liên đới, và chân thật" cũng như kêu gọi nhà nước "hoàn toàn tôn trọng sự độc lập và tự chủ của Giáo Hội".
Một cử chỉ ưu ái bất ngờ cho Giáo Hội Việt Nam là Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn được nâng lên thành Tòa Hồng Y, một vinh dự đầy ngạc nhiên vì so với các quốc gia khác như Phi Luật Tân, hoặc Đại Hàn, Việt Nam thua kém về số tín hữu hoặc tỷ lệ. Chính Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, trước sự bổ nhiệm nầy, trong một trả lời báo chí đã cho biết, ngài "như trên trời rơi xuống" vì quá bất ngờ. Quyết định nầy làm cho người ta hiểu rằng Đức Thánh Cha mong muốn vị lãnh đạo Công Giáo tại thành phố trù phú và đông dân cư nhất Việt Nam nầy có một uy thế đặc biệt để đối tác với nhà cầm quyền và tiếng nói trọng lượng hơn đối với quần chúng trong cũng như ngoài nước.
Hai tháng trước khi ngài tạ thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vinh thăng Đức Cha Ngô Quang Kiệt, một giám mục trẻ vừa ngoài 50 tuổi, làm Tổng Giám Mục Thủ Đô Hà Nội, và bổ nhiệm một tân giám mục phụ tá cho Tổng Giáo Phận Huế. Trong vài ngày cuối đời, ngài còn có một cử chỉ cho Giáo Hội Việt Nam là chấp nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của Đức Cha Huỳnh Văn Nghi và bổ nhiệm Đức Cha Nguyễn Thanh Hoan làm giám mục chính tòa Giáo Phận Phan Thiết. Chắc hẳn khi châu phê các sắc lệnh bổ nhiệm nầy, hai tiếng Việt Nam đã được ngài nhắc đến như là niềm tưởng nhớ ưu ái trước khi giã từ trần thế.
Là người Việt Nam, cùng với các tín hữu khắp nơi trên thế giới, trước hồng phúc vinh thăng hiển thánh của vị giáo hoàng rất mực khả kính, thánh thiện, chúng ta không khỏi cảm xúc vui mừng. Ngài lìa khỏi thế gian, nhưng gương sáng của ngài vẫn ở lại. Là con người đức tin, chúng ta tin rằng ngài đã được một nơi cư ngụ vĩnh viễn trên trời, làm người bầu cử cho nhân loại, cho dân tộc Ba Lan và Việt Nam mà ngài hằng luôn yêu mến.
Lúc sinh tiền, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ao ước nhưng chưa được thực hiện chuyến viếng thăm Việt Nam, "một đất nước cao quý và kiên cường"; nhưng ý Chúa nhiệm mầu, vì qua trở lực của khó khăn con người, ngài đã đền bù cho dân tộc Việt Nam nhiều cử chỉ hết sức ưu ái. Chúng ta cám ơn Chúa vì đã ban cho Giáo Hội Người một chứng nhân Tin Mừng thánh thiện, tuyệt vời, và cho thế giới một vĩ nhân cao cả.-
Cùng với Giáo Hội hoàn vũ, tín hữu Việt Nam vui mừng trước biến cố Đức Gioan Phaolô II được tuyên phong hiển thánh vào ngày 27/4/14. Ngài không những là ân huệ lớn lao Chúa đã ban cho thế giới mà còn là một ân nhân đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Với tình thương bao la, ngài luôn dành cho Việt Nam một chỗ đầy ưu ái trong trái tim rộng mở của ngài.
Đúng nghĩa một lãnh tụ tinh thần, với vũ khí là Lời Chúa, sự thật và phong trào quần chúng bất bạo động, ngài đã làm thay đổi lịch sử thế giới, khiến công luận gọi ngài là "lương tâm của thế giới", "con người của thế kỷ". Là mục tử của một tỷ tín hữu, ngài không ngần ngại thẳng thắn lên tiếng trước các nguy cơ suy đồi luân lý và phô bày tấm lòng thao thức của ngài trước những đàn áp bất công mà nhiều dân tộc đang phải gánh chịu, trong đó có Việt Nam.
Ngay khi vừa mới đăng quang giáo hoàng năm 1978, với một xúc động mãnh liệt trước cao trào thuyền nhân Việt bỏ nước ra đi, ngài đã mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi thế giới cứu giúp người tỵ nạn. Trong dịp thăm viếng các quốc gia vùng Đông Nam Á, ngài đã hiện diện trong các trại tạm cư để vỗ về an ủi và xoa dịu sự cô đơn của những thuyền nhân đói khổ, cũng như nhằm gây sự chú ý của lương tâm thế giới trước thảm cảnh thời đại.
Chính ngài đã làm gương trong nổ lực đón tiếp người tỵ nạn bằng việc bảo trợ một gia đình Việt Nam đến tạm trú tại Vatican. Khi được một thương thuyền Thổ Nhĩ Kỳ vớt lên nơi Biển Đông tháng 5, 1978, gia đình ông Nguyễn Thành và các bạn cùng chuyến ghe vượt biên từ Cửa Hàn, Đà Nẵng, được đưa đến Djibouti, Phi Châu. Trong 15 tháng tạm trú tại đây, nhóm 11 người gần như tuyệt vọng giấc mơ định cư tại một quốc gia Tây Phương. Thế rồi bất chợt họ được đưa về Rôma, trú ngụ trong một căn chung cư nơi khuôn viên Tòa Thánh Vatican, không xa văn phòng làm việc của Đức Giáo Hoàng. Sau ba tháng ở đây, cả gia đình được sắp xếp đi định cư tại Hoa Kỳ.
Chỉ sau ít năm trên ngôi vị giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm một người Việt Nam, Đức Ông Vincent Trần Ngọc Thụ, làm thư ký riêng cho ngài. Ở cương vị nầy, đức ông Thụ giúp Đức Thánh Cha các công tác thường ngày, một sự gần gũi đặc biệt, và theo lời đức ông khi sinh tiền đã thuật lại, "việc bổ nhiệm nầy là để ngài nhớ đến đất nước Việt Nam".
Ngày 22/6/1987, Đức Gioan Phaolô II đã châu phê nghị quyết phong thánh các chân phước tử đạo Việt Nam. Và một năm sau, ngày 19/6/1988, trước sự hiện diện đông đảo các tín hữu khắp năm châu, gồm cả khoảng 10 ngàn người Việt, ngài đã chủ tọa đại lễ long trọng tôn phong 117 anh hùng tử đạo lên hàng hiển thánh. Đây là một biến cố quan trọng vô tiền khoáng hậu cho Việt Nam, làm nức lòng các tín hữu, nhất là những người đang ở trong lòng Giáo Hội thầm lặng bị bức hại cấm cách sau bức màn tre cọng sản. Nhà nước Việt Nam cực lực phản kháng, cấm việc cử hành trong nước và khước từ cấp chiếu khán cho bất kỳ một giám mục nào qua Rôma dự lễ.
Trong bài giảng thuyết đại lễ phong thánh, sau khi mở lời chào Giáo Hội Việt Nam, "mặc dầu trùng dương cách biệt nhưng rất gần gũi trong tình thân ái của tôi" ngài ngỏ lời cùng dân tộc Việt Nam, "Dịp nầy, tôi xin gửi lời chào thân ái tới toàn thể dân tộc Việt Nam và nói lên rằng: cả Giáo Hội hoàn vũ hết lòng cầu chúc cho dân tộc quý quốc được trăm phần an lành..."
Là người đến từ quốc gia cọng sản, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II am hiểu sự hà khắc của thể chế độc tài và đặc biệt quan tâm tình trạng ngược đãi các tín hữu và mục tử. Trong nhiều lần, ngài công khai lên tiếng yêu cầu Việt Nam tôn trọng nhân quyền và phản đối sự bức bách của nhà nước đối với các giám mục, linh mục và tín hữu. Ngoài các vận động hậu trường, ngài đã không ngần ngại công khai nhắc đến trường hợp các Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Kim Điền bị tù đày chèn ép và yêu cầu nhà nước trả tự do cho họ.
Chính khi Đức Tổng Thuận bị tống xuất khỏi Việt Nam, Đức Gioan Phaolô II đã mở rộng vòng tay đón tiếp và cắt cử vị giám mục cựu tù làm việc trong giáo triều Rôma. Ngài bổ nhiệm Đức Tổng Thuận vào một công việc hết sức ý nghĩa là đảm đương một bộ của Giáo Triều Vatican: Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình. Ở cương vị nầy và với những chứng từ cá nhân hùng hồn, Đức Tổng Thuận đã nhiệt tình hoạt động, đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều người để cổ võ hòa bình và công lý cho toàn thế giới.
Vào ngày 15/12/1999 Đức Gioan Phaolô II đã làm Đức Tổng Thuận bối rối và ngạc nhiên khi ngài nói, "Năm đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba, một người Việt Nam sẽ giảng tuần tĩnh tâm cho giáo triều Rôma." Và ngài tiếp, "Đức Cha đã chọn đề tài nào chưa?" Kết quả là, qua biến cố giảng phòng lịch sử, các mẩu chuyện cuộc sống tù đày của Đức Tổng Thuận đã được loan truyền khắp thế giới. Hai mươi hai bài tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma về sau được in lại trong tập sách "Chứng Nhân Hy Vọng" và đã phiên dịch ra nhiều thứ tiếng.
Ngày Đức Tổng Thuận được tấn phong Hồng Y, trong khi bước lên để nhận mũ và nhẫn Hồng Y, Đức Thánh Cha đã hai lần thốt lên, "Việt Nam!" "Việt Nam!", một cử chỉ ưu ái đối với dân Việt mà khi sinh tiền Đức Hồng Y Thuận đã nhiều lần nhắc lại. Trong thánh lễ an táng trước linh cửu Đức Hồng Y Thuận tại Vatican, Đức Giáo Hoàng đã hiện diện để bày tỏ tình hiệp thông sâu xa với Giáo Hội Việt Nam và phân ưu với dân tộc Việt Nam. Ngài nói, "Tôi nghĩ đến Giáo Hội Việt Nam yêu quí, nơi Đức Hồng Y đã sinh ra trong đức tin, và tôi cũng nghĩ đến toàn thể dân tộc Việt Nam, mà Đức Hồng Y đáng kính đã công khai nhắc đến trong chúc thư thiêng liêng và khẳng định tấm lòng luôn luôn yêu mến".
Là một con người nhạy cảm, Đức Gioan Phaolô đã luôn tận dụng mọi cơ hội để bày tỏ tình liên đới và tình thương của ngài với dân Việt khi gặp cảnh thiên tai hoặc qua các biến cố. Trong dịp tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1993 tại Denver, Colorado, ngài đã dành cho trên 10 ngàn tín hữu Việt Nam tại Hoa Kỳ một cuộc tiếp xúc riêng tại sân vận động trường thành phố. Ngài thành lập Văn Phòng Phối Kết Tông Đồ Việt Nam Hải Ngoại tại Rôma để đặc biệt chăm sóc đời sống đức tin và mục vụ cho các tín hữu Việt Nam hải ngoại, một cơ chế được thấy hiếm hoi nơi các sắc dân khác. Ngài bổ nhiệm một giám mục gốc Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ là Đức Cha Mai Thanh Lương, và một Tổng Giám Mục người Việt phục vụ trong ngành ngoại giao với cấp bậc sứ thần, là Đức Tổng Nguyễn Văn Tốt.
Trong khi am hiểu sâu xa vô vàn khó khăn các vị mục tử phải gánh chịu trong một quốc gia độc tài đàn áp, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại thúc giục các giám mục can đảm nêu gương chứng nhân đức tin, và ra sức hoạt động đối thoại để mang lại các thay đổi tích cực cho xã hội. Nhân chuyến Ad Limena viếng thăm Mộ Các Thánh Tông Đồ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại Giáo Đô La Mã vào đầu năm 2002, ngài đã tán thành việc lên tiếng đòi hỏi nhân quyền và cám ơn "sự kiên vững và chứng từ can đảm" của các giám mục Việt Nam. Vừa căn dặn các giám mục, "sứ mạng truyền giáo phải luôn luôn hướng dẫn những chọn lựa căn bản mà anh em cần thực hiện... và không ngừng đối thoại", ngài vừa kêu gọi mọi người dân Việt, không phân biệt tôn giáo, "dấn thân một cách trung thực để làm tăng trưởng con người và xây dựng một xã hội công bằng, liên đới, và chân thật" cũng như kêu gọi nhà nước "hoàn toàn tôn trọng sự độc lập và tự chủ của Giáo Hội".
Một cử chỉ ưu ái bất ngờ cho Giáo Hội Việt Nam là Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn được nâng lên thành Tòa Hồng Y, một vinh dự đầy ngạc nhiên vì so với các quốc gia khác như Phi Luật Tân, hoặc Đại Hàn, Việt Nam thua kém về số tín hữu hoặc tỷ lệ. Chính Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, trước sự bổ nhiệm nầy, trong một trả lời báo chí đã cho biết, ngài "như trên trời rơi xuống" vì quá bất ngờ. Quyết định nầy làm cho người ta hiểu rằng Đức Thánh Cha mong muốn vị lãnh đạo Công Giáo tại thành phố trù phú và đông dân cư nhất Việt Nam nầy có một uy thế đặc biệt để đối tác với nhà cầm quyền và tiếng nói trọng lượng hơn đối với quần chúng trong cũng như ngoài nước.
Hai tháng trước khi ngài tạ thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vinh thăng Đức Cha Ngô Quang Kiệt, một giám mục trẻ vừa ngoài 50 tuổi, làm Tổng Giám Mục Thủ Đô Hà Nội, và bổ nhiệm một tân giám mục phụ tá cho Tổng Giáo Phận Huế. Trong vài ngày cuối đời, ngài còn có một cử chỉ cho Giáo Hội Việt Nam là chấp nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của Đức Cha Huỳnh Văn Nghi và bổ nhiệm Đức Cha Nguyễn Thanh Hoan làm giám mục chính tòa Giáo Phận Phan Thiết. Chắc hẳn khi châu phê các sắc lệnh bổ nhiệm nầy, hai tiếng Việt Nam đã được ngài nhắc đến như là niềm tưởng nhớ ưu ái trước khi giã từ trần thế.
Là người Việt Nam, cùng với các tín hữu khắp nơi trên thế giới, trước hồng phúc vinh thăng hiển thánh của vị giáo hoàng rất mực khả kính, thánh thiện, chúng ta không khỏi cảm xúc vui mừng. Ngài lìa khỏi thế gian, nhưng gương sáng của ngài vẫn ở lại. Là con người đức tin, chúng ta tin rằng ngài đã được một nơi cư ngụ vĩnh viễn trên trời, làm người bầu cử cho nhân loại, cho dân tộc Ba Lan và Việt Nam mà ngài hằng luôn yêu mến.
Lúc sinh tiền, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ao ước nhưng chưa được thực hiện chuyến viếng thăm Việt Nam, "một đất nước cao quý và kiên cường"; nhưng ý Chúa nhiệm mầu, vì qua trở lực của khó khăn con người, ngài đã đền bù cho dân tộc Việt Nam nhiều cử chỉ hết sức ưu ái. Chúng ta cám ơn Chúa vì đã ban cho Giáo Hội Người một chứng nhân Tin Mừng thánh thiện, tuyệt vời, và cho thế giới một vĩ nhân cao cả.-
11 tân tòng GXVN Paris lãnh nhận bí tích rửa tội và thêm sức
Trần Văn Cảnh
15:48 20/04/2014
Mở đầu thánh lễ, Đức ông chủ tế đã xin cộng đoàn thêm lời cầu nguyện cho 11 quí Ông bà, Anh chị tân tòng: A. Jacques Tống Huỳnh Tiến, B. Nathalie Nguyễn Thị Hồng, Ô. Joseph Trần Quang Tuấn Robert, B. Trần Thị Chung, B. Marie Trần Thu Vân, A. Dominique Phúc Sang Gourdou, B. Sophie Thảo Audinet, B. Rita Đinh Ngọc Châu Roseline, B. Marie Nguyễn Thị Phấn, Ô. Pierre Trần Minh Phước, B. Marie Lưu Thị Lựu.
Chia sẻ Tin Mừng, Đức Ông Mai Đức Vinh đã nhắc lai lời « Công bố Tin mừng Phục Sinh »: « Hãy vui lên, hỡi ca đoàn thiên sứ, hãy vui lên, hỡi những mầu nhiệm thánh. Tiếng loa cứu độ, hãy vang khúc mừng Vua Cả khải hoàn. Vui lên, hỡi trái đất rực rỡ trong ánh sáng huy hoàng của Vua muôn thủơ, hãy vui mừng, vì được thoát vòng tối tăm của vũ trụ. Vui lên, Mẹ Hội Thánh trong muôn ánh sáng lung linh, và thánh đường, hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân ».
Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế đã vâng lời nhập thế và nhập thế, đã vâng lời chịu khổ hình, đã chết vì yêu thương nhân loại, đã phục sinh từ cõi chết để chứng tỏ Mình là Thiên Chúa. Chúng ta vui mừng vì được đón nhận 11 tân tòng gia nhập Giáo Hội, 11 anh em giáo hữu mới. Chúng ta vui mừng, vì cùng với 11 anh chị em tân tòng, chúng ta làm chứng cho Tin Mừng của Đầng Cứu Thế, làm chứng cho đức tin của chúng ta.
Chúng ta vui mừng vì chúng ta đã được lãnh nhận bí tích phép rửa, nhờ đó, ta được liên đới với cái chết hồng phúc và liên đới với sự phục sinh, thắng vượt cái chết của Đức Kitô. Xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với niềm tin mà chúng ta đã tuyên xưng khi lãnh nhận phép rửa, Xin Chúa cho chúng ta can đảm sống và tuyên xưng niềm tin của bí tích phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Xin Các Thánh Tử Đạo tiền nhân cầu bầu cho chúng ta được trung kiên giữ vững niềm tin, chung thủy sống niềm tin và nhiệt thành rao giảng niềm tin.
Thánh lễ hết, các tân tòng được mời chụp chung với các giáo sĩ đồng tế một tấm hình kỷ niệm. Nhiều nhóm nhỏ đã đặt sẵn phần ăn, để họ hàng và bạn bè quây quần, mừng các tân tòng và nghe họ kể tâm tình. Nhiều người bắt đầu kể về Đức Kytô, như động lực nào đã thúc đẩy và khai sáng họ đi vào niềm tin.
Paris, ngày 20 tháng 04 năm 2014
Trần Văn Cảnh
Hát Mừng Phục Sinh – Ca đoàn Teresa – Tây Úc
Ca đoàn Teresa – Tây Úc
16:17 20/04/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Giáo xứ Chu Hải, Bà Riạ mừng Chúa Phục Sinh
Đặng Phúc Hoàng
20:56 20/04/2014
Kiệu kỳ yên mừng Chúa Phục Sinh 2014 giáo xứ Chu Hải, gp Bà Rịa
Hằng năm, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, cộng đoàn dân Chúa giáo xứ Chu Hải long trọng cử hành Tuần thánh tưởng niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Theo truyền thống đã có từ lâu đời, ngoài các Nghi thức Phụng Vụ chính yếu, nơi đây còn cử hành rất nhiều những việc đạo đức bình dân, với các cuộc rước kiệu mà đỉnh điểm là trong Tam nhật Thánh. Để diễn tả niềm vui Phục sinh một cách cụ thể, giáo xứ Chu Hải đã tổ chức cuộc rước kiệu Kỳ Yên mừng Chúa sống lại vòng quanh giáo xứ vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh 2014.
Xem Hình
Là một xứ lớn đã được thành lập gần 60 năm từ cuộc Di cư vào miền Nam 1954, với hơn 10.000 người chủ yếu là gốc Bùi Chu. Giáo xứ đã giữ vững truyền thống lâu đời từ các bậc tiền nhân. Trên đường rước kiệu, ta thấy có nhiều bàn đã được chuẩn bị sẵn, trên đó có gạo, muối, đường, nhu yếu phẩm, thuốc men và các tượng Thánh..để khi kiệu Chúa Phục Sinh đi ngang qua, cha Cha chủ sự sẽ rảy nước thánh và chúc lành cho những của ấy. Cuộc rước kiệu Kỳ Yên hôm nay quy tụ các ban ngành đoàn thể và hầu hết cộng đoàn dân Chúa trong Giáo xứ, từ những vị cao niên, quý viên ông quý viên bà, giới trẻ nam nữ, các em thiếu nhi và bốn đội hoa của bốn họ đạo. Hòa chung cùng giai điệu tươi vui của ban trống, ban trắc, ban kèn đồng và những lời kinh mân côi. Tất cả đã tạo nên bầu không khí tươi vui, trang nghiêm sốt sắng để mừng kính Chúa Phục Sinh. Cùng dâng lên lời tuyên xưng như Thánh Tôma khi xưa đã nói, được khắc ghi trên tháp chuông giáo xứ: CREDO- Tôi Tin!
Tổng cộng có 13 kiệu, theo thứ tự như sau:
- Kiệu thánh Phêrô (bổn mạng giáo họ Phêrô).
- Kiệu thánh Phanxicô (bổn mạng giáo họ Phanxicô).
- Kiệu thánh Gioan Baotixita (bổn mạng giáo lý viên).
- Kiệu thánh Giuse (bổn mạng giới gia trưởng).
- Kiệu thánh thiên thần Micae (bổn mạng ban kèn Tây nhạc ).
- Kiệu các thánh Tử đạo Việt Nam (bổn mạng giới trẻ).
- Kiệu thánh Catarina (bổn mạng huynh đoàn Đaminh).
- Kiệu thánh Đaminh (bổn mạng huynh đoàn Đaminh).
- Kiệu thánh Vinh Sơn (bổn mạng hội Vinh Sơn).
- Kiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (bổn mạng giáo họ Vô Nhiễm).
- Kiệu thánh Tôma (bổn mạng giáo xứ).
- Kiệu thánh Đaminh Saviô (bổn mạng ban Lễ sinh).
- Kiệu Chúa Phục Sinh.
Hằng năm, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, cộng đoàn dân Chúa giáo xứ Chu Hải long trọng cử hành Tuần thánh tưởng niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Theo truyền thống đã có từ lâu đời, ngoài các Nghi thức Phụng Vụ chính yếu, nơi đây còn cử hành rất nhiều những việc đạo đức bình dân, với các cuộc rước kiệu mà đỉnh điểm là trong Tam nhật Thánh. Để diễn tả niềm vui Phục sinh một cách cụ thể, giáo xứ Chu Hải đã tổ chức cuộc rước kiệu Kỳ Yên mừng Chúa sống lại vòng quanh giáo xứ vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh 2014.
Xem Hình
Là một xứ lớn đã được thành lập gần 60 năm từ cuộc Di cư vào miền Nam 1954, với hơn 10.000 người chủ yếu là gốc Bùi Chu. Giáo xứ đã giữ vững truyền thống lâu đời từ các bậc tiền nhân. Trên đường rước kiệu, ta thấy có nhiều bàn đã được chuẩn bị sẵn, trên đó có gạo, muối, đường, nhu yếu phẩm, thuốc men và các tượng Thánh..để khi kiệu Chúa Phục Sinh đi ngang qua, cha Cha chủ sự sẽ rảy nước thánh và chúc lành cho những của ấy. Cuộc rước kiệu Kỳ Yên hôm nay quy tụ các ban ngành đoàn thể và hầu hết cộng đoàn dân Chúa trong Giáo xứ, từ những vị cao niên, quý viên ông quý viên bà, giới trẻ nam nữ, các em thiếu nhi và bốn đội hoa của bốn họ đạo. Hòa chung cùng giai điệu tươi vui của ban trống, ban trắc, ban kèn đồng và những lời kinh mân côi. Tất cả đã tạo nên bầu không khí tươi vui, trang nghiêm sốt sắng để mừng kính Chúa Phục Sinh. Cùng dâng lên lời tuyên xưng như Thánh Tôma khi xưa đã nói, được khắc ghi trên tháp chuông giáo xứ: CREDO- Tôi Tin!
Tổng cộng có 13 kiệu, theo thứ tự như sau:
- Kiệu thánh Phêrô (bổn mạng giáo họ Phêrô).
- Kiệu thánh Phanxicô (bổn mạng giáo họ Phanxicô).
- Kiệu thánh Gioan Baotixita (bổn mạng giáo lý viên).
- Kiệu thánh Giuse (bổn mạng giới gia trưởng).
- Kiệu thánh thiên thần Micae (bổn mạng ban kèn Tây nhạc ).
- Kiệu các thánh Tử đạo Việt Nam (bổn mạng giới trẻ).
- Kiệu thánh Catarina (bổn mạng huynh đoàn Đaminh).
- Kiệu thánh Đaminh (bổn mạng huynh đoàn Đaminh).
- Kiệu thánh Vinh Sơn (bổn mạng hội Vinh Sơn).
- Kiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (bổn mạng giáo họ Vô Nhiễm).
- Kiệu thánh Tôma (bổn mạng giáo xứ).
- Kiệu thánh Đaminh Saviô (bổn mạng ban Lễ sinh).
- Kiệu Chúa Phục Sinh.