Ngày 17-07-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Lời khuyên thiết thực
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
04:55 17/07/2018
Chúa Nhật 16 Thường Niên B

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.

Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Ngài chia sẻ niềm vui với các môn sinh và khuyên nhủ : “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực. Nếu khoảng lặng trong bài hát cần thiết để làm cho ý nhạc thấm vào lòng người nghe, thì lời Chúa làm chững lại câu chuyện hào hứng của các tông đồ cũng giúp các ông nhận ra ý nghĩa cuộc đời tông đồ. Cần thiết phải “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”

Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.

1. Thinh lặng là một cõi riêng tư

Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.

Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.

Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu

Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.

Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.

Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.
Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.
Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.
Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.
Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.

2.Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng

Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…

Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.

Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài", đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.

3. Thinh lặng để sống nội tâm

Lắm khi trong cuộc sống xô bồ, bận rộn vì cơm áo gạo tiền, bận rộn trong việc đạo đức, lo tập hát, lo đoàn thể, lo các công việc bác ái, xã hội…chúng ta quên đi việc “nạp năng lượng” từ Thiên Chúa.

Ðời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.

Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Ðời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.

Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi. Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.

Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.

Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã nhắc nhở chúng con qua Tin Mừng hôm nay rằng, đừng kể lể những gì mình đã làm, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là sự gặp gỡ thân mật với Chúa, nơi là nguồn sống của chúng con. Xin giúp chúng con khám phá ra sự ngọt ngào của Chúa mỗi ngày.
“Lạy Thiên Chúa,Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen” (Mẹ Têrêxa Calcutta).
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:56 17/07/2018

36. Sống tốt mỗi một ngày, mỗi một giờ, không vì ngày mai mà ưu sầu. <

b>(Thánh John Berchmans)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")

-------------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:58 17/07/2018
88. GÀ ĂN LỪA ĐEN
Ở vùng quê ngoài thành Kim Long có một thầy giáo rất mê chọi dế.
Nghe nói trong thành ở cổng tam quan có người bắt được một con dế to, đầu cao cẳng dài, dũng mãnh có lực, những con dế khác đều bị bại dưới tay của nó, cho nên ông ta ngày đêm đều mơ tưởng đến nó.
Thế là, ông ta cởi con lừa màu đen đi vào trong thành tìm chủ nhân của con dế, không ngần ngại đem con lừa để đổi lấy con dế.
Vừa về đến nhà, ông ta bèn đem dế ra chơi.
Đột nhiên con dế nhảy ra khỏi cái mâm, vừa đúng lúc con gà đi qua mổ lấy con dế ăn mất tiêu, thầy giáo giậm chân tức tối chửi to:
- “Đồ con gà mắc dịch ! Con lừa đen của tao bị mày ăn mất tiêu rồi !”
(Phúc phàn lục)

Suy tư 88:
Con dế, dù nó có đẹp, có cái đầu cao hay có cái cẳng dài thì nó vẫn không thể nào đáng giá như con lừa được, nó chỉ là một con dế nhưng đã bị đầu óc mê muội của ham muốn làm cho nó trở thành quý hơn con ngựa.
Cũng vậy mọi thú vui xác thịt, mọi ham mê của cải chỉ là những con dế tầm thường không thể nào quý giá như linh hồn của chúng ta, nhưng có người vì lòng tham mà nhìn những thú vui xác thịt ấy, những của cải thế gian ấy quý hơn linh hồn, nên đã đem linh hồn của mình đổi cho ma quỷ với giá “bèo” là một con dế đam mê...
Mê đá dế, mê cờ bạc, mê cá độ, mê bài bạc, mê gái, mê rượu chè, mê nhậu nhẹt là những cái mê rất...u mê, bởi vì chưa thấy ai mê cờ bạc mà được trở nên giàu có, mê rượu chè mà thân thể kiện khang, cũng như chưa thấy ai mê gái mà gia đình được hạnh phúc...
“Lạy Chúa,
xin dạy cho chúng con biết say mê thánh giá của Chúa,
xin dạy cho chúng con biết cách mê thực hành những hy sinh nho nhỏ,
xin dạy cho chúng con biết mau mắn thực hành đức ái...
bởi vì những mê say ấy sẽ đưa chúng con đến hạnh phúc thiên đàng ngay khi còn ở trần gian này. Amen”.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)

----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tình yêu là trung tâm điểm của đạo lý về gia đình.
Giuse Thẩm Nguyễn
14:40 17/07/2018


(Vatican City) Trong một thông điệp gởi cho giới trẻ miền đảo Antilean, ĐGH Phanxicô đã nói rằng tình yêu là cốt lõi đạo lý của Giáo Hội về gia đình, đó là điều mỗi người trẻ đều có trách nhiệm thăng tiến.

Để hiểu tình yêu nghĩa là gì, ĐGH mời gọi giới trẻ tìm đọc và học hỏi chương bốn Tông Huấn Niềm Vui Yêu Thương 2016 của ngài về gia đình, trong đó bàn về “Tình Yêu trong Hôn Nhân.”

“Cha nói với các con rằng cốt lõi của Tông Huấn Amoris Laetitia là chương bốn. Làm thế nào để sống yêu thương. Làm sao để sống yêu thương trong gia đình”. Ngài khuyên giới trẻ hãy đọc và thảo luận về chương này với nhau, bởi vì “Có rất nhiều sức mạnh ở đó để tiếp tục tiến về phía trước” và để biến đổi cuộc sống gia đình.

Tình yêu “tự nó có sức mạnh, và tình yêu không bao giờ hết”. Ngài giải thích rằng nếu họ học biết tình yêu đích thực như Thiên Chúa dạy, “các con sẽ biến đổi được cái gì đó để tất cả đều quy hướng về sự vĩnh cửu.”

ĐGH Phanxicô đã gởi một thông điệp bằng video cho những tham dự viên trong hội nghị giới trẻ của Hội Đồng Giám Mục Antilles, đang diễn ra tại Tổng Giáo Phận Thánh Pierre và Fort-deFrance ở Martinique, từ 10-23 tháng Bẩy.

Trong thông điệp của ngài, ĐGH kêu gọi giới trẻ hoặc là họ thực sự đang sống như những người trẻ trung hay họ đã trở thành “giới trẻ già trước tuổi”, bởi vì “nếu con là loại người trẻ già trước tuổi thì con sẽ chằng làm được điều gì. Con phải có cái thanh xuân của người trẻ tuổi, với cả sức mạnh để cái thanh xuân phải biến đổi.

Ngài nói rằng người trẻ không nên “an vị”trong cuộc sống, bởi vì “an vị” nghĩa là tình trạng đứng yên tại chỗ và “ mọi thứ sẽ không tiến lên được.”

“Các con phải làm chuyển động những gì đã bị ngưng trệ và bắt đầu chiến đấu. Các con muốn biến đổi, Các con muốn tiến lên và các con muốn thực hiện những sự hướng dẫn sau hội nghị về gia đình để làm thăng tiến và đổi mới các gia đình ở vùng Caribbean này.”

ĐGH nói rằng để thăng tiến và phát triển gia đình, người ta phải hiểu cả hiện tại và quá khứ của nó.

“Các con đang chuẩn bị biến đổi những gì đã được các bậc lão thành truyền lại cho các con ư. Các con hãy nhớ về lịch sử, về những truyền thống xa xưa. Nhớ rằng người ta không thể làm gì được trong hiện tại hay trong tương lại nếu các con không có rễ sâu trong quá khứ, trong lịch sử, trong văn hóa hay trong gia đình của các con; nếu con không có rễ sâu nơi đất tốt.”

Trong phần kết thúc, ĐGH nói với người trẻ hãy dành thời gian cho ông bà của mình và những bậc lão thành khác và hãy nhận lấy những gì đã học được và “tiến hành.”


Source: EWTN News Love is the heart of doctrine on family, Pope Francis says
 
Đức Cha Oscar Cantú, tân Giám Mục phó San Jose, tin rằng bức tượng Đức Mẹ khóc tại Hobbs, New Mexico là một phép lạ
Đặng Tự Do
17:24 17/07/2018
Những giọt nước mắt từ một bức tượng Đức Mẹ dường đang khóc có chứa dầu ô liu. Các phân tích hóa học đã kết luận như trên. Tuy nhiên, giáo phận sở tại vẫn chưa xác định được nguồn dầu từ đâu mà có.

Giáo phận Las Cruces đã điều tra một hiện tượng lạ lùng tại nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe ở Hobbs, New Mexico từ tháng Năm vừa qua, sau khi các tín hữu báo cáo thấy một chất lỏng chảy ra từ đôi mắt của bức tượng.

Ngày 11 tháng 7 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Cha Oscar Cantú, Giám Mục giáo phận Las Cruces, New Mexico làm Giám Mục Phó với quyền kế vị giáo phận San Jose. Ngài sẽ nhận nhiệm sở mới vào ngày 28 tháng 9 tới đây. Nhân dịp này, Đức Cha đã dành cho tờ Las Cruces Sun-News một cuộc phỏng vấn.

Đề cập đến bức tượng Đức Mẹ tại nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe ở Hobbs, ngài nói với tờ Las Cruces Sun-News rằng một mẫu chất lỏng đã được gửi đi phân tích khoa học. “Và chúng tôi xác định đó là dầu ô liu, một loại dầu ô liu thơm”.

“Một số nhân chứng nói dầu này có mùi hoa hồng, tương tự như dầu tôi làm phép và thánh hiến mỗi năm mà chúng tôi sử dụng để làm phép rửa tội, thêm sức và phong chức linh mục.”

Đức Cha Cantú nói rằng giáo phận vẫn đang điều tra xem nguồn dầu này xuất phát từ đâu.

“Chúng tôi đã kiểm tra kỹ bên trong bức tượng rỗng. Không có gì bên trong đó, ngoại trừ những mạng nhện. Chúng tôi đã chụp ảnh; và chúng tôi đã kiểm tra kỹ lưỡng.”

Đức Cha Cantú nói thêm rằng các viên chức trong giáo phận đã liên lạc với nhà sản xuất bức tượng để xem liệu có bất kỳ chất lỏng hoặc sáp nào có thể vẫn còn bên trong bức tượng khi được đúc ra hay không.

“Trong tiến trình điều tra đó, họ đảm bảo với chúng tôi rằng không có chất lỏng nào tồn tại nổi vì bức tượng được đúc bằng đồng”.

Đức Cha Cantú nói rằng ngài hoàn toàn không tin hiện tượng này có thể là một trò lừa bịp “làm sao người ta có thể thực hiện được như thế, về mặt vật lý?”

“Bức tượng được đúc cứng cáp bằng đồng. Chúng tôi đã kiểm tra bên trong và không có gì bên trong cả”

Theo Đức Cha Cantú, đây là một hiện tượng siêu tự nhiên. Vấn đề hiện nay là Giáo Hội phải tìm hiểu để kết luận rằng hiện tượng này là từ Thiên Chúa hay từ ma quỷ. Căn bản để quyết định là “hoa trái” mà hiện tượng này mang lại.

Đức Cha Cantú nhấn mạnh rằng:

“Tôi đã đọc hầu hết những lời khai, và đó là những câu chuyện về đức tin thật cảm động, những người đã đối diện với những khổ đau kinh hoàng trong cuộc sống của họ đã cảm thấy được an ủi tinh thần rất nhiều khi Đức Maria đồng hành cùng với họ trong nước mắt”.

Đức Cha Cantú, 51 tuổi, là Giám Mục thứ hai của giáo phận Las Cruces và từng là Chủ tịch Ủy Ban Công lý và Hòa bình Quốc tế của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ từ 2015 đến 2017. Năm 2008, ngài được tấn phong Giám Mục, và vào thời điểm đó ngài là vị Giám Mục trẻ nhất Hoa Kỳ. Ngài đã từng thăm Iraq, Israel, Palestine, Cuba, Ấn Độ, Congo, Sudan, Mã Lai Á và chứng kiến tận mắt những tình cảnh bi thảm của các tín hữu Kitô bị bách hại trên thế giới. Đức Cha nói thêm rằng:

“Tôi không thể không nghĩ đến những giọt nước mắt của chính mình trước tình cảnh của những người nghèo chạy đến biên giới của chúng ta để trốn chạy những tình huống đe dọa tính mạng của họ. Những giọt nước mắt của những đứa trẻ bị tách ra khỏi cha mẹ chúng. Có quá nhiều lý do để chúng ta phải rơi nước mắt, và Thiên Chúa đứng bên cạnh chúng ta trong những khoảnh khắc đó.”
Source: Catholic Herald - Virgin Mary statue ‘weeping olive oil’
 
Côn đồ nhà nước Nicaragua tấn công một Giám Mục
Đặng Tự Do
18:07 17/07/2018
Hôm 15 tháng 7, côn đồ nhà nước Nicaragua tập trung tại một trạm kiểm soát của cảnh sát đã chặn xe của một Giám Mục, đập bể cửa kính, làm thủng bánh xe, bắn nhiều phát súng vào xe để buộc ngài ra khỏi xe, sau đó xúm lại lăng mạ ngài.

Đức Giám Mục Juan Abelardo Mata Guevara của giáo phận Esteli đã bị tấn công tại một trạm kiểm soát của cảnh sát ở thành phố Nindirí, khoảng 15 dặm về phía đông nam của thủ đô Managua. Ngài đang trên đường trở về Tòa Giám Mục ở Esteli sau khi cử hành thánh lễ tại thành phố Nindirí.

Cùng với tài xế của mình, Đức Cha Mata đã phải lánh nạn trong một ngôi nhà bị bao vây bởi những kẻ ủng hộ Ortega trong suốt 90 phút.

Ngài đã có thể rời khỏi ngôi nhà nhờ sự can thiệp của Tổng Giáo Phận Managua. Bọn cầm quyền Nicaragua đã gửi một thanh tra tên là Ramon Avellan đến nơi để đảm bảo an toàn cho vị Giám Mục.

Đức Giám Mục Mata là một trong số các Giám Mục đứng ra làm trung gian hòa giải và là nhân chứng trong cuộc đối thoại quốc gia giữa chính phủ và phe đối lập.

Các cuộc biểu tình chống tổng thống Daniel Ortega, được bắt đầu từ ngày 18 tháng 4, đã dẫn đến cái chết của hơn 300 người.
Source: Catholic News Agency - In Nicaragua, paramilitaries attack bishop and besiege church
 
Tổng thống Petro Poroshenko tái kêu gọi Chính Thống Giáo Ukraine độc lập với Mạc Tư Khoa
Đặng Tự Do
18:29 17/07/2018
Một Giáo Hội Chính Thống tự trị là một trong những xương sống cho nền an ninh quốc gia của Ukraine. Tổng thống Petro Poroshenko của Ukraine đã nói như trên trong bài phát biểu tại cuộc gặp gỡ các Giáo Hội Kitô ở Ternopil hôm 15 tháng 7.

Ông nói: “Sự tự trị của Chính Thống Giáo Ukraine không chỉ là mối quan tâm của các Kitô hữu Chính thống Ukraine, nhưng còn là vấn đề quan yếu liên quan đến nền độc lập của người Ukraine. Đó là một trong những xương sống của nhà nước Ukraine, quốc gia Ukraine, an ninh quốc gia Ukraine. Và cuối cùng, là toàn bộ địa chính trị của thế giới”.

Theo Tổng thống Petro Poroshenko, vì lý do đó mà ý tưởng về sự tự trị này không được Mạc Tư Khoa và những kẻ thân Nga bên trong Ukraine hỗ trợ.

Giải thích thêm về ý tưởng hiệp nhất các Giáo Hội Chính Thống tại Ukraine thành một Giáo Hội duy nhất tách biệt với Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa, ông nói:

“Đó không phải là việc tạo ra một Giáo Hội quốc doanh, Giáo Hội đã và luôn luôn là độc lập với nhà nước, điều này được xác định bởi Hiến pháp. Tôi nhấn mạnh rằng Giáo Hội ở Ukraine nên độc lập với nhà nước, và cũng nên độc lập với nhà nước ngoại bang.”

Ông Poroshenko cho biết thêm ông đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và gần đây là Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, tuyên bố rằng “Đức Giáo Hoàng Phanxicô hài lòng ghi nhận rằng chính quyền Ukraine bảo đảm việc tuân thủ hoàn toàn tự do tôn giáo cho các tín đồ của tất cả các tôn giáo”.

Trước đó, vào ngày 17 tháng 4, ông Petro Poroshenko đã ký một tuyên bố chung với Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô liên quan đến việc nhìn nhận quyền tự trị của Giáo hội Chính thống Ukraine.
Source: 112 - Ukraine - Autocephalous church is one of backbones of Ukraine's national security, - Poroshenko
 
Bộ trưởng Anh Quốc dám bảo Giáo Hội hãy thay đổi giáo huấn về ngừa thai.
Giuse Thẩm Nguyễn
21:47 17/07/2018


Một Bộ Trưởng Anh Quốc đã yêu cầu Giáo Hội cho phép ngừa thai nhân tạo sau khi họp với các vị có thẩm quyền cao cấp của Tòa Thánh vào tuần trước.

Penny Mordaunt, Bộ Trưởng Phát Triển Quốc Tế đã nói rằng 800 bạn gái và phụ nữ đã bị mất mạng mỗi ngày do các biến chứng về mang thai và sinh sản, và cho rằng sự cho phép ngừa thai rộng rãi hơn sẽ giúp giảm bớt vấn đề này.

Bà nói rằng các nhà lãnh đạo đức tin nên giúp thay đổi “cách giữ trọn niềm tin và thái độ” để cho phép phụ nữ đến gần hơn với “khoa chăm sóc sức khỏe sinh sản.”

Bà Mordaunt đã tiết lộ với tờ Daily Telegraph sau khi có cuộc họp với Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, Viện Trưởng Hàn Lâm Giáo Hoàng về Sự Sống và Tổng Giám Mục Paul Gallagher, Trưởng Phân Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh.

Bà nói với tờ báo rằng “Hôn nhân trẻ em và sự thiếu tự chủ của bản thân cũng như sự thiếu tiếp cận với khoa chăm sóc sức khỏe sinh sản để ngừa thai có nghĩa là nhiều em gái đã không hoàn tất việc giáo dục.

“Rất là quan trọng để cùng với các nhà lãnh đạo đức tin giúp chúng ta đối phó với việc giữ trọn niềm tin và thái độ về vấn đề này.

“Giáo Hội Công Giáo có thể giúp chúng ta và tôi nài xin họ giúp chúng ta cứu lấy mạng sống, nhất là những người mẹ trẻ.

“Khi chúng ta làm việc với các nhà lãnh đạo Châu Phi để giúp họ xây dựng quốc gia của họ, điều quan trọng là kế hoạch hóa gia đình gồm một phần trong chương trình ấy. Nó sẽ cứu được nhiều sinh mạng và giải tỏa nhiều nỗi đau khổ.”

“Lời đề nghị của bà này lại rơi vào đúng dịp kỷ niệm 50 năm thông điệp Humannae Vitae (Sự Sống Con Người) của Thánh Giáo Hoàng Phaolo VI, tái xác định giáo huấn của Giáo Hội rằng ngừa thai nhân tạo là sai trái về bản chất.

Tháng trước, 500 linh mục Anh Quốc đã ký vào một lá thư ủng hộ thông điệp này với nội dung, “Nhiều người đã nhìn ra giáo huấn của thông điệp rằng việc xử dụng ngừa thai trong mọi trường hợp là “dứt khoát phải loại trừ” và “sái trái về bản chất tự nhiên”, khó để chấp nhận và không cần phổ biến. Năm mươi năm sau, quá nhiều điều đã diễn ra trong xã hội chúng ta, nó gây tổn hại cho tình yêu và đời sống con người. Lại một lần nữa nhiều người đánh giá cao sự khôn ngoan về giáo huấn của Giáo Hội.”

Lời bình phẩm của bà Morduant dấy lên nỗi lo ngại là chính quyền sẽ can thiệp vào giáo huấn của Giáo Hội. Vào năm ngoái, Justine Greening, lúc ấy là Bộ Trưởng Giáo Dục, đã nói rằng đa số những tín hữu cần “theo kịp với thái độ tân thời “về hôn nhân đồng tính.

Bà còn nói “Điều quan trọng là Giáo Hội, trong một cách nào đó, theo kịp và là một phần của một đất nước hiện đại.”


Source: Catholic Herald Change teaching on contraception, Bristish minister tells Church
 
ĐGH bất ngờ cử hành lễ cưới cho một đôi là nhân viên của Tòa Thánh
Nguyễn Long Thao
22:24 17/07/2018
VATICAN CITY — Trong ngày thứ Bảy 14 tháng 7 năm 2018, ĐTC Phanxicô đã bất ngờ chủ sự thánh lễ cưới cho một anh chị tại Tòa Thánh Vatican. Đôi tân hôn đó gồm anh Luca Schafer là vệ binh Thụy Sĩ của Tòa Thánh và chị Leticia Vera, nguyên là nhân viên của viện bảo tang Vatican. Lễ cưới diễn ra tạ nhà thờ Thánh Stephen tọa lạc tại bên ngoài đền thờ Thánh Phêrô trong thành phố Vatican

Theo tin được tiết lộ sau này thì chỉ có chú rể và cô dâu là biết trước ĐGH Phanxicô sẽ chủ sự lễ cưới. Khi Đức Thánh Cha đến cử hành lễ cưới, các khách mời và linh mục dư trù chủ sự thánh lễ đã hết sức ngạc nhiên.

Theo nguồn tin báo chí tại Vatican, trong bài giảng lễ hôn phối, ĐGH đã giảng về ba động từ giúp cô dâu chú rể sống hạnh phúc. Đó là Hãy Bắt Đầu (to Begin), Hãy Dừng Lại ( to Stop)và Hãy Tiếp Tục Lên Đường ( to Resume the Journey)



Giới thạo tin tại Vatican cho biết, đây không phải là lần đầu tiên ĐGH cử hành lễ hôn phối tại Vatican. Năm 2014 ĐGH Phanxicô đã cử hành lễ cưới cho 20 cặp tại đền thờ thánh Phêrô. Tháng 7 năm 2016, Ngài cử hành lễ cưới cho một anh chị câm điếc tại nhà nguyện Casa Santa Marta.

Nguyễn Long Thao
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh Lễ Truyền Chức Linh Mục và Phó Tế tại Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam
Ban Truyền Thông MF
17:47 17/07/2018
Thánh Lễ Truyền Chức Linh Mục và Phó Tế tại Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam

“Để ở với Người và để được Người sai đi” ( Mc 3, 13-15)

Đó chính là ý nghĩa của Thánh lễ truyền chức Linh mục và Phó tế đã diễn ra tại Tu viện Lời Chúa, Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam, sáng nay.

Trong Thánh lễ sáng nay, Đức cha Giu-se Nguyễn Tấn Tước, Giám mục giáo phận Phú Cường, đã đặt tay truyền chức linh mục cho thầy phó tế Phê-rô Nguyễn Tiến Nghi, MF. Và Ngài cũng truyền chức phó tế cho 4 thầy thuộc Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam:

Xem Hình

1. Thầy Giu-se Nguyễn Huy Thục, MF

2. Thầy Tô-ma Đỗ Văn Lâm, MF

3. Thầy Giu-se Lưu Quốc Toàn, MF

4. Thầy Phê-rô Huỳnh Văn Tha, MF

Đồng tế trong Thánh Lễ có Cha Giám tỉnh Tô-ma Đinh Ngọc Lộc, MF, quý Cha Tỉnh dòng Việt Nam, quý Cha nghĩa phụ và quý Cha khách trong và ngoài giáo phận. Đông đảo các tu sĩ nam nữ, thân nhân, ân nhân, quý khách và bạn bè xa gần đã cùng tới hiệp dâng lời cầu nguyện cho các tiến chức.

Ngay từ sáng sớm, thân nhân của các tiến chức đã tập trung tại nhà dòng trong bữa sáng thân mật cùng quý cha, quý thầy tại Tỉnh dòng.

Vào lúc 8g00, ban Tiếp tân của Tỉnh dòng hân hoan đón tiếp và hướng dẫn quý cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể thân nhân, bạn bè của các tiến chức tiến về khu vực lễ đài được chuẩn bị ngay trong khuôn viên của Tu viện.

Khuôn viên Tu viện hôm nay thật nhộn nhịp, tràn đầy niềm vui và niềm hân hoan. Ơn Chúa quan phòng đã cho thời tiết hôm nay thật mát mẻ và dễ chịu dù có dấu hiệu mây trời sắp đổ mưa.

Đúng 9g00 sáng, Thánh lễ Truyền chức Linh mục và Phó tế được cử hành.

“Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con giữa muôn người…”, lời ca quen thuộc được cất cao bởi ca đoàn liên Tu sĩ (Dòng TSĐT và Dòng Con Đức Mẹ Phú Cường) trong khi đoàn đồng tế và các tiến chức được rước từ khu vực phòng khách tiến về lễ đài.

Mở đầu Thánh lễ, Đức Cha Giu-se đã ngỏ lời cùng cộng đoàn về niềm vui hòa cùng tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì Hội Dòng và Giáo Phận sẽ có thêm một Tân Linh Mục và 4 Phó tế. Cả 5 tân chức hôm nay đều là các tu sĩ của Tỉnh Dòng Thùa Sai Đức Tin Việt Nam. Sau những năm tháng dài tu học, gắn bó với Hội dòng được ví như khoảng thời gian để các thầy “ở lại với Người”; hôm nay, qua việc đặt tay truyền chức của Đức Giám Mục, quý thầy lại bắt đầu một hành trình mới trong đời dâng hiến của mình đó là “được Người sai đi”.

Sau phần phụng vụ Lời Chúa, nghi thức truyền chức diễn ra trong không khí linh thiêng và trang trọng.

Thầy phó tế xướng danh các tiến chức. Các tiến chức lần lượt tiến lên trước mặt Đức Cha Giuse và cộng đoàn. Cha Giám tỉnh Tô-ma Đinh Ngọc Lộc, MF đã giới thiệu và xin Đức Giám Mục truyền chức cho các ứng viên.

Đức Giám Mục chấp thuận, cộng đoàn cùng đáp: “Tạ ơn Chúa” và chào mừng quyết định của Đức Giám Mục bằng một tràng pháo tay.

Sau khi đã bày tỏ ước muốn và sự vâng phục với Đức Giám Mục giáo phận cùng Bề trên hợp pháp, các tiến chức phủ phục, cộng đoàn cùng hát Kinh cầu các Thánh để cầu nguyện cách đặc biệt cho các tiến chức.

Sau đó, Đức Giám Mục Giu-se đã đặt tay và phong chức Linh mục và phó tế cho các tiến chức.

Sau nghi thức truyền chức là phần phụng vụ Thánh Thể. thánh lễ được tiếp tục trong niềm hân hoan và tâm tình tạ ơn của toàn thể cộng đoàn.

Trước khi Đức Cha ban phép lành cuối lễ, Cha Giám tỉnh Tô-ma đã bày tỏ tâm tình tri ân tới Đức Cha Giuse, quý cha, quý tu sĩ, quý phụ huynh, cộng đoàn và tất cả mọi người đã góp công, góp sức và lời cầu nguyện để thánh lễ hôm nay được diễn ra một cách tốt đẹp. Sau đó, Đức cha Giu-se đã có đôi lời huấn từ với cộng đoàn và chúc mừng Tỉnh Dòng và gia đình các tân chức.

Thánh lễ kết thúc lúc 11g15 trong niềm phấn khởi của toàn thể các thành phần dân Chúa tham dự thánh lễ truyền chức hôm nay.

Từ nay Giáo Hội, cách riêng với Dòng Thừa Sai Đức Tin, Tỉnh Dòng Việt Nam, có thêm 1 Linh mục (trong tổng số 48 Linh mục) và 4 Phó tế (trong tổng số 6 Phó tế là những thợ gặt tràn đầy lòng nhiệt thành và sức dẻo dai trên cách đồng truyền giáo.

Ban Truyền Thông MF
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Chiến thắng Vân Đồn vang danh Đại Việt
Đinh Văn Tiến Hng
16:24 17/07/2018
Chiến thắng Vân Đồn vang danh Đại Việt.
Chiến bại Vân Đồn ô nhục Nguyên Mông.

“Một gánh càn khôn quẩy tếch ngàn,
Hỏi chi bán đó, dạ rằng than.
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn,
Ở với lửa hương cho vạn kiếp,
Thử xem sắt đá có bền gan.
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.”

Thuyền của vua Trần Nhân Tông theo dòng sông Đuống đến Bình Than để về hội quân bàn kế chống giặc Nguyên lại sang xâm lược nước ta (1282). Nhìn ra phía trước vua trông thấy một ông lão ăn mặc tiều tụy, khoác áo quen quen, liền hỏi tả hữu : ---Có phải Nhân Huệ Vương đấy không ?
Mọi người nhìn theo rồi đồng thanh :
-Dạ, chính phải !
-Hãy mời vương đến gặp ta !
Đúng đó là Nhân Huệ Vương Trần Khanh Dư. Ông phạm lỗi bị cách chức thành dân thường, về làm nghề đốt than để sinh sống. Lính nhà vua rượt thuyền theo kịp ông, để mời ông dừng lại, ông lắc đầu :
-Tôi chỉ là lão bán than quê mùa, có gì mà hỏi ?
Vừa lúc thuyền của vua Nhân Tông đến cạnh, nhà vua dịu dàng nói :
-Thôi đừng giấu ta nữa ! Một thời gian qua đã khiến cho kẻ nam nhi khốn khổ thế này ư ! Thôi trở lại mà lập công giết giặc.
Trần Khánh Dư đổi ngay thái độ :
-Đánh giặc thì tôi không từ chối. Đốt than hàng ngày để kiếm ăn cũng là nung nấu chí lớn đấy thôi…

Giai thoại phản ảnh chí lớn của ông được bộc lộ qua bài tự vịnh ‘Người bán than’ nêu trên.
Sau đó, Trần Khanh Dư trở về quân ngũ trở thành danh tướng lập công lớn phục kích đánh chìm đoàn tàu gồm 70 chiếc, chở theo 170 ngàn thạch lương thực tại Vân Đồn năm 1288, do tên tướng Trương Văn Hổ chỉ huy khiến quân Nguyên đại bại chạy về Tàu, bỏ mộng xâm lăng Đại Việt qua 3 lần đại bại….

*Ngày nay, chắc bọn Tàu Cộng chưa quên bài học ô nhục năm xưa, nhưng bọn Cộng nô VN lại muốn xóa bỏ vết nhơ cho bọn xâm lăng mà bỏ qua chiến tích hào hùng của dân tộc bằng cách dâng 3 trọng điểm chiến lược trọng yếu của Đất Nước với Luật Đặc Khu lừa bịp : Vân Đồn- Bắc Vân Phong và Phú Quốc mà Vân Đồn là cửa ngõ đầu nguồn giáp Trung cộng để chúng dễ dàng đem quân xâm chiếm nước ta để, thỏa mộng âm mưu thâm độc Bắc thuộc một lần nữa.

Nhưng Tàu Công và bọn Việt Cộng hãy nhìn chứng tích Vân Đồn vẫn còn đó :

Ngàn năm chiến thắng Vân Đồn,
Vang danh sử Việt vẫn còn khắc ghi.
Quân Nguyên xưa mạnh khó bì,
Hốt Tất Liệt tỏ quyền uy vẫy vùng,
Xâm chiếm nhiều nước Đông Tây,
Đem quân nam tiến bao vây ba lần,
Quân dân quyết chiến đời Trần,
Gồm nhiều danh tướng cùng dân kết đoàn,
Ba lần Nguyên Mông tan hàng,
Đại việt toàn thắng vẻ vang ba lần.
Ngày nay cọc nhọn Bạch Đằng,
Sông Hồng nhuộbị m máu sóng vang ầm ầm.
Cột đồng Mã Viện còn đâu ? (*)
Dân việt vùi lấp chôn sâu mất rồi.
Vân Đồn đứng giữa đất trời,
Chứng tích oanh liệt ngàn đời còn đây !
Nhưng sao lũ khỉ chúng bay,
Lại đem vội vã dâng ngay cho Tàu.
Việt Cộng tứ trụ cầm đầu,
Xóa nhòa trang sử bấy lâu sáng ngời.
Tà quyền tận số đến nơi,
Tổ tiên dặn bảo quên lời sắt son,
Còn trời còn nước còn non,
Còn Tổ quốc đó Dân còn quyết tâm.

ĐINH VĂN TIẾN HÙNG

(*) Ghi chú : Theo truyền thuyết kể rằng : Sau khi Mã Viện thắng Hai Bà Trưng, cho dựng cột đồng tại Mê Linh có khắc 6 chữ ‘ Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt’
(Cột đồng đổ, Giao chỉ bị tiêu diệt). Người Giao chỉ qua lại nơi ấy, đều lấy đá ném vào chân cột, lâu ngày chồng chất thành đồi cao, cột đồng bị vùi lấp không còn vết tích- Nhưng cột đồng biến mất và người Giao chỉ (VN) vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
 
Cuộc gặp gỡ giữa các hoàng đế và các linh mục, hay cuộc đối thoại khó khăn giữa Tòa Thánh và Trung Hoa
Vũ Văn An
23:10 17/07/2018
Về cuộc đối thoại lâu dài và đầy khó khăn của Tòa Thánh với Trung Hoa, nhiều cây viết nổi danh đã nói lên tâm tình tha thiết của họ đối với tương lai Giáo Hội tại nước này và đưa ra nhiều nhận định lý thú. Gần đây, http://www.settimananews.it có đăng tải một bài phân tích cặn kẽ về lập trường của hai bên để đi đến kết luận cho rằng: khía cạnh chính trị của cuộc đối thoại phải được lưu ý mới có thể vượt qua được cửa ải bế tắc.

Bài phân tích trên là của Francesco Sisci, một nhà Trung Hoa Học người Ý, với bằng tiến sĩ về Ngữ Học và Triết Học Cổ Điển Trung Hoa, hiện sống và làm việc tại Bắc Kinh và là nhà nghiên cứu cao cấp tại Đại Học Nhân Dân Trung Hoa. Năm 2016, ông từng được Đức Phanxicô dành cho một cuộc phỏng vấn về Trung Hoa và cuộc phỏng vấn này được phổ biến rộng rãi tại Trung Hoa, một biến cố đầu tiên trong lịch sử Đảng Cộng Sản Trung Hoa.

Chúng tôi xin lược dịch bài phân tích rất cặn kẽ của ông còn kết luận của ông thì tùy thuộc sự phê phán của độc giả:


Cuộc Gặp Gỡ của Các Hoàng Đế - và Các Linh Mục

Cuộc gặp gỡ, xích lại gần nhau, giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, dĩ nhiên, có cả ngàn bộ mặt. Có các vấn đề đức tin, tôn giáo, các linh hồn tiến lại gần nhau, căng thẳng tiến về đời sau, và truyền thông với những người còn ở đời này. Tất cả đều là những điểm quan trọng, có lẽ là những điểm nền tảng và sâu xa hơn cả. Nhưng từ Trung Hoa mà nhìn, vấn đề, trong yếu tính, đơn giản chỉ là quyền lực và chính trị. Thành thử, vì lợi ích của cuộc gặp gỡ và tiếp cận, có lẽ điều thích đáng là tìm hiểu lập trường của Trung Hoa. Việc này gồm 3 tuồng như trong các bi kịch cổ điển.

So sánh giữa các đế quốc

Đối với Trung Hoa, Tòa Thánh trước hết và trên hết là một đế quốc cần được so sánh với điều trên thực tế chính là đế quốc Trung Hoa. Cái đẹp của Trung Hoa nằm ở nét đơn giản của nó như là một đế quốc. Ngày nay, nó có khoảng 1.4 tỷ người. Khoảng 95% những người này thuộc Hán tộc và nói và hiểu thông thạo tiếng quan thoại Trung Hoa.

Từ năm 1980, Bắc Kinh nghiêm khắc áp đặt chính sách 1 con, chính sách này, trong 40 năm qua, đã làm Trung Hoa thiệt mất gần 400 triệu tân công dân. Trong những ngày tới, chính sách 1 con này sẽ hoàn toàn bị loại bỏ. Việc loại bỏ này tái phát động các vụ sinh nở và do đó, gia tăng dân số, nhờ thế tránh được nạn lão hóa từ từ của quốc gia, một điều cũng có tác dụng đối với việc phát triển kinh tế. Nói cách khác, Trung Hoa là khối lớn nhất về dân số thế giới, về kinh tế, gia tăng 8% mỗi năm trong hơn 40 năm qua; con số này bảo đảm tăng tổng sản lượng quốc nội lên gấp đôi mỗi 8 năm. Điều này có nghĩa trong 40 năm qua, sự thịnh vượng của khối 1.4 tỷ người này đã gia tăng khoảng 30 lần, hay 3,000%.

Đế quốc chính trị duy nhất khác có thể so sánh về phương diện con số là Ấn Độ. Tổng dân số của Ấn Độ có thể nay mai sẽ vượt tổng dân số Trung Hoa. Hơn nữa, dân số Ấn Độ, vì không hề bị giới hạn bởi chính sách kế hoạch hóa gia đình, nên trẻ trung hơn. Nhưng so sánh với Trung Hoa, Ấn Độ chia rẽ hơn trong nội bộ.

Ở Ấn Độ, có nhiều chia rẽ lớn về ngôn ngữ giữa Bắc và Nam. Bắc là ngôn ngữ Ấn Âu, nam là ngôn ngữ Dravidian. Các chia rẽ về đẳng cấp còn chia rẽ sâu xa hơn xã hội Ấn Độ. Ngoài ra còn có sự thù ghét giữa người Hồi Giáo và người Ấn Giáo, thậm chí giữa người Ấn Giáo cũng có các nghi lễ và cả các tôn giáo hoàn toàn khác nhau nữa: người thì tin thần tối cao Brahma, người khác tin Vishnu, người khác nữa tin Shiva, và người khác nữa thích các vị thần hoàn toàn khác. Ấy là chưa kể giữa người Ấn Âu và Dravidian, còn có những bản sắc mạnh mẽ và tách biệt: người Bengal cảm nhận khác với các cư dân miền Bắc, thậm chí họ còn phân rẽ thành 2 quốc gia khác nhau: một ở trong liên hiệp Ấn, theo Ấn Giáo, và một theo Hồi Giáo ở bên ngoài Ấn Độ, tại Bangladesh. Hơn nữa, việc phát triẻn của Ấn Độ không ồ ạt, dù hiện đang gia tốc.

Ở Trung Hoa, các chia rẽ như trên không hề có. Có những phân rẽ cổ xưa có tính vùng miền. Người ta nhận ra mình một cách thâm hậu tại tỉnh mình thuộc về. Nhưng cảm quan trổi vượt vẫn là trước nhất hãnh diện được làm người Trung Hoa trước khi làm người Bắc Kinh, Thượng Hải hay Quảng Đông.

Với cái khung trí quen thuộc ấy, người Trung Hoa khó có thể chấp nhận các biện pháp của Tòa Thánh. Còn Tòa Thánh thì sao? Trong yếu tính, Tòa Thánh chỉ là một lãnh thổ rộng chừng nửa cây số vuông giữa trung tâm thủ đô Nước Ý, với vài ngàn công dân. Thoạt nhìn, nó là một thứ thực tại địa dư kỳ lạ giống như các tiểu quốc San Marino hay Andorra.

Nhưng nó có một chiều kích khác là Giáo Hội: nó là thực thể tôn giáo thuần nhất hơn hết trên thế giới. Giáo Hội tự hào với 1.3 tỷ thành viên đã nhận phép rửa. Con số này gia tăng nhanh chóng, nhất là tại Châu Phi, lục địa với tỷ lệ gia tăng dân số nhanh nhất. Ngoài ra, hàng trăm triệu Kitô hũu Chính Thống và Thệ Phản, cho dù đứng ngoài sự hợp nhất của Giáo Hội Công Giáo, nhưng có một lòng kính trọng sâu xa đối với Giáo Hội và vị giáo hoàng của nó.

Lòng kính trọng và ngưỡng phục đối với Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng cũng càng ngày càng tìm thấy nơi hơn tỷ người Hồi Giáo khắp thế giới. Điều này có những lý do lịch sử của nó: bất chấp các cuộc chiến tranh tôn giáo trong quá khứ, Hồi Giáo vẫn nhìn nhận Kitô Giáo là người có trước mình. Hơn nữa, trong những năm gần đây, khi Hồi Giáo bị tấn công từ bên trong bởi những người cực đoan và từ bên ngoài bởi “các chiến sĩ văn minh” muốn có những va chạm mới về tôn giáo và văn hóa, Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội luôn lên tiếng bênh vực việc đối thoại và hiểu biết lẫn nhau. Và các vị cũng là những người duy nhất hành động và vận động cho người tị nạn (thường là người Hồi Giáo) chạy trốn các vùng có chiến tranh. Điều này làm tăng uy tín của Giáo Hội và của Đức Giáo Hoàng nơi mọi người Hồi Giáo, những người phần đông chỉ muốn có cuộc sống hòa bình cho hôm nay và ngày mai.

Bởi thế, Tòa Thánh là một thứ đế quốc nhẹ, mềm, với các vòng tròn đồng tâm, có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp nhưng vẫn thực chất trên quá nửa dân số của hành tinh, gần 4 tỷ người. Hơn nữa, vị Giáo Hoàng hiện nay không ngừng nhấn mạnh rằng ngài không chỉ lưu tâm tới người “của ngài” mà thôi. Ngài lên tiếng khắp thế giới, với cả 3 tỷ người Trung Hoa và Ấn Độ vốn không phải là Kitô hữu hay người Hồi Giáo và với rất nhiều người duy linh (animists) khắp thế giới.



Tuy nhiên, thử hỏi Đức Giáo Hoàng có thứ thế giá nào đối với khối người trên? Ở Trung Hoa, rõ ràng là Chủ Tịch Tập Cẩn Bình, hay các người tiền nhiệm và kế nhiệm ông, có thẩm quyền tối hậu đối với sự sống hay sự chết của mọi thần dân của ông ta. Viên chức nào không vâng phục ông có thể bị bỏ tù, bị sa thải, thậm chí bị xử tử. Còn Đức Giáo Hoàng, như đã thấy trong chuỗi dài các tai tiếng và những rì rỏ đúng sai từng làm rúng động Tòa Thánh, nhưng nào ngài có thi hành, hay có quyền hay muốn có quyền sa thải các cộng sự viên thiếu hẳn những qui định căn bản nhất về an ninh và tin tưởng.

Thành thử, đúng là một thứ quyền lực vô quyền lực, nếu nhìn theo cái nhìn giản đơn của Trung Hoa. Một quyền lực gần như vô dụng.

Nhưng thực ra không phải thế.

Tất cả các tranh cãi được báo chí thế giới theo dõi tận tình liên quan tới các thiếu sót của Đức Giáo Hoàng hay của giáo triều của ngài và các tranh cãi gay gắt liên quan đến việc bình thường hóa các mối liên hệ giữa Tòa Thánh và Trung Hoa chứng minh điều này: Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội có một quyền lực phi thường và đặc biệt. Với một số người, quyền lực này có khi còn lớn hơn cả quyền lực của Chủ Tịch Trung Hoa. Thực vậy, năm 2015, khi các cuộc công du chính thức Hoa Kỳ của Chủ Tịch Trung Hoa và của Đức Giáo Hoàng trùng nhau, các chính khách và công chúng Hoa Kỳ đã dành tầm quan trọng lớn hơn cho Đức Giáo Hoàng, chứ không cho Chủ Tịch Tập. Đây là một cú sốc văn hóa đối với người Trung Hoa.

Trong cuộc chập mạch (short-circuiting) quyền lực bởi Tòa Thánh này, người ta cũng thấy Trung Hoa cảm thấy lúng túng khi đương đầu với Vatican. Nếu Tòa Thánh không phải là một quyền lực có thực chất, thì nó không đáng kể, vô dụng, đâu cần nói chuyện với. Nếu nó là một quyền lực có thực chất, đáng kể, thì nó là một quyền lực cực mạnh và do đó cần phải tiếp cận một cách hết sức thận trọng vì nó có thể đập thẳng vào mặt mình. Trong mấy thập niên trước đây, thái độ trổi vượt của Bắc Kinh là thái độ trước, nhưng trong mấy năm gần đây, thái độ đó bắt đầu là thái độ sau. Điều này có nghĩa ở Bắc Kinh, người ta tin rằng: chúng ta phải nói chuyện với Tòa Thánh, nhưng chúng ta cũng phải cực kỳ thận trọng, kẻo các thay đổi ý kiến trong tương lai ở Rôma có thể trực tiếp tác động lên nền chính trị nội bộ của Trung Hoa.

So sánh giữa các quyền lực

Có một thứ chập mạch thứ hai trong việc so sánh quyền lực. Quyền lực Trung Hoa, một quyền lực từ truyền thống đế quốc, vốn tuyệt đối trong lãnh thổ của nó, phải tìm cách sống với quyền lực của Giáo Hội. Vấn đề này rất sâu xa và đụng tới các vấn đề thuộc bản sắc của Nhà Nước Trung Hoa. Đế quốc thống nhất đầu tiên vốn đã dành cho hoàng đế một thẩm quyền gần như thần thiêng. Tuy nhiên, các tiền nhiệm của hoàng đế vốn là những người có chủ quyền tại các nhà nước biệt lập khác nhau.

Ký tự (ideogram) mô tả ông, chữ Hoàng, vốn có ba nét ngang song song kết hợp với nhau ở giữa bởi một nét dọc. Nó cho thấy một thực thể thống nhất hóa ba thế giới: trời, xã hội con người và thiên nhiên. Do đó, từ thời cổ đại, nó đã là một quyền lực thống nhất hóa các khía cạnh tôn giáo và chính trị nơi cùng một con người, có lẽ tương tự như cách của các Pharaô Ai Cập, nhưng rất khác với cách của thành bang Hy Lạp và cộng hoà La Mã, vốn cung cấp căn bản cho quan niệm của Tây Phương về nhà nước.

Không đi sâu vào các vấn đề xưa cũ và phức tạp, ta chỉ cần nghĩ rằng ở Tây Phương, cả hàng ngàn năm nay, một nhị phân đã được thừa nhận giữa quyền lực tôn giáo của Giáo Hội và quyền lực chính trị của nhà nước. Sự nhị phân này không hề có ở Trung Hoa. Đàng khác, ở Trung Hoa, không hề có thứ tôn giáo nhà nước thực sự như Hồi Giáo tại các nước Hồi Giáo dưới thời caliph. Người Trung Hoa trong nhiều thế kỷ được tự do thực hành và theo bất cứ tôn giáo nào họ ưa thích.

Nhưng nguyên tắc vẫn là thẩm quyền toàn diện sau cùng đối với bất cứ tôn giáo nào bên trong Trung Hoa là thuộc về Hoàng Đế. Nguyên tắc này đã là nền tảng trong cuộc tranh luận về nghi lễ từng phân rẽ các cha Dòng Tên và các Cha Dòng Phanxicô và Đa Minh thế kỷ 16 và 17. Dòng Tên đánh cuộc rằng muốn giải quyết mâu thuẫn phải làm cho hoàng đế trở lại rồi sau đó mới làm cho toàn bộ Trung Hoa trở lại. Nói cách khác, đây là một thứ đánh cuộc kiểu Tân Constantinô, áp dụng vào hoàng đế và đế quốc Trung Hoa điều các Kitô hữu thế kỷ thứ tư đã làm với hoàng đế Constantinô và Đế Quốc La Mã. Lần đánh cuộc này, Dòng Tên thua vì họ không vượt qua được hai gọng kìm đối nghịch và tương phản nhau.

Hoàng đế không trở lại vì Kitô Giáo không thích ứng đủ với thực tại Trung Hoa, và mặt khác, Giáo Hội sợ bị hoen ố quá đáng trong việc thích ứng này. Ngày nay, xét về một số phương diện, tình thế rất khác, nhưng vẫn có những điểm trùng hợp sâu xa với quá khứ. Điều khác biệt nền tảng là ngày nay, chủ tịch Trung Hoa không còn đòi bất cứ thẩm quyền tôn giáo nào. Ý thức hệ đang thống trị trong nước là ý thức hệ Mácxít, một ý thức hệ vô thần, và do đó, không có tính tôn giáo. Do đó, chính phủ không có thẩm quyền nào đối với việc chọn lựa tôn giáo. Về phần mình, với việc kết liễu Lãnh Thổ Giáo Hoàng, Giáo Hội đã ngưng, không còn đòi quyền lực chính trị nữa, nên “các khu vực thẩm quyền” của chính phủ Trung Hoa và Tòa Thánh không còn đụng nhau nữa: một bên là chính trị-dân chính, một bên là thiêng liêng-tôn giáo.



Điều trên tạo ra một không gian lý thuyết trong đó Trung Hoa và Tòa Thánh có thể sống với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, có cả một vùng lẫn lộn (gray) mênh mông, nơi đụng nhau và giáp mặt nhau của hai quyền lực. Thí dụ, vấn đề căn bản của Giáo Hội về việc chọn các giám mục. Các ngài là điểm gặp gỡ tôn giáo giữa cộng đồng địa phương và Đức Giáo Hoàng. Nhưng trên thực tế, các giám mục cũng là điểm gây ảnh hương xã hội mạnh mẽ, và, do đó, trên thực tế, các ngài thi hành một thứ thẩm quyền nào đó trên lãnh thổ Trung Hoa. Đối với Giáo Hội, vấn đề này vẫn là một vấn đề gai góc và xưa cũ. Trước đây, đã có vấn đề chỉ định giáo chức (investiture), một vấn đề từng làm căng thẳng các mối liên hệ giữa Đức Giáo Hoàng và hoàng đế của Đế Quốc Rôma Thánh Thiện thời Trung Cổ.

Trong hai thập niên 1980 và 1990, lúc Giáo Hội tìm cách nối lại các mối liên hệ với Trung Hoa, thì vấn đề trên được đề cập và lo toan bởi Hội Công Giáo Yêu Nước Trung Hoa, một hội được “hoàng đế” tân thời ban cho các quyền tự trị đặc biệt trong các liên hệ với “ngoại nhân” (trong trường hợp này là Vatican). Thời đế quốc cũng tương tự như thế, thẩm quyền đế quốc tối cao duy trì quyền lực đại thể nhưng đã ban tư cách “nhượng địa” (enclaves) về văn hóa – tôn giáo – chính trị cho một số thực thể. Tuy nhiên, trong trường hợp này, các nhượng bộ vừa nói đã tạo ra sự mơ hồ sâu xa, như thấy rõ ở đầu thập niên 2000. Tất cả các giám mục do Bắc Kinh bổ nhiệm đều đã xin Đức Giáo Hoàng tha thứ, dù là giấu giếm, không cho nhà cầm quyền hay. Bởi thế, trên quan điểm hoàn toàn lý thuyết, Bắc Kinh vẫn nghĩ họ có một nửa số giám mục, còn nửa kia là của Đức Giáo Hoàng, và họ có thể thương thảo với Đức Giáo Hoàng trên căn bản chia đôi này. Nhưng trên thực tế, Bắc Kinh ngỡ ngàng thấy rằng Đức Giáo Hoàng có hết mọi giám mục, và do đó, họ không có gì để mặc cả. Sự kiện này khiến Trung Hoa suy nghĩ lại toàn bộ vấn đề Vatican.

Việc hiểu ra rằng vấn đề hợp nhất giữa các giám mục và Đức Giáo Hoàng không thể nào vượt qua, và sự kiện Đảng Cộng Sản là một đảng vô thần dần dần đã dẫn tới nguyên tắc thừa nhận thẩm quyền tôn giáo của Đức Giáo Hoàng tại Trung Hoa.

Ở đây, vấn đề Trung Hoa đụng đến một việc chập mạch khác về quyền lực của Đức Giáo Hoàng và của Giáo Hội. Nếu quyền lực của Đức Giáo Hoàng đối với các giám mục, và đối với Giáo Hội, yếu ớt, như ta thấy ở phần đầu, thì tại sao Đức Giáo Hoàng lại nhấn mạnh đến thế và một cách chi tiết đến thế về việc chọn lựa các giám mục? Nếu quyền lực của Đức Giáo Hoàng và của Giáo Hội đối với các giám mục mạnh mẽ, thì tại sao Đức Giáo Hoàng không lập lại trật tự và áp đặt cuộc đối thoại của ngài với Trung Hoa lên nhiều phần tử Công Giáo “lang bang” nhưng ngày nào cũng hoạt động tích cực trong các bài vở chống Trung Hoa?

Lẽ dĩ nhiên, Trung Hoa không trực tiếp nêu ra các câu hỏi trên, nhưng những câu hỏi này, về khách quan, rất khó tìm được câu trả lời từ Giáo Hội vì chúng không thuộc “trật tự chính trị với chính trị” ( “political-political order”), nhưng chúng được khoác cho nhiều khía cạnh tôn giáo đặc thù, vốn xa lạ trong một thế giới như Trung Hoa, một thế giới vốn không liên hệ đến truyền thống Kitô Giáo. Khi không có các câu trả lời đầy đủ và dễ hiểu từ Tòa Thánh về vấn đề này, Bắc Kinh đòi cho được nhiều bảo đảm hơn về hành chánh đối với lãnh thổ mình từ phía sinh hoạt của Giáo Hội. Nhưng việc này tạo ra nhiều vấn đề và chia rẽ cho Giáo Hội trong đó vấn đề Trung Hoa tuy quan trọng nhưng cũng chỉ là một phần của một vấn đề lớn hơn nhiều cần được lưu ý.

Nền chính trị vì chính trị (Political politics) và Luther Quốc Tế thời nay? [1]

Ở đây, từ các chập mạch giữa chính trị và tôn giáo, ta chuyển qua các vấn đề chủ yếu có tính chính trị thực sự. Trong khi trong quá khứ, các cuộc nói chuyện giữa Trung Hoa và Tòa Thánh trước đây đã diễn ra trong một bầu khí quốc tế hòa bình quanh Trung Hoa và bên trong Tòa Thánh, nhưng cả hai khía cạnh này đã thay đổi trong những năm gần đây.

Hiện đang có sự căng thẳng quốc tế gia tăng đối với Trung Hoa. Nhiều giới trong thế giới Tây Phương sợ rằng việc bình thường hóa các mối liên hệ giữa Tòa Thánh và Trung Hoa sẽ gây trở ngại cho việc đối đầu cứng rắn được một số nước muốn có hay ước ao muốn có, đối với Bắc Kinh. Ngoài ra, dù Giáo Hội, trong căn bản, vốn hợp nhất trong mấy thập niên qua, nhưng ngày nay, các vấn đề luân lý đang xé nát Giáo Hội. Các vấn đề này tập trung vào các vấn nạn luân lý mà đa số người thời nay coi là lỗi thời và khó hiểu. Việc cho phép các người ly dị rước lễ và việc khoan dung nhiều hơn đối với người đồng tính là những cởi mở phản ảnh sâu xa xã hội hiện đại. Nhưng chúng cũng là những vấn đề đã và đang có nguy cơ phân hóa các thực hành và cách nhìn của nền chính thống cổ xưa của Giáo Hội.

Đàng khác, vấn đề Trung Hoa hoàn toàn trái ngược với các vấn đề luân lý.

Tầm quan trọng về tôn giáo và chính trị trong vụ việc Trung Hoa khá tinh tế, tế nhị, và trên thực tế, khó hiểu đối với đa số công luận vốn coi Trung Hoa càng ngày càng là một quái vật cộng sản toàn trị, một định nghĩa đúng sách vở bi hài kịch, dù thế nào cũng rất thích hợp với tình hình giữa Trung Hoa và các nước khác trên thế giới vào ngay lúc này. Nhưng nó lại quan trọng và có tính nền tảng đối với một nhóm nhỏ người Công Giáo coi viễn tượng tương lai như là điều căn bản để Giáo Hội có một chỗ đứng trên thế giới trong các thập niên hay thế kỷ sắp tới. Bởi thế, trong tình huống này, thật dễ dàng cho một số người chống đối sử dụng lập trường của Đức Giáo Hoàng về Trung Hoa (khó hiểu đối với đại chúng) để chứng minh cả việc ngài thất bại và sai lầm trong các vấn đề luân lý (cũng khó hiểu đối với đại chúng).



Trong khía cạnh này, toàn bộ vụ việc Trung Hoa và luân lý đã vượt quá các vấn đề tôn giáo. Năm 1517, lúc Luther công bố các luận đề thời danh của ông chống lại Rôma, có thể ông đã được tái nhập và thánh hóa như đã xẩy ra với Thánh Phanxicô trước đó 3 thế kỷ. Hoặc đơn giản hơn, ông có thể bị đè bẹp và cho ra rìa như những người thuộc phái Waldo, gần cùng thời với Thánh Phanxicô Assisi. Việc Luther trở thành cha đẻ của phong trào cải cách Thệ Phản, “người đỡ đẻ” cho cuộc phân ly chính trị và văn hóa vĩ đại giữa bắc và Nam Âu Châu, là nhờ một vấn đề hoàn toàn có tính chính trị. Các ông hoàng Đức muốn có sự tự trị và độc lập, thoát khỏi hoàng đế của nhà Habsburg. Luther cung cấp cho họ một lá cờ và một ý thức hệ. Nghĩa là, nếu không có các tham vọng chính trị của các ông hoàng Đức, Giáo Hội đã không bị phân chia. Nói cách khác, ngày nay, vấn đề của Giáo Hội có lẽ không phải là vấn đề tôn giáo (thảo luận với Trung Hoa về việc bổ nhiệm giám mục cách nào và khi nào) nhưng là vấn đề chính trị: làm thế nào giữ được sự hợp nhất cho một giáo hội trong đó nhiều tín hữu tỏ ra thù nghịch đối với Bắc Kinh trong bầu khí nói chung là kình chống giữa Tây Phương và Trung Hoa.

Ở đây, một lần nữa, ta lại trở lại với câu hỏi dành cho Bắc Kinh. Nếu Giáo Hội tiếp tục hợp nhất và duy trì được mối liên hệ với các người bảo thủ Hoa Kỳ, những người muốn gây chiến với Trung Hoa và không muốn các cải tổ luân lý của Đức Giáo Hoàng) thì Giáo Hội có một giá trị đối với Trung Hoa, là nước hiện đang muốn tránh chiến tranh với Tây Phương. Đàng khác, nếu Giáo Hội không chung đường với các người bảo thủ Hoa Kỳ về Trung Hoa, thì giá trị của Giáo Hội đối với Trung Hoa sẽ giảm đi. Nghĩa là, Trung Hoa sẽ ráng nói chuyện với các người bảo thủ Hoa Kỳ mà không cần chi tới vai trò của Giáo Hội. Nên Giáo Hội phải tránh, đừng bước vào một tình huống trong đó, càng nói với Bắc Kinh càng tách xa Hoa Kỳ.

Nói cách khác, vấn đề tôn giáo của nền luân lý mới và cách tiếp cận mới với Trung Hoa có lẽ chỉ có thể giải quyết bằng chính trị. Nếu Giáo Hội có thể lo liệu để trở thành cây cầu chính trị giữa Trung Hoa và phần còn lại của thế giới, không những có thể giải quyết nhiều vấn đề nội bộ mà còn tạo được một không gian mênh mông trong tương lai cho vai trò của mình trong các thiên niên kỷ sắp tới. Nếu Giáo Hội thất bại trong việc làm môi giới chính trị cao cấp này, thì Giáo Hội có nguy cơ xé nát hoặt ít nhất giảm tầm quan trọng một cách nhân thừa. Đối với Giáo Hội, nguy cơ này ngàn lần, triệu lần so với các tai tiếng giáo sĩ lạm dụng tình dục. Kết quả của việc quản trị tốt vụ việc này cũng lớn lao không kém. Dĩ nhiên, đây là chính trị, một điều Giáo Hội vẫn coi là ít quan hệ, vì quen sống và có thể sống nhờ một điều khác hẳn. Nhưng đây là một không gian có thực chất, rất thời sự mà ta nên xem xét.

[1] Xem Giancarlo Pani, Paolo, Agostino, Lutero: alle origini del mondo moderno, Rubettino, Soveria Mannelli 2005.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Thánh thi Te Deum -Lạy Thiên Chúa- được sử dụng như thế nào?
Nguyễn Trọng Đa
08:53 17/07/2018
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Đâu là hạn chế việc sử dụng thánh thi Te Deum (Lạy Thiên Chúa), là do luật hay do truyền thống? Thí dụ, Thánh thi này là một phần của việc tấn phong một Giám mục, vì vậy con tin rằng thật là không thích hợp để hát thánh thi này cho lễ truyền chức linh mục hay phó tế. Thưa cha, liệu có là thích hợp để hát thánh thi này sau Hiệp lễ lễ Vọng Phục Sinh hoặc Chúa Nhật Phục Sinh không? Lễ Hiện Xuống không? Một Chúa Nhật trong Múa Thường niên chăng? - S. M., Evansville, Indiana, Hoa Kỳ.


Đáp: Thánh thi Te Deum (Lạy Thiên Chúa), đôi khi được gọi một cách không chuẩn là Thánh thi Ambrôxiô, là một bài thánh ca ca ngợi Chúa thời cổ xưa, được sáng tác bằng văn xuôi có nhịp điệu. Thánh thi được biết đến với các từ ngữ mở đầu của nó: "Te Deum laudamus” (Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng).

Mặc dù theo truyền thống thánh thi này được gán cho các thánh Ambrôxiô và thánh Âutinh là tác giả, ứng viên khả dĩ nhất cho quyền tác giả là Thánh Giám mục Nicetus Giáo phận Remesiana (333-414). Giáo phận này ở Dacia Mediterranea của tình Rôma xưa, nay là Serbia.

Thánh thi trên được quy định trước hết trong Giờ Kinh Sách của các ngày lễ trọng, và thường được sử dụng trong các dịp trang trọng khác có tính cách đạo và đời.

Trong Thần vụ, thánh thi Te Deum được hát hoặc đọc sau bài đọc thứ hai và câu xướng đáp, của Giờ Kinh Sách, trong các Chúa Nhật ngoài Mùa Cháy, các ngày trong Tuần Bát Nhật Phục sinh và Giáng sinh, và các ngày lễ trọng (xem số 68 của Văn kiện trình bày và quy định Các Giờ Kinh Phụng vụ).

Số 594 của Sách Lễ nghi Giám mục (the Ceremonial of Bishops) mô tả một cách sử dụng có thể có của thánh thi Te Deum:

“Khi kết thúc lời nguyện sau hiệp lễ, thánh thi Te Deum được hát, hoặc một bài ca khác tương tự với nó, tùy thuộc vào tập tục địa phương. Trong khi đó, vị Giám mục mới tấn phong, sau khi đội mũ Giám mục và cầm gậy, được hai Giám mục phụ phong dẫn đưởng, đi qua nhà thờ và ban phép lành cho cộng đoàn”.

Sách Liệt Kê Các Ân Xá (Enchiridion of Indulgences) ban tiểu xá cho tín hữu đọc thánh thi Te Deum, nhưng cũng ban:

“§ 1. Một đại xá cho tín hữu, khi đang ở trong nhà thờ hay nhà nguyện, tham gia vào việc đọc hay hát trọng thể:

“1. thánh thi Veni Creator Spiritus (Xin Thánh Linh Thiên Chúa thương đến thăm)… vào ngày đầu năm mới, xin Chúa phù hộ cho cả năm sắp tới…

“2. thánh thi Te Deum, vào ngày cuối năm, tạ ơn Chúa vì bao ân huệ nhận được trong suốt cả năm qua”.

Một thánh thi Te Deum cũng có thể đề cập đến một nghi thức ngắn của việc tạ ơn dựa trên bài ca. Ngoài thánh thi Te Deum hát ngày cuối năm, nó có thể được sử dụng vào các dịp khác có tính cách đạo và đời, phù hợp với phong tục địa phương.

Trong khi thánh thi này được quy định hoặc khuyến nghị trong các dịp được đề cập ở trên, nó không được quy định cao đến nỗi bị cấm vào các dịp khác, trừ khi tập tục địa phương đặt ra các hạn chế như thế.

Sau khi nói như vậy, tôi sẽ đồng ý rằng thật là không thích hợp để sử dụng nó theo cách tương tự cho lễ tấn phong Giám mục, và cho lễ truyền chức linh mục và phó tế. Việc sử dụng thánh thi này trong lễ tấn phong Giám mục được gắn kết với sứ vụ mục tử của Giám mục, như người chăn chiên chúc lành cho các tín hữu. Ngoài ra, một tân linh mục hoặc thầy phó tế mới thường sẽ không ban phép lành trong nghi lễ truyền chức, vì Giám mục đang nhất thiết có mặt ở đó.

Tuy nhiên, thánh thi này sẽ không bị cấm, như một hành động tạ ơn vào cuối Thánh Lễ trọng thể đầu tiên. Nó có thể được sử dụng trong các dịp tôn giáo trọng thể khác, thí dụ như tạ ơn Chúa vì đã bầu một Giáo hoàng mới, việc bổ nhiệm một Giám mục mới, dịp phong chân phước hay phong thánh của một đại diện giáo phận, và vào các ngày kỷ niệm có ý nghĩa.

Tôi sẽ không xem xét liệu nó là phù hợp vào các lễ trọng và lễ kính chăng, chẳng hạn lễ Hiện Xuống, mà trong đó nó đã được đưa vào như một phần của Thần vụ, đặc biệt nếu nó kéo dài không cần thiết một buổi lễ đã dài sẵn.

Có nhiều trường hợp khi thánh thi này được sử dụng cho các sự kiện dân sự. Điều này xảy ra trước hết ở các nước Công Giáo, nhưng đôi khi ở các nước Tin Lành với chế độ quân chủ, như Thụy Điển. Thí dụ, ở Đại công quốc Luxembourg truyền thống Công Giáo, một buổi lễ được cử hành hàng năm để mừng sinh nhật chính thức của đại công tước. Trong nhiều quốc gia Mỹ Latinh, một tân tổng thống nhậm chức, thường tham dự hát thánh thi Te Deum tại nhà thờ chánh tòa của thủ đô, cùng với các Giám mục của đất nước.

Có một câu chuyện về cuộc tranh luận giữa các Kinh sĩ của Nhà thờ Đức Bà ở Paris. Vào tháng 8-1944, tướng Charles De Gaulle tiến vào Paris mới được giải phóng và muốn viếng thăm nhà thờ chánh tòa. Lúc đầu các Kinh sĩ dự trù hát thánh thi Te Deum trước sự hiện diện của ông.

Tuy nhiên, một số giám chức bối rối nêu ra rằng, theo truyền thống, chỉ có vị quốc trưởng hợp pháp mới có thể được tôn vinh bởi thánh thi Te Deum, và thật chưa rõ ràng là tướng de Gaulle, đang là chủ tịch của chính phủ lâm thời của Cộng hòa Pháp, có là người đứng đầu nhà nước hợp pháp hay không. Cuối cùng, chuyến thăm của vị tướng này đã được tôn vinh bởi các kinh sĩ hát thánh ca Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa). (Zenit.org 17-7-2018)

Nguyễn Trọng Đa
 
Mẹ La Vang: Mẹ của người bị áp bức.
Cây Ngô Đồng
16:06 17/07/2018
Do lòng thành kính và yêu mến, con cái của Đức Maria qua các thời đại đã tặng cho Mẹ rất nhiều danh hiệu như chúng ta thấy liệt kê trong Kinh Cầu Đức Bà. Mỗi danh hiệu mô tả một nhân đức của Mẹ như “Đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh”; hay một tước hiệu như “Mẹ Chúa Trời”; hoặc nói lên lòng yêu thương của người mẹ như “Yên ủi kẻ âu lo”.

Ngoài ra Đức Maria còn có nhiều danh hiệu khác, được gọi theo tên của nơi Mẹ hiện ra. Nổi tiếng nhất chúng ta có Đức Mẹ Lộ Đức ở Pháp, Đức Mẹ Fatima ở Bồ, Đức Mẹ Guadalupe ở Mễ, Đức Mẹ Medjugorje ở Bosnia, và.. . Đức Mẹ La Vang của Việt Nam v v.

Ở mỗi nơi hiện ra dù được Vatican công nhận hay không, thường thường Đức Maria gởi cho con cái một sứ điệp tinh thần như xác nhận tính không mắc tội tổ tông của Mẹ ở Lộ Đức, sứ điệp về chuỗi mân côi và sám hối ở Fatima, sứ điệp cầu nguyện, ăn chay và sám hối ở Medjurgoje v. v. Nhưng ở La Vang thì khác. Đức Maria tới La Vang không mang theo một sứ điệp nào. Mẹ chỉ mang tình thương.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Sự kiện La Vang xảy ra năm 1798 tại vùng rừng núi phía tây Quảng Trị, bây giờ thuộc huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Đức Mẹ hiện ra trong bối cảnh một cuộc cấm đạo nghiệt ngã dưới thời vua Cảnh Thịnh của nhà Tây Sơn. Cuộc cấm đạo rất tàn bạo và ác liệt, giáo dân phải bỏ nhà cửa ruộng vườn chạy vào rừng sâu hoặc nơi xa xôi hoang vu để lánh nạn. Họ thường tụ tập quây quần với nhau để nương tựa nhau. Họ thường đặt tên cho các địa điểm mới tới bằng một cái tên đánh lạc hướng quan quân mà chỉ người trong cuộc mới biết đó là nơi dung thân của những người chạy trốn. Người ngoài nghe qua tưởng đó là tên người chứ không phải là một địa danh. Ở phía bắc, những nơi đó thường có cái tên bắt đầu với chữ “Kẻ” như Kẻ Sặt, Kẻ Sở.. . Trong nam tên gọi thường có chữ “Cái” như Cái Nhum, Cái Mơn, Cái Bè.. . Động Phong Nha nổi tiếng ở Quảng Bình chỉ mới được khám phá cách đây trên 10 năm vì nó quá hoang vu khuất nẻo. Nhưng giáo dân đã chạy về đó ẩn náu trước đây cả mấy trăm năm trong thời cấm đạo và để lại một địa danh mập mờ Kẻ Bàng. Đi sâu hơn nữa vào rừng núi khoảng 20 cây số hướng tây nam của Phong Nha, ta có Động Thiên Đường, mà cư dân trong vùng hiện nay hầu hết là Công Giáo thuộc hai ba xứ đạo với nhà thờ có tháp nhọn cao chót vót. Họ là con cháu của các anh hùng tử đạo thời xưa trôi dạt về đó ẩn náu.

Vua Quang Trung mất năm 1792, trước sự kiện La Vang sáu năm. Con thứ là Thái Tử Nguyễn Quang Toản lên ngôi mới 10 tuổi, lấy hiệu là Cảnh Thịnh. Thái Sư Bùi Đắc Tuyên, cậu của vua, giúp vua trẻ trị vì, nắm hết quyền hành trong tay.

Thông thường ngược đãi hay bách hại tôn giáo xảy từ hai nguồn chính: hoặc do quần chúng hoặc do chính quyền. Kỳ thị và ngược đãi tôn giáo trong quần chúng xảy ra do đố kỵ về văn hoá tập tục hoặc do cuồng tín, quá khích. Hiện nay cảnh dân đàn áp dân vì lý do tôn giáo vẫn xảy ra thường xuyên ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại các nước Hồi Giáo và Ấn giáo cực đoan. Ở đó nhiều tín hữu Ky Tô và các tôn giáo thiểu số khác bị người theo đạo đa số cáo buộc xúc phạm tôn giáo của họ và giết chết. Đó là sự đàn áp của một đa số áp đảo trên một thiểu số yếu ớt. Nhưng nếu bên bị áp bức có lực lượng tương đương với bên đàn áp thì tình thế có thể biến thành xung đột võ trang như cảnh chém giết đẫm máu giữa người Miến Điện Phật Giáo và người thiểu số Rhingya theo Hồi Giáo cách đây mấy năm và hiện vẫn còn âm ỷ; hay xung đột võ trang giữa người đạo Ky Tô và đạo Hồi ở Cộng Hòa Trung Phi những năm 2012-2014 v.v...

Đàn áp tôn giáo trên bình diện nhà nước là do chính sách của chính quyền, nhất là trong các chế độ độc tài. Nhà nước đàn áp một tôn giáo hay mọi tôn giáo trong nước vì nhà nước thấy tôn giáo đe dọa quyền lực của mình. Nổi tiếng nhất là cuộc cấm đạo Công Giáo 300 năm của đế quốc La Mã và các cuộc cấm đạo sau này của các vua chúa ở nhiều nước trên thế giới như thời Cảnh Thịnh,Minh Mạng ở VN.

Đền Đức Mẹ La Vang ngày xưa
Ngay từ khi lập nghiệp, nhà Tây Sơn từ Nguyễn Nhạc đến Nguyễn Huệ nói chung không chủ trương cấm đạo Công Giáo. Đôi khi họ còn có cái nhìn tích cực đối với tôn giáo này. Năm 1779 Nguyễn Nhạc gửi cho cha D’Ars, tức thày Thiện, một thẻ bài “ được tự do giảng đạo”. Ông còn khen người Công Giáo biết sống hoà thuận không tranh chấp. Năm 1783 khi quân Tây Sơn vào đánh Nguyễn Ánh ở Gia Định lần thứ ba, bắt hai linh mục dòng Phan Xi Cô vì nghi các ông theo Nguyễn Ánh. Nhưng sau khi hỏi cung điều tra nhà chửc trách đã thả hai ông vì “thấy họ hoàn toàn không có gì đáng nghi ngờ. Còn giáo dân, họ được tự do giữ đạo nếu đó là đạo thật. Còn nếu đó là đạo lừa dối, chúng tôi sẽ không dung thứ.(Theo Học Viện Đa Minh; Những Văn Kiện Cấm Đạo Của Nhà Tây Sơn)

Có một điểm cần nêu rõ ở đây là trong lần tiến đánh Gia Định lần thứ hai năm 1782, quân Tây Sơn đã phải đương đầu với lực lượng thủy quân hùng mạnh hơn của Nguyễn Ánh vì Ánh có một đơn vị chiến thuyền tây phương do sự trợ giúp của ông giám mục thực dân Pigneau de Béhaine (tên Việt Nam là Bá Đa Lộc thường gọi là Cha Cả có mộ là lăng Cha Cả gần phi trường Tân Sơn Nhứt) và nhà buôn thích mạo hiểm trở thành lính đánh thuê Manuel. Đội thuyền này do chính Manuel chỉ huy nhưng đã bị quân Tây Sơn tiêu diệt ở sông Vàm Cỏ và Manuel tử trận. Sau đó Pigneau tiếp tục giúp đỡ Nguyễn Ánh tận lực về kỹ thuật và tài chánh. Thế nhưng khi hai linh nục Phan Xi Cô bị Tây Sơn bắt trong cuộc chinh phạt Gia Định lần thứ ba năm 1783, hai ông vẫn được xét xử công tâm, không bị thiên kiến vơ đũa cả nắm. So với cách Tây Sơn tàn sát người Minh Hương ở Cù Lao Phố, Biên Hòa; Chợ Lớn và Mỹ Tho vì người Hoa phò Nguyễn Ánh thì Tây Sơn đối xử với người Công Giáo quả là phân minh và tiến bộ.

Nhưng chính sách đúng đắn và tiến bộ lúc đầu của nhà Tây Sơn chẳng bao lâu sau đã biến thành đàn áp khởi đầu với sắc lệnh cấm đạo năm 1783của Nguyễn Nhạc và sắc lệnh bắt giáo sĩ thừa sai nước ngoài năm 1790 của Nguyễn Huệ. Đến thời Nguyễn Quang Toản thì việc đàn áp càng gay gắt khiến giáo dân phải trốn tránh qua địa phương khác. Một số chạy lên rừng ẩn náu.

Lý do thường được nêu ra là nhà vua sợ rằng người Công Giáo sẽ theo Giám Mục Pigneau de Béhaine ủng hộ Nguyễn Ánh và chống lại Tây Sơn. Thực ra anh em nhà Tây Sơn không sợ Nguyễn Ánh mà còn phạm sai lầm chiến lược là coi thường Nguyễn Ánh, không cho đó là lực lượng đối kháng nguy hiểm cần phái tiêu diệt để trừ hậu họa. Có lẽ vì Nguyễn Huệ thấy ba lần ông vào dẹp loạn là ba lần quân Nguyễn thua chạy tả tơi. Do đó anh em Tây Sơn đã chú tâm vào việc tiêu diệt lẫn nhau hơn là tiêu diệt Nguyễn Ánh.

Năm 1787 Nguyễn Huệ, vì mối hiềm khích anh em phát sinh do nghi kỵ và tham vọng quyền lực, đã đưa 60,000 quân từ Phú Xuân vào đánh và vây khốn Nguyễn Nhạc ở thành Quy Nhơn đến nỗi Nhạc phải lên thành khóc xin Huệ rút quân. Tháng 9 năm 1792 Nguyễn Huệ chết. Nguyễn Nhạc ra viếng tang nhưng con của Nguyễn Huệ là vua Quang Toản cho quân ngăn chặn không cho Nhạc đến Phú Xuân. Sử không nói lý do, nhưng người ta nghĩ có thể Quang Toản, đúng hơn là nhiếp chính Bùi Đắc Tuyên, sợ Nguyễn Nhạc lợi dụng tình huống tang gia bối rối sẽ đánh cướp Phú Xuân, hoặc dò la tình thế để tính chuyện thôn tính sau này.

Năm sau 1793 Nguyễn Ánh từ trong Nam kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc cự không nổi phải cầu cứu cháu là Quang Toản. Toản cử Ngô Văn Sở và Phạm Công Hưng đem quân vào giải nguy. Nguyễn Ánh thua bỏ chạy về Nam. Theo chiến lược quân sự thông thường thì lẽ ra bác cháu phải hợp tác với nhau truy đuổi để tiêu diệt kẻ thù chung, trừ khử cái họa về sau. Đằng này quân của Quang Toản nhân dịp chiếm luôn thành Quy Nhơn, khiến Nguyễn Nhạc, sẵn đang có bạo bịnh, uất ức thổ huyết mà chết.

Đàng khác số người theo đạo Công Giáo lúc đó không đáng kể, so với toàn dân số, không thể là một đe dọa cho nhà vua được. Trong sắc chỉ cấm đạo năm 1783 Nguyễn Nhạc không hề đề cập tới vấn đề chính trị, chỉ nói về lý do văn hóa, tập tục và đạo lý, khác hẳn với nguyên nhân đàn áp thời nhà Nguyễn và Cộng Sản.

Vậy lý do chính của việc cấm đạo thời Tây Sơn phải nói là trên bề mặt do khác biệt về văn hóa, tập tục và đạo lý. Chẳng hạn việc thờ kính tổ tiên. Người Công Giáo vẫn tôn kính, tưởng nhớ tổ tiên, nhưng không thờ lạy, cúng bái tổ tiên. Vì không thờ cúng tổ tiên họ bị coi là bất hiếu và mất gốc và đạo Công Giáo bị coi là tà đạo. Những kẻ hoạt đầu đã chính trị hóa vấn đề để trục lợi.

Dưới thời Quang Toản cấm đạo có thể nói là một chiến dịch chính trị của nhiếp chính Bùi Đắc Tuyên. Ông này là một gian thần. Lợi dụng quyền nhiếp chính ông thu tóm quyền lực trong tay,mưu đồ soán đoạt ngôi vua. Trong triều đình ông ám hại các tướng sĩ không ăn cánh. Ngoài xã hội ông mượn danh vua Cảnh Thịnh ra hai sắc chỉ cấm đạo Công Giáo ngày 07/01/1795 và 24/01/1975. Sắc chỉ thứ nhất nêu chuyện củng cố đạo Nho và sắc chỉ thứ hai phục hưng đạo Phật và đạo thờ Thần làm cớ diệt Công Giáo. Thưc ra đó chỉ là ngụy tạo chính nghĩa để chiêu dụ dân chúng bởi chính bản thân ông sống rất phóng đãng trác táng thì lấy gì để phục hưng cương thường đạo lý. Cũng giống như các quan chức cộng sản bây giờ tha hóa và nhũng lạm đến tàn ác nhưng vẫn lớn giọng dạy dân phải liêm khiết đạo đức. Bởi vì cấm đạo là một phần trong mưu đồ đen tối của Bùi Đắc Tuyên, khi ông bị Vũ Văn Dũng trừ khử rồi, vua Cảnh Thịnh không ra thêm sắc chỉ cấm đạo nào nứa.

MẸ CỦA NGƯỜI BỊ ÁP BỨC

Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ La Vang đang được xây cất
Khi tôi vượt biên vào giữa năm 1989, thì các trại tị nạn ở Thái Lan, Singapore và Mã Lai đã đóng cửa không nhận người tị nạn nữa. Thuyền của chúng tôi được tàu tuần duyên của Mã Lai vớt lên bờ. Nhưng sau 10 ngày họ cho chúng tôi lên một con thuyền đánh cá ọp ẹp, kéo ra khơi, cắt cáp và ra hiệu cho chúng tôi đi xuống Nam Dương. Buổi chiều ngày thứ hai tàu chết máy cách một đảo nhỏ chừng 100 thước. Trời bắt đầu nổi dông, mây kéo đen trời, gió giựt mạnh. Thuyền bắt đầu bị sóng xô đẩy nghiêng qua nghiêng lại. Chúng tôi hết sức lo lắng, tìm đủ cách nhưng không sao nhúc nhích được con thuyền. Rất may cho chúng tôi là dân đảo thấy bão lớn đang tới mà thuyền của chúng tôi không chịu vào bãi. Họ nghĩ là chúng tôi bị nạn nên huy động nhiều thuyền con ra đón chúng tôi vào bờ. Chiều tối thì bão lớn ập tới. Sáng hôm sau ra coi thì thuyền đã bị lật nằm nghiêng một bên. Nhờ gần bờ nước nông nên thuyền không bị lật úp. Hai tuần sau tàu Cao Ủy Tị Nạn đón chúng tôi về trại Galang. Lên đảo tôi thấy tượng đài Đức Mẹ La Vang đứng trên con thuyền vượt biên. Tôi bật khóc và nhiều người đã khóc. Tôi chợt hiểu rằng Đức Mẹ La Vang đã cứu chúng tôi

Tôi vẫn có lòng sùng kính Đức Mẹ từ thủa bé do thói quen gia đình lần chuỗi cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Điều nữa là khi mẹ tôi mất lúc tôi chín tuổi có một người nào đó nói với tôi rằng tôi mất mẹ nhưng lại có một bà mẹ khác rất quyền năng ở trên trời là Đức Mẹ Maria. Vậy khi nào nhớ mẹ hoặc cần mẹ giúp đỡ thì hãy cầu xin với Đức Mẹ Maria. Và tôi đã làm như vậy suốt đời tôi. Đức Maria đã phù hộ tôi vượt qua rất nhiều khó khăn, có trường hợp tưởng chừng không lối thoát, nhất là thời gian 13 năm trong nhà tù cộng sản sau 1975. Bây giờ nghĩ lại tôi không biết làm sao vào những lúc đó tôi có được ý tưởng như vậy, nếu không có ơn trên.

Đầu năm 1979 ở trại tù Số 5 Thanh Hóa sau cuộc tuyệt thực toàn trại đòi cải thiện chế độ lao tù, người quản giáo buồng giam chúng tôi phát giấy bắt chúng tôi phải làm đơn xin ăn mới cho ăn lại. Lúc đó tôi nghĩ: xin ăn.. . nhục thật. Mà tôi cũng đói thật! Đàng khác tôi nghĩ: bắt xin ăn không phải chỉ để làm nhục mà còn để bẻ gãy ý chí của chúng tôi. Nếu chúng tôi khuất phục, không biết họ sẽ đẩy chúng tôi tới vực thẳm nào nữa, bởi vì họ đã đè bẹp được chúng tôi rồi thì họ muốn làm gì chúng tôi là họ làm.

Nhưng tôi không biết phải làm gì, nhất là mình đang ở thế yếu. Tôi đọc thầm kinh Kính Mừng, xin Chúa và Đức Mẹ giúp tôi. Anh em bắt đầu nhận giấy bút để viết. Tôi thấy rõ nét băn khoăn dằn vặt trên mặt họ. Cũng là băn khoăn trăn trở trong lòng tôi. Bỗng một ý tưởng đến trong đầu. Tôi e ngại vì sợ hậu quả. Nhưng ý tưởng như càng thôi thúc vì đó là điều hợp lý. Đó là là lẽ phải. Ai cũng sợ lẽ phải. Và tôi tin tưởng anh em sẽ ủng hộ tôi như đã đồng ý với tôi là buồng chúng tôi phải tham gia tuyệt thực với các buồng khác vào đêm bắt đầu. Tôi quyết định nói lên. Tôi nói với người quản giáo, “Các ông đưa chúng tôi vào đây. Các ông có trách nhiệm phải nuôi ăn chúng tôi. Chúng tôi không xin vào đây. Chúng tôi không phải xin ăn. Nuôi ăn chúng tôi là trách nhiệm của các ông. Ăn hay không là quyền của chúng tôi.”

Anh em không làm đơn. Quản giáo đứng nhìn một lúc rồi bỏ đi. Lát sau trở lại anh ta kêu chúng tôi ra ngoài sân tập họp, và ngồi xuống. Rồi anh ta nói ai muốn xin ăn thì đứng qua một bên. Tôi nhì quanh quẩn thấy còn mình tôi ngồi lại, Tôi lại cầu nguyện với Đức Mẹ. Viên quản giáo nhìn tôi mặt đỏ gay, nhưng không nói gì. Có lẽ anh ta đang bối rối không biết xử trí thế nào. Trại đã lùi một bước rồi là không đòi phải viết đơn nữa. Nhưng vẫn bắt xin ăn. Tôi không biết tình thế sẽ ra sao. Tôi chỉ biết tôi không thể xin ăn được. Tôi nghĩ chắc họ sẽ đưa tôi đi cùm. Trong lúc căng thẳng đó bỗng một anh bạn tới xốc tôi dậy. Tôi chống cự, và vì sau tuyệt thực ai cũng yếu, cả hai ngã lăn kềnh ra sân. Mấy người nữa xúm vào khiêng tôi nhập chung với anh em. Viên quản giáo kêu moi người vào buồng và sau đó họ trói giải tôi qua một phân trại khác giam chung với một số anh em đã bị bắt đi trước đó.

Trước đây Đức Mẹ đối với tôi là một Đức Mẹ chung chung. Tôi biết các danh xưng Đức Me Fatima, Đức Me Lộ Đức, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.. . nhưng không hiểu sự phân biệt và cũng chẳng để ý vì tôi tiếp nhận không thắc mắc từ thuở nhỏ. Đức Mẹ La Vang cũng chỉ là một danh xưng khác.

Nhưng từ ngày vượt biên Đức Mẹ chung chung đã trở thành Đức Mẹ La Vang của tôi. Trước hết là do khuynh hướng tình cảm chung của con người đối với mẹ của mình. Con cái luôn luôn muốn ở gần mẹ vì con người luôn luôn cần tình thương không nhất thiết phải là lúc gặp khó khăn. Nó giống như em bé đang chơi với bạn, khi cảm thấy cần tình thương, nó bỏ đó chạy tới mẹ, kéo áo bà và người mẹ hiểu ý cúi xuống ôm con và hôn. Em bé thấy hạnh phúc và trở lại chơi với bạn. Nhu cầu gần gũi tình cảm này đã làm nảy sinh việc địa phương hóa Đức Mẹ thành những Đức Mẹ Việt Nam, Trung Hoa, Phi Châu, Nam Mỹ.. . Đức Mẹ đã được địa phương hóa toàn diện trong y phục, nét mặt và cả màu da. Tôi vẫn thích nhìn Đức Mẹ La Vang dịu hiền, có gương mặt VN mũi thấp, trong tà áo tứ thân và khăn mỏ quạ.

Đối với người VN Công Giáo Đức Mẹ La Vang là tiêu biểu cho VN như Đức Mẹ Guadalupe đối với người Mễ Tây Cơ. Nhất là với người VN Công Giáo xa quê hương, thấy Đức Mẹ La Vang là thấy quê hương và đỡ nhớ nhà. Cho nên người VN ngoài nước sùng kính Đức Mẹ La Vang hơn người trong nước. Người đi xa mới nhớ nhà. Ở đâu có cộng đồng VN Công Giáo ở đó có nhà thờ hoặc tượng đài Đức Mẹ La Vang. Ở Mỹ có 19 xứ La Vang, Phi Luật Tân có ba. Canada có một. Tôi không có số liệu về Châu Âu và Úc. Đức Mẹ La Vang đi theo cả với các anh chị em lao động xuất khẩu ở Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan.. .

Với người vượt biên tị nạn, Đức Mẹ La Vang có ý nghĩa đặc biệt. Lễ Giáng Sinh 1989 ở trại tị nạn Galang, Nam Dương tôi băn khoăn không biết nói gì với mấy em minors (trẻ em vượt biên không có người thân lớn tuổi đi theo) đang khóc vì buồn tủi, bơ vơ nhớ nhà. Tôi phải nói gì để các em thấy Chúa sinh ra có dính dáng tới các em chứ không phải chỉ là mấy đèn ngôi sao, cờ hoa trưng bày nhộn nhịp càng làm các em nhớ nhà. Tôi chợt nhận ra rằng Đức Mẹ, Thánh Giu Se và Chúa Giê Su cũng đã trải qua thân phận tị nạn như chúng tôi nên rất hiễu và thông cảm hoàn cảnh của chúng tôi. Các ngài là những nạn nhân bị đàn áp phải vượt biên đầu tiên của kỷ nguyên này. Chúa Giê Su lúc đó tối đa chỉ mới hai tuổi.bởi vì Hê Rôđ Cả (Herod the Great, cha của Hê Rôđ thời Chúa Giê Su) ra lệnh giết hết trẻ em từ hai tuổi trở xuống trong vùng Giê Ru Sa Lem để loại bỏ Chúa khỏi mặt đất vì ông nghĩ em bé Giê Su sẽ là mối nguy cho vương quyền của ông. Giết lầm còn hơn bỏ sót.

Mức độ tàn sát con nít của Hê Rôđ cho thấy cuộc đàn áp rất triệt để và bạo tàn. Vì thế Thánh Giu Se phải đưa gia đình chạy xuống tận Ai Cập xa xôi. Syria và Jordan lúc đó cũng là những tỉnh thuộc địa của đế quốc La Mã và gần Do Thái hơn nhưng ông không tới đó bởi vì ông sợ thế lực rất lớn của Hê Rôđ Cả trong vùng. Hê Rôđ là vua chư hầu nhưng ông là bạn của hoàng đế La Mã và có quốc tịch La Mã.. Giống như người VN trốn bọn cộng sản cai trị. Trịnh Xuân Thanh phải chạy thật xa khỏi VN qua tận Châu Âu chứ không chỉ quanh quẩn ở Lào hay Cam Bốtm mà vẫn không yên.

Cuộc vượt biên của gia đình Đức Mẹ có nhiều gian truân. Ngoài những khó khăn thiên nhiên của địa thế sa mạc, còn có thể bị nguy hiểm vì thú dữ và cướp bóc. Vì thế đi trong sa mạc, người ta thường phải đi từng đoàn để nương tựa và bảo vệ nhau. Việc định cư cũng không hề dễ dàng. Người ti nạn ngày nay thường được quốc tế, các chính phủ hay tổ chức tư giúp đỡ. Thời Đức Mẹ không có chuyện đó. Ngày nay ở Ai Cập có nhiều nhà thờ Công Giáo Coptíc dâng kính Đức Mẹ vì tương truyền ngày xưa khi đi tị nạn gia đình Đức Mẹ đã ở những nơi đó. Điều này có nghĩa rằng cuộc sống nơi đất khách quê người của Đức Mẹ có nhiều khó khăn và phải đỗi chỗ ở nhiều lần. Có thể vì sinh kế khó khăn. Có thể vì bị kỳ thị vì khác biệt ngôn ngữ, tập tục, hay lễ nghi tôn giáo.. . Lý do Môi Sê đưa ra để đòi cho dân Do Thái đi ra hoang địa để phụng sự Chúa là của lễ họ dâng cho Chúa sẽ làm người Ai Cập ghê sợ. Nên họ phải đi cách thật xa người Ai Cập.

Đức Mẹ đến La Vang để yên ủi nâng đỡ con cái như một người đồng cảnh ngộ là nạn nhân của sự đàn áp. Hơn thế, Mẹ còn đến với tư cách là mẹ của người con bị đàn áp nữa. Trong khoảng 2000 lần hiện ra được biết từ trước tới nay, chỉ có dưới 10 lần Đức Mẹ bế theo Chúa Giê Su. La Vang là một trong số ít ỏi đó. Ở Lộ Đức, Fatima, Guadalupe.. . Đức Mẹ chỉ đến một mình. Bế theo con thơ, Mẹ muốn nói rằng Mẹ thương yêu và che chở con cái VN như thương yêu và che chở con thơ của Mẹ. Hãy tín thác vào Mẹ. Chính con Mẹ cũng đã bị đàn áp bách hại từ lúc mới sinh.

Hỡi những ai đang bị đàn áp hãy đến với Mẹ La Vang!
 
Văn Hóa
Tản Mạn Đời Tha Hương: Chuyện Buồn Ngày 20 Tháng 7
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư
08:50 17/07/2018
Hiệp định tại thủ đô Thụy Sỹ Geneva 20 tháng 7 năm 1954 quyết định chia đôi lãnh thổ Việt Nam làm hai, lấy sông Bến Hải (với cầu Hiền Lương) thuộc vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Dân chúng được tự do chọn ở lại hay di cư ra bắc hay vào nam, có ủy hội quốc tế do Ấn Độ, Ba Lan và Canada giám sát. Vài cường quốc cùng thực dân Pháp (sau khi thua Cộng Sản tại Điện biên phủ) và chính phủ Việt Minh đã ký kết vào văn bản ‘đau thương’ này.

Chính phủ miền Nam, do thủ tướng Ngô đình Diệm lãnh đạo, đã phản đối chuyện chia cắt này. Rồi người Pháp phải ra đi vĩnh viễn khỏi Việt Nam sau gần 100 năm đô hộ. Để tỏ chút ‘tình xưa nghĩa cũ’, họ cũng tiếp tay với Hoa Kỳ để chuyển vận gần một triệu người muốn trốn chạy ách ‘Việt Cộng’ phương bắc để xuống miền nam tìm tự do. Tấm ảnh dân chúng gồng gánh và bồng bế nhau xuống tàu ‘há mồm’ trên đây cũng gợi lên trong ký ức bao kỷ niệm bi hùng khác của chuyến đổi đời lịch sử này. Và rồi, qua bài ca ‘Tiếng hò miền Nam’ của Phạm Duy, người ta hình dung ra đựơc thật nhiều diễn biến góp phần ‘làm lại cuộc đời tươi sáng’, trong vòng tay đón tiếp ân cần của dân chúng địa phương hiền hòa hiếu khách.

Từ bắc xuôi nam có 860,206 người, được phủ Tổng Ủy di cư phối hợp tìm nơi ăn chốn ở (không kể một số đông khác không công khai ghi danh). Có tất cả 315 trại định cư trên toàn miền nam. Chiều ngược từ nam ra bắc thì người ta chỉ thấy các ‘cán bộ nằm vùng’ được lệnh ra ‘tập kết’ để dựng xây ‘xã hội chủ nghĩa’, theo thuyết vô thần và độc tài đảng trị.

Thực tế là sau 21 năm xây dựng, xã hội miền bắc, tuy được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, vẫn cứ lê lết trong nghèo đói cơ cực. ‘Nhà nước’ thì biện minh rằng dân chúng cần ‘thắt lưng buộc bụng’ để dành sức chiếm nốt miền nam, hầu đạt mục tiêu ‘thống nhất đất nước’ ! Để rồi miền nam phải ra tay tự vệ, có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và đồng minh. Chẳng may, vận nước xui xẻo, đồng minh thay lòng, miền nam bị ‘hụt hẫng’ khiến Cộng Sản đã tràn ngập quê hương từ 1975.

Chuyện chia ly dĩ nhiên vô tình tạo phân cách cho một số đông gia đình, cách riêng những cặp trai gái mới yêu nhau mà kẻ Bắc người Nam. Thành ra nhạc sĩ Lam Phương đã xuất thần sang tác ra bản ‘Chuyến đò vĩ tuyến’ (trên sông Bến Hải) gây xúc động lòng người qua mấy câu như sau : Giòng sông mơ màng và đẹp lắm. Anh ơi ai nỡ chia đôi bờ để tình ta ngày tháng phải mong chờ. Hò... hớ .... hò .... hơ ... Em và cùng anh (mong) xây một nhịp cầu ….. Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi. Tim em lạnh lẽo như chiều đông ngoài biên thùy. Ai gieo chi khúc hát lâm ly; Như khơi niềm nhớ cuộc từ ly lòng não nùng !

Có một nhân sĩ lên tiếng thế này :Từ vết cắt 1954 biết bao gia đình có người thân phải đứng về hai chiến tuyến, biết bao gia đình không thể sum họp vì vợ, chồng đã có gia đình khác trong những năm dài không hẹn ngày gặp lại, biết bao nhiêu gia đình tiếp tục tan vỡ vào những ngày ngỡ đã bình yên… Vết cắt 1954 không chỉ dài đến 21 năm mà hình như kéo dài nhiều năm mà vẫn chưa lành”

NGÓ LẠI NHỮNG LẦN PHÂN CHIA THỜI TRƯỚC



Chuyện phân chia (mang theo việc binh đao tranh hùng) đau lòng tiên khởi, kể từ khi Ngô Quyền chính thức dứt điểm ‘một ngàn năm đô hộ giặc Tàu’ sau chiến thắng Bạch Đằng giang oai hùng, là việc tranh giành quyền lực của 12 ‘sứ quân’ kéo dài ngót 20 năm. Rất tiếc nhà Ngô tồn tại không lâu, cũng như lòng người còn phân hóa khi mới được độc lập. May thay, Đinh bộ Lĩnh đã xuất sắc dẹp tan các phe nhóm này, để rồi khai sáng nhà Đinh với danh hiệu Đinh tiên Hoàng (năm 968, đặt tên nước là Đại cồ Việt).

Kỳ phân chia kế đó là thời ‘Nam Bắc triều’ giữa nhà Mạc và nhà ‘Lê trung hưng’, từ năm 1533 tới năm 1592 : nhà Mạc cai trị từ Ninh Bình trở ra, còn nhà Lê trung hưng thì từ Thanh Hóa trở vào. Sau đó tàn quân nhà Mạc chạ lên Cao Bằng chống trả kiểu du kích, mãi tới năm 1677 mới dứt điểm. Dĩ nhiên trong khoảng 60 năm chinh chiến tương tàn này làm daa6n chúng điêu đứng không ít. Cũng trong thời kỳ này các giáo sĩ Tây phương bắt đầu đặt chân tới nước ta để giảng đạo Thiên Chúa, kể từ năm 1533.

Tiếp theo là thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, lấy sông Gianh làm ranh giới. Dĩ nhiên nhà Nguyễn với phần đất phương Nam nhỏ bé thật nhiều so với đất chúa trịnh phía Bắc, nhưng dần dà các Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi thêm tới tận vùng thủy Chân Lạp (đồng bằng sông Cửu Long ngày nay). ‘Tiên chúa’ Nguyễn Hoàng khéo léo xin xuống trấn nhậm vùng Nam đất nước bấy giờ là Thuận Hóa, rồi chờ cơ hội tuyên bố ‘tự trị’. Dĩ nhiên chúa Trịnh (át quyền vua Lê ‘ngồi làm vì’tại kinh đô Thăng Long) không thể dung thứ, bao lần xua quân xâm chiếm nhưng cứ thua chúa Nguyễn hoài. Cuộc phân chia 2 miền này kéo dài từ năm 1627 tới mãi năm 1672 mới chấm dứt : nửa thế kỷ.

BÂY GIỜ VẪN PHẢI XA LÌA ĐẤT MẸ



Có ai đó đã vu vơ lên tiếng rằng chỉ tại tổ tiên dân ta là Lạc long Quân và Âu Cơ đã có một quyết định ‘đau đớn’ khi chia nhau đem 50 con lên núi và 50 con xuống biển, để về sau con cháu mang cái ‘nghiệp’ xui xẻo phân ly. Hôm nay, bên quê nhà ‘hồ hởi’ vui chuyện thống nhất, thì hơn 3 triệu sinh linh đang phải xa lìa đất Mẹ Việt Nam yêu dấu, mà mong tìm lý tưởng chân chính nơi đất khách quê người.

Cũng có vị trưởng thượng phát biểu thế này : “Khi ra được nước ngoài, phản ứng đầu tiên của những người tị nạn này là làm sống lại chế độ tự do miền Nam mà họ đã mất. Phản ứng này là lẽ thường tình vì không gì sung sướng bằng được sống dưới chế độ mà mình ưa thích. Nhưng ước muốn này không dừng ở đó, cộng đồng người Việt tị nạn miền Nam thành thực muốn xây dựng lại chế độ miền Nam ngay tại nơi định cư, đặc biệt là tại Mỹ, nơi có đông người Việt tị nạn (đầu tiên là tại Cali, sau đó là Texas), tại những nơi này, khi vào khu phố Việt, người ta có cảm tưởng như sống lại không khí Sài Gòn ngày trước, với những tiệm ăn, cửa hàng, quán nước, âm nhạc và những con người của "một thời vàng son", với những vinh quang cùng thói hư tật xấu”.

“Cái đặc biệt ở đây là để duy trì chế độ ‘Việt Nam Cộng Hòa’ này tại hải ngoại, một khế ước bất thành văn được mọi người chấp nhân là trước khi bắt đầu một sinh hoạt nào, dù là văn hóa, xã hội hay từ thiện, mọi người phải đứng dậy hát quốc ca và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Dân tỵ nạn là thế đó. Quên ngày cũ không được”.

Bà con ơi, phải chăng ‘cách mặt mà chẳng cách lòng’ ? Ai cũng canh cánh niềm ước mơ hồi hương làm lại tất cả. Xa quê là xé ruột nát lòng, nhưng bà con ta không tuyệt vọng. Dạy dỗ con cháu. Khích lệ chúng thẳng tiến tới tương lai, mong chờ dịp quay về dựng lại ‘ngọn cờ vàng’, như những lời xúc động của bài ca ‘Em vẫn mơ một ngày về’ của nữ ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh : “…Em vẫn mơ 1 ngày nào, anh với em chung tình bạc đầu.Trên quê hương nghèo, trong khu rừng già, trước mái nhà cờ vàng bay phất phơ. Bên mái hiên ta ngồi chuyện trò, khoai nướng thơm hương tình ruộng đồng.Con thơ ngoan hiền, ê a đánh vần, VN là Việt Nam kiêu hùng, VN là Việt Nam muôn năm”.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư