Phụng Vụ - Mục Vụ
Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời 15/8/2019 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
02:36 14/08/2019
Bài Ðọc I: Kh 11, 19a; 12, 1-6a, 10ab
"Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Ðền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Và một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: Bà đang mang thai, kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con.
Lại một điềm lạ khác xuất hiện trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, và trên bảy đầu, đội bảy triều thiên. Ðuôi nó kéo đi một phần ba tinh tú trên trời mà ném xuống đất. Con rồng đứng trước mặt người nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh con ra, thì nuốt lấy đứa trẻ.
Bà sinh được một con trai, Ðấng sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân: Con Bà được mang về cùng Thiên Chúa, đến tận ngai của Người. Còn Bà thì trốn lên rừng vắng, ở đó Bà được Thiên Chúa dọn sẵn cho một nơi.
Và tôi nghe có tiếng lớn trên trời phán rằng: "Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và uy quyền của Ðức Kitô của Người đã được thực hiện".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 44, 10bc. 11. 12ab. 16
Ðáp: Hoàng Hậu đứng bên hữu Ðức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng
Xướng: Hoàng Hậu đứng bên hữu Ðức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy.
Xướng: Xin hãy nghe, thưa Nương Tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ.
Xướng: Ðể Ðức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của Cô Nương, hãy phục vụ Người.
Xướng: Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua.
Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 20-26
"Hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng, khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực. Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết, bởi Người đã bắt mọi sự quy phục dưới chân Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia
Alleluia, alleluia! - Ðức Maria được mời gọi lên trời; đạo binh các thiên thần mừng rỡ hân hoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-56
"Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.
"Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Ðền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Và một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: Bà đang mang thai, kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con.
Lại một điềm lạ khác xuất hiện trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, và trên bảy đầu, đội bảy triều thiên. Ðuôi nó kéo đi một phần ba tinh tú trên trời mà ném xuống đất. Con rồng đứng trước mặt người nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh con ra, thì nuốt lấy đứa trẻ.
Bà sinh được một con trai, Ðấng sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân: Con Bà được mang về cùng Thiên Chúa, đến tận ngai của Người. Còn Bà thì trốn lên rừng vắng, ở đó Bà được Thiên Chúa dọn sẵn cho một nơi.
Và tôi nghe có tiếng lớn trên trời phán rằng: "Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và uy quyền của Ðức Kitô của Người đã được thực hiện".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 44, 10bc. 11. 12ab. 16
Ðáp: Hoàng Hậu đứng bên hữu Ðức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng
Xướng: Hoàng Hậu đứng bên hữu Ðức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy.
Xướng: Xin hãy nghe, thưa Nương Tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ.
Xướng: Ðể Ðức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của Cô Nương, hãy phục vụ Người.
Xướng: Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua.
Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 20-26
"Hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng, khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực. Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết, bởi Người đã bắt mọi sự quy phục dưới chân Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia
Alleluia, alleluia! - Ðức Maria được mời gọi lên trời; đạo binh các thiên thần mừng rỡ hân hoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-56
"Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.
Mẹ Toàn Thắng
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
05:54 14/08/2019
Lễ Đức Maria Hồn Xác lên trời
Kh 11,19a,12,1-6a,10b; 1 Cr 15,20-26; Lc 1,39-56
Phụng vụ của ngày đại lễ Đức Maria hồn xác lên trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật nhưng đối lập nhau, được Sách Khải Huyền mô tả, đó là hình ảnh “con rồng đỏ” và “người phụ nữ”. Hai hình ảnh này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta hãy khám phá ý nghĩa của chúng trong dịp đặc biệt này.
1. Hình ảnh con rồng đỏ
Trước hết là hình ảnh con rồng đỏ khổng lồ. Đối với văn hóa Việt Nam, rồng là một trong bốn linh vật cao quý bậc nhất: long, ly, quy, phượng. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, của sự giàu sang phú quý đến từ thần linh. Vì thế, người Việt tự coi mình là “con rồng, cháu tiên”.
Nhưng đối với Kinh Thánh, rồng là một quái vật, là sức mạnh của ma quỷ. Sách Khải Huyền mô tả sự xuất hiện của nó với một sức mạnh hết sức man rợ và đáng kinh sợ (cf. Kh 11,12.1-6a).
Ở đây, thánh Gioan ám chỉ đến quyền lực độc tài thuộc các hoàng đế La Mã, từ Nêrô bạo chúa (37-68) đến Đômitianô (81-96) trong những thế kỷ đầu. Đó là những thế lực chống lại Kitô giáo và bách hại đạo.
Theo một giải thích mở rộng, “con rồng đỏ” cũng là biểu tượng của các thể chế độc tài vô thần, phi nhân bản và duy quyền lực trong các thế hệ loài người. Chẳng hạn như chế độc tài Đức quốc xã, chế độ độc tài cộng sản Stalin ở Nga, ở Trung Quốc, và Việt Nam vv...
Hình ảnh người phụ nữ đối diện với con rồng đỏ này là hình ảnh của Giáo Hội khi phải đối diện với những thế lực đó. Các thể chế độc tài có trong tay tất cả mọi quyền lực, khí giới và sức mạnh quân sự. Trong khi đó Giáo Hội không có súng đạn, vũ khí, và xem ra không có khả năng để sống sót, sống đạo, lại càng không có khả năng để chiến thắng.
Tuy nhiên, tác giả sách Khải Huyền cho biết số phận cuối cùng của con rồng đỏ này là thất bại và bị tiêu vong. Giáo Hội Chúa chiến thắng và tồn tại, không bằng sức mạnh quân sự và thù hận, nhưng là bằng tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, bằng đức tin và sự hiệp thông với nhau. Điều mà Chúa tiên báo được ứng nghiệm trong lịch sử: “Phêrô, con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa hỏa ngục, tức quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi (Mt 16, 18).
Quả thế, đế quốc La Mã “đã trở thành nôi của Kitô giáo”. Bức tường Berlin đã sụp đổ. Nước Nga đã “trở lại”. Nói như nhà văn Henryk Sienkiewicz trong cuốn tiểu thuyết lừng danh Quo vadis: Các hoàng đế La Mã lần lượt ngã xuống và bị quên lãng, còn Giáo Hội của Phêrô thì đứng lên và tồn tại mãi với thời gian. Chúng ta hy vọng điều này sẽ xảy ra ở Việt Nam và Trung Quốc trong tương lai.
2. Hình ảnh người phụ nữ
Hình ảnh thứ hai lôi kéo sự chú ý của chúng ta đó là hình ảnh của “một người phụ nữ đẹp lộng lẫy, mình mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 11,19a). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, hình ảnh này trực tiếp ám chỉ về Đức Maria:
- Mẹ mặc áo mặt trời, có nghĩa là Mẹ mặc ân sủng, sự sống và vinh quang của Thiên Chúa. Cả cuộc đời Mẹ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa, thi hành ý Chúa, nay Mẹ được Thiên Chúa siêu thăng. Mẹ được đầy ơn phúc cách viên mãn!
“Đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” có nghĩa là Mẹ được bao quanh bởi mười hai chi tộc Ítraen mới là Giáo Hội hoàn vũ, bởi tất cả Dân Thiên Chúa, và với sự hiệp thông của các thần thánh trên trời dưới đất tung hộ Mẹ, tôn kính Mẹ.
Và “chân đạp mặt trăng”, trăng thuộc về đêm tối, biểu tượng của sự chết và sự diệt vong, diễn tả Mẹ đã chiến thắng sự chết, sự diệt vong do tội lỗi nhờ hoa quả cứu độ của Chúa Kitô mang lại.
Như thế, Mẹ lên trời có nghĩa là Mẹ chiến thắng, Mẹ được Thiên Chúa vinh thăng. Đó là chân lý đức tin, được Giáo Hội định tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII vào 01/11/1950. Đó là phần thưởng của lòng thương xót Chúa đã dành cho Mẹ sau khi Mẹ đã xuất sắc hoàn tất sứ mạng của mình tại dương thế. Như Mẹ đã xác tín trong bài Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Vì danh Người là thánh. Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.”
3. Niềm cậy trông vững vàng
Hôm nay cùng với các tín hữu đồng đạo, con cái giáo phận Vinh khắp nơi trong và ngoài nước đông đảo quy tụ nhau để mừng lễ quan thầy Giáo phận. Kể từ ngày Đức Cha Pinaeu Trị (15/8/1892) dâng Giáo phận Vinh cho Đức Maria và chọn Đức Mẹ linh hồn và xác lên Trời làm Đấng bổn mạng, lễ Mẹ lên trời trở thành ngày truyền thống của giáo phận, ngày hạnh ngộ của những người con xứ Nghệ vốn được biết đến như những con người chân chất, cần mẫn nhưng rất mực trung kiên phụng sự Thiên Chúa, hết lòng yêu mến Giáo Hội và kiên cường bảo vệ niềm tin.
Về bên Mẹ, chúng ta chia vui sẻ buồn, tạ ơn Thiên Chúa và phó dâng cho Mẹ mọi ưu tư phiền muộn, để cầu xin một cuộc sống an lành, hạnh phúc.
Trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam hiện nay đang phải đối diện với những nguy cơ về sự “đô hộ kiểu mới” của người Phương Bắc, nên “rừng đã hết và biển thì đang chết, núi đồi, sông ngòi đang bị tàn phá một cách vô tội vạ; đặc biệt là thảm họa môi trường do nhà máy Formosa gây ra đã làm cho biết bao người dân phải điêu đứng, chết dần chết mòn! Nhờ lời cầu bầu đắc lực của Mẹ, chúng ta hãy cầu nguyện cho đất nước Việt Nam được quốc thái dân an, cho người dân được sống trong cảnh thái bình và tự do, cho môi trường được gìn giữ, bảo vệ và an toàn.
Mừng lễ Mẹ lên trời mang lại cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng chắc chắn về ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ ban cho mỗi người trong cuộc sống mai sau như đã ban cho Mẹ. Đồng thời Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta sống tốt cuộc sống hiện tại như Mẹ đã sống để xứng đáng đón nhận phần thưởng đó. Noi gương Đức Maria, anh chị em hãy sống tốt đời sống một kitô hữu trong mọi hoàn cảnh sống của mình.
Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương ban sự bình an, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con khi này và trong giờ lâm tử - Amen.
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
Kh 11,19a,12,1-6a,10b; 1 Cr 15,20-26; Lc 1,39-56
Phụng vụ của ngày đại lễ Đức Maria hồn xác lên trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật nhưng đối lập nhau, được Sách Khải Huyền mô tả, đó là hình ảnh “con rồng đỏ” và “người phụ nữ”. Hai hình ảnh này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta hãy khám phá ý nghĩa của chúng trong dịp đặc biệt này.
1. Hình ảnh con rồng đỏ
Trước hết là hình ảnh con rồng đỏ khổng lồ. Đối với văn hóa Việt Nam, rồng là một trong bốn linh vật cao quý bậc nhất: long, ly, quy, phượng. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, của sự giàu sang phú quý đến từ thần linh. Vì thế, người Việt tự coi mình là “con rồng, cháu tiên”.
Nhưng đối với Kinh Thánh, rồng là một quái vật, là sức mạnh của ma quỷ. Sách Khải Huyền mô tả sự xuất hiện của nó với một sức mạnh hết sức man rợ và đáng kinh sợ (cf. Kh 11,12.1-6a).
Ở đây, thánh Gioan ám chỉ đến quyền lực độc tài thuộc các hoàng đế La Mã, từ Nêrô bạo chúa (37-68) đến Đômitianô (81-96) trong những thế kỷ đầu. Đó là những thế lực chống lại Kitô giáo và bách hại đạo.
Theo một giải thích mở rộng, “con rồng đỏ” cũng là biểu tượng của các thể chế độc tài vô thần, phi nhân bản và duy quyền lực trong các thế hệ loài người. Chẳng hạn như chế độc tài Đức quốc xã, chế độ độc tài cộng sản Stalin ở Nga, ở Trung Quốc, và Việt Nam vv...
Hình ảnh người phụ nữ đối diện với con rồng đỏ này là hình ảnh của Giáo Hội khi phải đối diện với những thế lực đó. Các thể chế độc tài có trong tay tất cả mọi quyền lực, khí giới và sức mạnh quân sự. Trong khi đó Giáo Hội không có súng đạn, vũ khí, và xem ra không có khả năng để sống sót, sống đạo, lại càng không có khả năng để chiến thắng.
Tuy nhiên, tác giả sách Khải Huyền cho biết số phận cuối cùng của con rồng đỏ này là thất bại và bị tiêu vong. Giáo Hội Chúa chiến thắng và tồn tại, không bằng sức mạnh quân sự và thù hận, nhưng là bằng tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, bằng đức tin và sự hiệp thông với nhau. Điều mà Chúa tiên báo được ứng nghiệm trong lịch sử: “Phêrô, con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa hỏa ngục, tức quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi (Mt 16, 18).
Quả thế, đế quốc La Mã “đã trở thành nôi của Kitô giáo”. Bức tường Berlin đã sụp đổ. Nước Nga đã “trở lại”. Nói như nhà văn Henryk Sienkiewicz trong cuốn tiểu thuyết lừng danh Quo vadis: Các hoàng đế La Mã lần lượt ngã xuống và bị quên lãng, còn Giáo Hội của Phêrô thì đứng lên và tồn tại mãi với thời gian. Chúng ta hy vọng điều này sẽ xảy ra ở Việt Nam và Trung Quốc trong tương lai.
2. Hình ảnh người phụ nữ
Hình ảnh thứ hai lôi kéo sự chú ý của chúng ta đó là hình ảnh của “một người phụ nữ đẹp lộng lẫy, mình mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 11,19a). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, hình ảnh này trực tiếp ám chỉ về Đức Maria:
- Mẹ mặc áo mặt trời, có nghĩa là Mẹ mặc ân sủng, sự sống và vinh quang của Thiên Chúa. Cả cuộc đời Mẹ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa, thi hành ý Chúa, nay Mẹ được Thiên Chúa siêu thăng. Mẹ được đầy ơn phúc cách viên mãn!
“Đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” có nghĩa là Mẹ được bao quanh bởi mười hai chi tộc Ítraen mới là Giáo Hội hoàn vũ, bởi tất cả Dân Thiên Chúa, và với sự hiệp thông của các thần thánh trên trời dưới đất tung hộ Mẹ, tôn kính Mẹ.
Và “chân đạp mặt trăng”, trăng thuộc về đêm tối, biểu tượng của sự chết và sự diệt vong, diễn tả Mẹ đã chiến thắng sự chết, sự diệt vong do tội lỗi nhờ hoa quả cứu độ của Chúa Kitô mang lại.
Như thế, Mẹ lên trời có nghĩa là Mẹ chiến thắng, Mẹ được Thiên Chúa vinh thăng. Đó là chân lý đức tin, được Giáo Hội định tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII vào 01/11/1950. Đó là phần thưởng của lòng thương xót Chúa đã dành cho Mẹ sau khi Mẹ đã xuất sắc hoàn tất sứ mạng của mình tại dương thế. Như Mẹ đã xác tín trong bài Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Vì danh Người là thánh. Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.”
3. Niềm cậy trông vững vàng
Hôm nay cùng với các tín hữu đồng đạo, con cái giáo phận Vinh khắp nơi trong và ngoài nước đông đảo quy tụ nhau để mừng lễ quan thầy Giáo phận. Kể từ ngày Đức Cha Pinaeu Trị (15/8/1892) dâng Giáo phận Vinh cho Đức Maria và chọn Đức Mẹ linh hồn và xác lên Trời làm Đấng bổn mạng, lễ Mẹ lên trời trở thành ngày truyền thống của giáo phận, ngày hạnh ngộ của những người con xứ Nghệ vốn được biết đến như những con người chân chất, cần mẫn nhưng rất mực trung kiên phụng sự Thiên Chúa, hết lòng yêu mến Giáo Hội và kiên cường bảo vệ niềm tin.
Về bên Mẹ, chúng ta chia vui sẻ buồn, tạ ơn Thiên Chúa và phó dâng cho Mẹ mọi ưu tư phiền muộn, để cầu xin một cuộc sống an lành, hạnh phúc.
Trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam hiện nay đang phải đối diện với những nguy cơ về sự “đô hộ kiểu mới” của người Phương Bắc, nên “rừng đã hết và biển thì đang chết, núi đồi, sông ngòi đang bị tàn phá một cách vô tội vạ; đặc biệt là thảm họa môi trường do nhà máy Formosa gây ra đã làm cho biết bao người dân phải điêu đứng, chết dần chết mòn! Nhờ lời cầu bầu đắc lực của Mẹ, chúng ta hãy cầu nguyện cho đất nước Việt Nam được quốc thái dân an, cho người dân được sống trong cảnh thái bình và tự do, cho môi trường được gìn giữ, bảo vệ và an toàn.
Mừng lễ Mẹ lên trời mang lại cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng chắc chắn về ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ ban cho mỗi người trong cuộc sống mai sau như đã ban cho Mẹ. Đồng thời Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta sống tốt cuộc sống hiện tại như Mẹ đã sống để xứng đáng đón nhận phần thưởng đó. Noi gương Đức Maria, anh chị em hãy sống tốt đời sống một kitô hữu trong mọi hoàn cảnh sống của mình.
Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương ban sự bình an, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con khi này và trong giờ lâm tử - Amen.
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
Ngọn lửa Tình yêu
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
06:05 14/08/2019
Chúa Nhật 20 Thường Niên C
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”.
Lửa ấy là gì?
Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).
Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).
Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).
Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.
Dùng hình ảnh lửa, Chúa Giêsu có ý nói đến nội dung và đặc điểm sứ mạng của mình. Lửa bừng cháy và tỏa sức nóng, lửa đem lại ánh sáng xua tan bóng tối, thiêu đốt thành tro, nung nấu tan chảy và làm cho biến đổi.
Bằng ẩn dụ lửa, Chúa Giêsu gợi lên nội dung sứ mạng của mình là mang ánh sáng chân lý từ trời cao ném vào mặt đất, để soi sáng con đường cứu nhân loại thoát khỏi bóng tối nô lệ tội lỗi, đồng thời thiêu hủy sự dữ và thanh luyện con người nên tinh tuyền.
Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc (x.Mt 5,3-12; Lc 6,20-26), đặc biệt lửa của những phép lạ, lòng khoan dung tha thứ tội lỗi và của trái tim nhân từ cảm hóa kẻ lầm lạc.
Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình. Lửa của những mối phúc thật. Lửa của sự sống phục sinh. Lửa đã tỏa sáng và thanh luyện những người bước theo Chúa Giêsu.
“Thầy ước mong ngọn lửa ấy bùng lên!”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
Thế giới này được ví như một ngôi đền thờ rộng lớn, mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng trong tâm hồn chúng ta.Trách nhiệm mỗi người là thắp sáng ngọn lửa ấy bằng đời sống chứng nhân.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Thông điệp mới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tựa đề “Ánh sáng đức tin” muốn nói truyền thống của Hội thánh, cho thấy hồng ân lớn lao do Chúa Giêsu mang đến, được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: "Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối" (Ga 12, 46). Cả thánh Phaolô cũng diễn tả tương tự như sau: "Xưa Thiên Chúa đã phán: 'Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm', Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi" (2Cr 4, 6).
“Ai tin, sẽ thấy” vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và vì nó có khả năng chiếu rọi mọi khía cạnh trong cuộc hiện sinh của con người, nên nó diễn tiến không những từ quá khứ, từ ký ức về cuộc đời Chúa Giêsu, mà còn từ tương lai khi nó mở ra nhiều chân trời rộng lớn.
Một vài trích dẫn sau đây từ Thông điệp “Ánh sáng đức tin” cho thấy Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng, ai tin vào Người sẽ sống trong ánh sáng của Sự Thật và Tình Yêu.
"Ánh sáng đức tin có một đặc tính khác thường, vì có thể soi sáng toàn thể hiện hữu của nhân sinh. Bởi có một năng lực như thế, nguồn cội của ánh sáng đức tin không thể phát xuất từ chính chúng ta, mà phải đến từ một Nguồn nguyên thủy nhất, xét cho cùng, là đến từ chính Thiên Chúa. Đức tin nảy sinh trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mạc khải Tình yêu của Ngài cho chúng ta, một tình yêu đi bước trước chúng ta và làm nền tảng cho ta đứng vững và xây dựng cuộc sống mình".
"Các tác giả Phúc âm đã đặt giờ Chúa chịu treo trên Thánh Giá như là chóp đỉnh của cái nhìn đức tin, vì trong giờ ấy chiếu tỏa rực rỡ chiều cao và chiều rộng của Tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gioan đưa ra lời chứng long trọng của ngài khi ngài cùng với Đức Mẹ, Mẹ của Đức Giêsu chiêm ngắm Đấng Bị Đâm Thâu (x. Ga 19, 37): "Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin" (Ga 19, 35). Chính khi chiêm ngắm Đức Giêsu chịu chết mà đức tin của chúng ta được củng cố và có được một ánh sáng chói lọi, chính khi nó mạc khải cho chúng ta như một niềm tin vào Tình yêu không lay chuyển của Người dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào cái chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này, vốn không tự miễn chước sự chết để bộc lộ Người yêu thương ta dường nào, là một tình yêu có thể tin được. Tình yêu ấy bộc lộ ra trong toàn thể thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép ta đặt hoàn toàn tin cậy vào Đức Kitô.
"Nếu như tình yêu cần đến sự thật, thì sự thật cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách biệt nhau. Không có tình yêu, sự thật trở thành lạnh lùng, phi ngã vị, áp bức trên đời sống cụ thể của con người. Sự thật mà chúng ta tìm kiếm, sự thật đem lại ý nghĩa cho những bước đường ta đi, sự thật ấy sẽ soi chiếu chúng ta khi ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thương sẽ hiểu rằng tình yêu là kinh nghiệm sự thật, rằng chính tình yêu mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong khi kết hiệp với người mình yêu".
"Thánh Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio, đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào. Khi ta có ánh sáng viên mãn của tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra rằng trong mỗi tình yêu của ta đã có mặt một tia của ánh sáng ấy rồi và chúng ta hiểu đâu là cùng đích của nó".
"Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng soi sáng hành trình của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và góp phần mình cho Kitô giáo trong cuộc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác".
“Người tin thì hoàn toàn dấn thân sống đức tin mình tuyên xưng. Đức Maria nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, sống sát với những gì mà chúng ta tin". Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Maria, “mẫu mực hoàn hảo” của Đức Tin, Đấng, vì là Mẹ Chúa Giêsu, đã tượng thai “đức tin và niềm vui”.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những ai đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”.
Lửa ấy là gì?
Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).
Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).
Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).
Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.
Dùng hình ảnh lửa, Chúa Giêsu có ý nói đến nội dung và đặc điểm sứ mạng của mình. Lửa bừng cháy và tỏa sức nóng, lửa đem lại ánh sáng xua tan bóng tối, thiêu đốt thành tro, nung nấu tan chảy và làm cho biến đổi.
Bằng ẩn dụ lửa, Chúa Giêsu gợi lên nội dung sứ mạng của mình là mang ánh sáng chân lý từ trời cao ném vào mặt đất, để soi sáng con đường cứu nhân loại thoát khỏi bóng tối nô lệ tội lỗi, đồng thời thiêu hủy sự dữ và thanh luyện con người nên tinh tuyền.
Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc (x.Mt 5,3-12; Lc 6,20-26), đặc biệt lửa của những phép lạ, lòng khoan dung tha thứ tội lỗi và của trái tim nhân từ cảm hóa kẻ lầm lạc.
Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình. Lửa của những mối phúc thật. Lửa của sự sống phục sinh. Lửa đã tỏa sáng và thanh luyện những người bước theo Chúa Giêsu.
“Thầy ước mong ngọn lửa ấy bùng lên!”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
Thế giới này được ví như một ngôi đền thờ rộng lớn, mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng trong tâm hồn chúng ta.Trách nhiệm mỗi người là thắp sáng ngọn lửa ấy bằng đời sống chứng nhân.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Thông điệp mới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tựa đề “Ánh sáng đức tin” muốn nói truyền thống của Hội thánh, cho thấy hồng ân lớn lao do Chúa Giêsu mang đến, được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: "Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối" (Ga 12, 46). Cả thánh Phaolô cũng diễn tả tương tự như sau: "Xưa Thiên Chúa đã phán: 'Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm', Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi" (2Cr 4, 6).
“Ai tin, sẽ thấy” vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và vì nó có khả năng chiếu rọi mọi khía cạnh trong cuộc hiện sinh của con người, nên nó diễn tiến không những từ quá khứ, từ ký ức về cuộc đời Chúa Giêsu, mà còn từ tương lai khi nó mở ra nhiều chân trời rộng lớn.
Một vài trích dẫn sau đây từ Thông điệp “Ánh sáng đức tin” cho thấy Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng, ai tin vào Người sẽ sống trong ánh sáng của Sự Thật và Tình Yêu.
"Ánh sáng đức tin có một đặc tính khác thường, vì có thể soi sáng toàn thể hiện hữu của nhân sinh. Bởi có một năng lực như thế, nguồn cội của ánh sáng đức tin không thể phát xuất từ chính chúng ta, mà phải đến từ một Nguồn nguyên thủy nhất, xét cho cùng, là đến từ chính Thiên Chúa. Đức tin nảy sinh trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mạc khải Tình yêu của Ngài cho chúng ta, một tình yêu đi bước trước chúng ta và làm nền tảng cho ta đứng vững và xây dựng cuộc sống mình".
"Các tác giả Phúc âm đã đặt giờ Chúa chịu treo trên Thánh Giá như là chóp đỉnh của cái nhìn đức tin, vì trong giờ ấy chiếu tỏa rực rỡ chiều cao và chiều rộng của Tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gioan đưa ra lời chứng long trọng của ngài khi ngài cùng với Đức Mẹ, Mẹ của Đức Giêsu chiêm ngắm Đấng Bị Đâm Thâu (x. Ga 19, 37): "Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin" (Ga 19, 35). Chính khi chiêm ngắm Đức Giêsu chịu chết mà đức tin của chúng ta được củng cố và có được một ánh sáng chói lọi, chính khi nó mạc khải cho chúng ta như một niềm tin vào Tình yêu không lay chuyển của Người dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào cái chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này, vốn không tự miễn chước sự chết để bộc lộ Người yêu thương ta dường nào, là một tình yêu có thể tin được. Tình yêu ấy bộc lộ ra trong toàn thể thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép ta đặt hoàn toàn tin cậy vào Đức Kitô.
"Nếu như tình yêu cần đến sự thật, thì sự thật cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách biệt nhau. Không có tình yêu, sự thật trở thành lạnh lùng, phi ngã vị, áp bức trên đời sống cụ thể của con người. Sự thật mà chúng ta tìm kiếm, sự thật đem lại ý nghĩa cho những bước đường ta đi, sự thật ấy sẽ soi chiếu chúng ta khi ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thương sẽ hiểu rằng tình yêu là kinh nghiệm sự thật, rằng chính tình yêu mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong khi kết hiệp với người mình yêu".
"Thánh Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio, đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào. Khi ta có ánh sáng viên mãn của tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra rằng trong mỗi tình yêu của ta đã có mặt một tia của ánh sáng ấy rồi và chúng ta hiểu đâu là cùng đích của nó".
"Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng soi sáng hành trình của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và góp phần mình cho Kitô giáo trong cuộc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác".
“Người tin thì hoàn toàn dấn thân sống đức tin mình tuyên xưng. Đức Maria nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, sống sát với những gì mà chúng ta tin". Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Maria, “mẫu mực hoàn hảo” của Đức Tin, Đấng, vì là Mẹ Chúa Giêsu, đã tượng thai “đức tin và niềm vui”.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những ai đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
Lửa Tình Yêu
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
06:09 14/08/2019
Chúa Nhật XX Thường Niên năm C
Lc 12,49-53
Nói đến lửa có chúng ta thường nghĩ tới lửa gió và nước.Có thể gọi đây là ba sức mạnh khủng khiếp của Tạo Hóa giữa đất trời bao la, mênh mông. Khi đề cập đến lửa, chúng ta thường liên tưởng đến sự bùng cháy, đến những đám cháy lớn lao tiêu diệt, rồi chúng ta đâm ra lo âu, sợ hãi…Phải chăng đây là lửa đã thiêu rụi thành Sôđôma và Gômôra ? Phải chăng đây là thứ lửa mà Giacôbê và Gioan đã vì căm tức một làng xứ Samaria không chịu đón tiếp Chúa và các môn đệ, mà hai tông đồ này muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi ? Hay là thứ lửa mà chúng ta thường đọc thấy hoặc được học, được xem trong các bức tranh nói về lửa hỏa ngục!
Dù là thứ lửa nào thì nó cũng đáng gờm, đáng sợ! Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã nói đến một thứ lửa :” Thầy đã đến để ném lửa vào mặt đất và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên “ ( Lc 12,49 ). Nghe những lời này của Chúa chúng ta đâm ra ngao ngán, sợ sệt. Tuy nhiên, chúng ta phải thay đổi tư duy, thay đổi cái nhìn để hiểu rõ hơn ý của Chúa Giêsu.
Vâng, lửa mà Chúa Giêsu nói ở đây là đức tin. Đức tin có được, hun đức, trui luyện, đức tin đó mới bền vững, mới trưởng thành. Đức tin như ông đại đội trưởng, như người nữ bị băng huyết. Đó là đức tin bền chặt, đức tin vững chắc. Bởi vì, thánh Phaolô đã nói:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “ hoặc “ Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “. Chúa Giêsu cũng nói đến sự đau khổ, sự chết khi đề cập đến “ chén đắng “. Chén đắng mà hai ông Giacôbê và Gioan sẽ uống, chứ không phải là việc ngồi bên hữu bên tả của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta hay đau khổ là con đường, là cách thức Chúa Giêsu đã chọn để cứu độ con người, cứu vớt loài người. Nên, con đường đó, cách thức đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta đi theo “ Tôi tớ không lớn hơn Thầy “. Chúa Giêsu đã chọn cách thức duy nhất này để làm gương cho nhân loại, làm gương cho chúng ta.
Chúa Giêsu còn nói đến một ý nghĩa khác nữa trong đoạn Tin Mừng này :” Chúa báo trước cho những ai tin theo Ngài là vì đức tin, vì theo đạo, vì theo Người, họ có thể bị chính những người thân yêu của mình khinh chê, ghen ghét, ruồng bỏ vv…” . Lịch sử Giáo Hội cho thấy rất rõ, có nhiều người vì theo đạo, theo Chúa đã bị bách hại, đã bị giết chết. Máu của nhiều thánh tử đạo đã đổ ra rất nhiều nơi các Giáo hội địa phương. Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta hiểu rất rõ về nhiều cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Gia đình nào có người theo đạo, tin Chúa, người ấy liền bị những người trong gia đình khinh chê, ruồng bỏ vv…
Lịch sử cứu độ cho thấy suốt trong dòng lịch sử con người từ khi Thiên Chúa sáng tao vũ trụ, con người cho đến thời nay đã có biết nhiêu người đã dùng đức tin để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh, minh chứng cho Chúa là Đường, là Sự thật và Sự sống. Lửa cũng có nghĩa là lửa thiêng liêng Chúa thắp sáng nơi tâm hồn chúng ta để chúng ta luôn nhận ra Chúa, tin theo Chúa và làm tất cả mọi sự vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân hầu làm sáng danh và làm vinh danh Chúa. Lửa tình yêu, lửa cứu độ làm cho chúng ta luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa vì muôn hồng ân Chúa ban cho chúng ta. Dù chúng ta đang sống giữa những gian nan thử thách, những cạm bẫy bủa vây của ma quỷ, của sự dữ, nhưng chúng ta một mực tin tưởng nhờ lửa tình yêu, nhờ lửa cứu độ mà Thiên Chúa giải thoát chúng ta.
Công đồng Vaticanô II là Công đồng của Chúa Thánh Thần, đã thổi một luồng gió mới vào Giáo Hội, tuy nhiên cũng có nhiều người không muốn canh tân, đổi mới, nên cũng gây ra sự phân hóa, chia rẽ như lời Tin Mừng hôm nay. Tuy nhiên, sau cùng mọi người đều nhận ra rằng chỉ có “ Tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta “ và như thánh Augustinô nói :” Tốt đẹp biết bao vì Thiên Chúa là ngọn lửa bùng cháy làm cho chúng ta biết yêu mến Người”. Chúa Thánh Thần chính là ngọn lửa tình yếu đến hiệp nhất, thánh hóa, ban bình an cho Giáo Hội, cho chúng ta để chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đốt lên trong tâm hồn chúng con ngọn lửa tình yêu để chúng con biết luôn “ mặc lấy Đức Kitô “, hầu chúng ta mau mắn chuyền ngọn lửa đức tin, ngọn lửa cứu độ mà Chúa đã đem đến cho nhân loại, để chính ngọn lửa ấy cứu vớt loài người.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Lửa theo Chúa Giêsu có ý nghĩa gì ?
2.Chén đắng Chúa nói có nghĩa gì ?
3.Tại sao Chúa lại nói đem sự chia rẽ ?
4.Sự bình an có cần thiết không ?
5.Lửa cứu độ là gì ?
Lc 12,49-53
Nói đến lửa có chúng ta thường nghĩ tới lửa gió và nước.Có thể gọi đây là ba sức mạnh khủng khiếp của Tạo Hóa giữa đất trời bao la, mênh mông. Khi đề cập đến lửa, chúng ta thường liên tưởng đến sự bùng cháy, đến những đám cháy lớn lao tiêu diệt, rồi chúng ta đâm ra lo âu, sợ hãi…Phải chăng đây là lửa đã thiêu rụi thành Sôđôma và Gômôra ? Phải chăng đây là thứ lửa mà Giacôbê và Gioan đã vì căm tức một làng xứ Samaria không chịu đón tiếp Chúa và các môn đệ, mà hai tông đồ này muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi ? Hay là thứ lửa mà chúng ta thường đọc thấy hoặc được học, được xem trong các bức tranh nói về lửa hỏa ngục!
Dù là thứ lửa nào thì nó cũng đáng gờm, đáng sợ! Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã nói đến một thứ lửa :” Thầy đã đến để ném lửa vào mặt đất và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên “ ( Lc 12,49 ). Nghe những lời này của Chúa chúng ta đâm ra ngao ngán, sợ sệt. Tuy nhiên, chúng ta phải thay đổi tư duy, thay đổi cái nhìn để hiểu rõ hơn ý của Chúa Giêsu.
Vâng, lửa mà Chúa Giêsu nói ở đây là đức tin. Đức tin có được, hun đức, trui luyện, đức tin đó mới bền vững, mới trưởng thành. Đức tin như ông đại đội trưởng, như người nữ bị băng huyết. Đó là đức tin bền chặt, đức tin vững chắc. Bởi vì, thánh Phaolô đã nói:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “ hoặc “ Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “. Chúa Giêsu cũng nói đến sự đau khổ, sự chết khi đề cập đến “ chén đắng “. Chén đắng mà hai ông Giacôbê và Gioan sẽ uống, chứ không phải là việc ngồi bên hữu bên tả của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta hay đau khổ là con đường, là cách thức Chúa Giêsu đã chọn để cứu độ con người, cứu vớt loài người. Nên, con đường đó, cách thức đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta đi theo “ Tôi tớ không lớn hơn Thầy “. Chúa Giêsu đã chọn cách thức duy nhất này để làm gương cho nhân loại, làm gương cho chúng ta.
Chúa Giêsu còn nói đến một ý nghĩa khác nữa trong đoạn Tin Mừng này :” Chúa báo trước cho những ai tin theo Ngài là vì đức tin, vì theo đạo, vì theo Người, họ có thể bị chính những người thân yêu của mình khinh chê, ghen ghét, ruồng bỏ vv…” . Lịch sử Giáo Hội cho thấy rất rõ, có nhiều người vì theo đạo, theo Chúa đã bị bách hại, đã bị giết chết. Máu của nhiều thánh tử đạo đã đổ ra rất nhiều nơi các Giáo hội địa phương. Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta hiểu rất rõ về nhiều cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Gia đình nào có người theo đạo, tin Chúa, người ấy liền bị những người trong gia đình khinh chê, ruồng bỏ vv…
Lịch sử cứu độ cho thấy suốt trong dòng lịch sử con người từ khi Thiên Chúa sáng tao vũ trụ, con người cho đến thời nay đã có biết nhiêu người đã dùng đức tin để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh, minh chứng cho Chúa là Đường, là Sự thật và Sự sống. Lửa cũng có nghĩa là lửa thiêng liêng Chúa thắp sáng nơi tâm hồn chúng ta để chúng ta luôn nhận ra Chúa, tin theo Chúa và làm tất cả mọi sự vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân hầu làm sáng danh và làm vinh danh Chúa. Lửa tình yêu, lửa cứu độ làm cho chúng ta luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa vì muôn hồng ân Chúa ban cho chúng ta. Dù chúng ta đang sống giữa những gian nan thử thách, những cạm bẫy bủa vây của ma quỷ, của sự dữ, nhưng chúng ta một mực tin tưởng nhờ lửa tình yêu, nhờ lửa cứu độ mà Thiên Chúa giải thoát chúng ta.
Công đồng Vaticanô II là Công đồng của Chúa Thánh Thần, đã thổi một luồng gió mới vào Giáo Hội, tuy nhiên cũng có nhiều người không muốn canh tân, đổi mới, nên cũng gây ra sự phân hóa, chia rẽ như lời Tin Mừng hôm nay. Tuy nhiên, sau cùng mọi người đều nhận ra rằng chỉ có “ Tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta “ và như thánh Augustinô nói :” Tốt đẹp biết bao vì Thiên Chúa là ngọn lửa bùng cháy làm cho chúng ta biết yêu mến Người”. Chúa Thánh Thần chính là ngọn lửa tình yếu đến hiệp nhất, thánh hóa, ban bình an cho Giáo Hội, cho chúng ta để chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đốt lên trong tâm hồn chúng con ngọn lửa tình yêu để chúng con biết luôn “ mặc lấy Đức Kitô “, hầu chúng ta mau mắn chuyền ngọn lửa đức tin, ngọn lửa cứu độ mà Chúa đã đem đến cho nhân loại, để chính ngọn lửa ấy cứu vớt loài người.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Lửa theo Chúa Giêsu có ý nghĩa gì ?
2.Chén đắng Chúa nói có nghĩa gì ?
3.Tại sao Chúa lại nói đem sự chia rẽ ?
4.Sự bình an có cần thiết không ?
5.Lửa cứu độ là gì ?
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:40 14/08/2019
7. Người khiêm tốn khi cầu nguyện với Chúa thì không dựa vào công đức của mình, nhưng chỉ dựa vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, cho nên Thiên Chúa chuẩn y mọi điều họ cầu cứu.
(Thánh Augustine)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
---------------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
https://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:46 14/08/2019
86. CÂY LIỄU KHÔNG LÁ
Dư Đào dạy học ở huyện Ngô, bởi vì quanh năm tìm kiếm mưu sinh ở bên ngoài nên quên mất các cảnh vật ở quê nhà. Ông ta nhìn thấy cây liễu ở huyện Ngô cành lá rũ dài thật đẹp nên xin chủ nhân một cành định gởi về quê nhà để trồng.
Chủ nhân nói:
- “Cây liễu này không đáng giá, ở đâu cũng có, lẽ nào quê ngài không có sao ?”
Dự Đào lúng túng, vò đầu gãi tai gắng gượng nói:
- “Cây liễu ở quê tôi nó không có lá ạ !!”
(Quảng Tiếu phủ)
Suy tư 86:
Cây dương liễu không phải là cây đặc biệt, cũng không phải là cây quý hiếm, vậy mà có người không biết là nó có lá hay không có lá...
Trong tất cả các cây thì chỉ có một cây trần trụi không lá không hoa không quả, thế mà nó lại là cây sự sống cho những kẻ tin đó là cây Thánh Giá của người Ki-tô hữu.
Cây Thánh Giá tuy không có lá nhưng lại có bóng mát để cho những người mệt nhọc chán chường núp bóng để có sức khỏe vươn lên; cây Thánh Giá tuy không có trái có quả nhưng có thể làm cho người đói khát được no, người yếu đuối được mạnh khoẻ, bởi vì hoa quả của nó chính là Đức Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh trên nó...
Tốn tiền để gởi cây dương liễu tầm thường về quê thì đúng là người dại, nhưng có những người Kitô hữu dại dột hơn khi chối bỏ cây Thánh Giá của mình để trở thành án phạt đời đời...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
https://nhantai.info
Dư Đào dạy học ở huyện Ngô, bởi vì quanh năm tìm kiếm mưu sinh ở bên ngoài nên quên mất các cảnh vật ở quê nhà. Ông ta nhìn thấy cây liễu ở huyện Ngô cành lá rũ dài thật đẹp nên xin chủ nhân một cành định gởi về quê nhà để trồng.
Chủ nhân nói:
- “Cây liễu này không đáng giá, ở đâu cũng có, lẽ nào quê ngài không có sao ?”
Dự Đào lúng túng, vò đầu gãi tai gắng gượng nói:
- “Cây liễu ở quê tôi nó không có lá ạ !!”
(Quảng Tiếu phủ)
Suy tư 86:
Cây dương liễu không phải là cây đặc biệt, cũng không phải là cây quý hiếm, vậy mà có người không biết là nó có lá hay không có lá...
Trong tất cả các cây thì chỉ có một cây trần trụi không lá không hoa không quả, thế mà nó lại là cây sự sống cho những kẻ tin đó là cây Thánh Giá của người Ki-tô hữu.
Cây Thánh Giá tuy không có lá nhưng lại có bóng mát để cho những người mệt nhọc chán chường núp bóng để có sức khỏe vươn lên; cây Thánh Giá tuy không có trái có quả nhưng có thể làm cho người đói khát được no, người yếu đuối được mạnh khoẻ, bởi vì hoa quả của nó chính là Đức Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh trên nó...
Tốn tiền để gởi cây dương liễu tầm thường về quê thì đúng là người dại, nhưng có những người Kitô hữu dại dột hơn khi chối bỏ cây Thánh Giá của mình để trở thành án phạt đời đời...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
https://nhantai.info
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời : Sự Khác Biệt
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
09:35 14/08/2019
Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời : Sự Khác Biệt
Chủ đề của bài giảng hôm nay là "sự khác biệt".
Bốn mươi ngày sau khi sống lại, Chúa Giêsu lên trời cả hồn lẫn xác. Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ của Người, đức Maria lên trời cả xác lẫn hồn. Tuy cùng một động tác lên trời cả hồn lẫn xác, nhưng có cái khác rất lớn giữa Mẹ và Con. Khác cái gì ? Ta sẽ trả lời.
Rồi khi ta kính một vị thánh, ta hát mừng vị thánh đó về trời, chứ không phải xuống đất. Hôm nay ta mừng thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, về trời. Cùng một động tác về trời, nhưng có cái khác biệt giữa các thánh kia với thánh Maria. Khác thế nào? Ta sẽ giải đáp.
1. Khác biệt giữa thánh Maria lên trời
và các thánh khác lên trời
Khác biệt nằm nơi chữ "xác". Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Các thánh khác chỉ về trời, nói nôm na dễ hiểu, phần hồn thôi. Còn xác thịt hư nát này phải chờ đợi đến ngày quang lâm vinh hiển mới được nhập lại với hồn mà cùng hưởng vinh quang Thiên quốc. Cho dẫu xác vị đó là xác của một vị đại thánh nào đi chăng nữa, cho dẫu xác vị thánh đó vẫn còn nguyên vẹn trải qua gần 750 năm như xác thánh Clara, thì xác đó đều phải chờ. Xác thánh Maria không chờ. Mà lên ngay. Về ngay trên thiên quốc cả xác lẫn hồn.
Niềm tin này đã có từ xa xưa, chứ không cần đợi đến ngày lễ các thánh 1-11-1950, khi ĐGH Pio 12 tuyên bố tín điều ĐM Hồn Xác về Trời, người ta mới tin. Dân chúng đã tin từ lâu, nên đã dệt nên một giai thoại mà chúng ta chắc đã nghe đến mòn tai. Giai thoại về ông Toma tông đồ cứng tin :
Lúc Đức Mẹ lên 64 tuổi, Đức Mẹ được Chúa cho biết ngày hội ngộ với Con trên Thiên đàng đã gần đến. Giáo dân càng bao quanh Mẹ vì sợ mất Mẹ, vì sợ giây phút chia ly. Các Tông đồ hay tin đã vội vã trở về, để được chiêm ngắm Mẹ lần cuối cùng.
Nhưng trong các Tông đồ có một vị chuyên môn lỡ hẹn là ông thánh Tôma. Lần này không phải lỗi ông, mà vì ông đi giảng xa quá về không kịp. Nghe nói xa nhất trong các tông đồ, tận miền Ấn Độ xa xôi. Khi về tới Ephêsô, nơi Đức Mẹ ở cùng Gioan trong những năm cuối đời, thì Đức Mẹ đã nằm xuống và được an táng trong một phần mộ khoét trong đá. Toma khóc lóc mong được thấy mặt mẹ của Thầy mình lần cuối, nên để làm vừa lòng Tôma, các Tông đồ và giáo dân đã đi ra phần mộ. Đến nơi, chỉ ngửi thấy phảng phất mùi hoa huệ thơm tho. Và khi mở hòn đá che huyệt ra thì không thấy xác Đức Mẹ Maria đâu cả.
Giai thoại thì thường không có thật, nhưng nó được xây dựng trên một niềm tin, trên một xác tín nào đó. Như giai thoại u Cơ lấy Lạc Long Quân đẻ ra bọc trứng 100 quả, nở thành 100 người con, nói lên niềm tin mọi người là đồng bào, cùng một bọc mà ra. Trong trường hợp giai thoại Toma này, xác tín đó là thánh Maria đã về trời cả hồn lẫn xác, khác với các vị thánh khác, chỉ mới về trời phần hồn, còn xác vẫn còn lưu lạc dưới đất. Mặc dầu thần học mới bây giờ không xem hồn xác tách biệt hoàn toàn sau khi chết, mà vẫn một cách nào đó liên kết với nhau, thì vẫn khác với xác vinh quang của thánh Maria, kết hợp hoàn toàn trọn vẹn với hồn và đang ở nơi Thiên Quốc. Đó là cái khác thứ nhất: thánh Maria khác với các thánh khác khi về trời. Khác nơi chứ "xác".
2. Khác biệt giữa Mẹ về trời cả hồn lẫn xác
với Con của Mẹ về trời cả xác lẫn hồn.
Điểm khác biệt ở đây, nằm nơi "động tác". Mẹ được đưa về trời. Con của Mẹ tự mình lên trời. Nếu chúng ta gọi đơn giản cho nhanh, lễ Chúa lên trời, lễ Mẹ lên trời, thì ta chưa nói được cái khác. Ngôn ngữ chính thức bằng tiếng Latinh dùng hai chữ khác nhau cho Mẹ và Con. Cho Con, phụng vụ dùng chữ Ascentio, Ascension 🡪 Ascenseur thang máy. Cho Mẹ, phụng vụ dùng chữ khác hẳn: Assumptio(n) : sự đảm nhận, sự bảo lãnh. Ai bảo lãnh ai. Chúa bảo lãnh Mẹ. Dễ hiểu hơn, Con bảo lãnh Mẹ. Không có người con ở bên Mỹ bảo lãnh, làm sao mẹ qua được nước Hoa Kỳ. Có lẽ từ ngữ xưa, lễ Mông Triệu, nói được ý này hơn. Mẹ được triệu về nơi cao xa. Mông là cao xa: mông lung, mênh mông. Triệu là gọi về, gọi đến. Triệu tập. (*)
Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội, ngay từ phút giây vào đời. Và đến giây phút lìa đời, Người Con này đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài bảo lãnh cho Mẹ được vào hưởng vinh quang thiên quốc cả xác lẫn hồn.
Chúa Giêsu Kitô cũng sẽ bảo lãnh cho chúng ta, những Kitô hữu đây được vào hưởng vinh quang cả xác lẫn hồn như Mẹ Maria, chỉ khác với Mẹ, một chút thôi, tức là Chúa sẽ nói với ta “xác hãy chờ một chút.” just a moment. Một chút của Chúa có thể là giây lát, có thể là mười năm, mà cũng có thể là thế hệ này đến thế hệ khác. Nhưng khi ta đã lìa đời này rồi, thì ta đã sống ngoài thời gian, nên khái niệm ngày giờ năm tháng không còn nữa, nên một chút so với ngàn năm cũng chỉ là một. Chờ một chút. Nhưng để đáng được Chúa nói chờ một chút với ta, ta hãy theo con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác. Con đường đó là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và "Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Mọi hành vi cử chỉ lời nói đều thấm nhuần Lời Chúa, Ý Chúa. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi lại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến, là được bảo lãnh về trời cả hồn lẫn xác, riêng xác, hãy đợi đấy, chờ một chút.
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
__________________________________________________
(*) có thể thêm một hay hai đoạn sau :
Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính – Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu – Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành phủ lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ – Chúa chúng ta dẫn mẹ Ngài lên ngai trên trời.
Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được bảo lãnh về trời cả hồn lẫn xác.
Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng Y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700.000 dân chúng dưới bầu trời tươi sáng, Đức Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm ngân vang khắp quảng trường Thánh Phêrô, vọng vang vào đền thờ chật ních hơn 80.000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm những lời trịnh trọng tuyên tín: "Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian này, đã được bảo lãnh hưởng phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự ý chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ phản bội đức tin Công Giáo của Thiên Chúa."
Chủ đề của bài giảng hôm nay là "sự khác biệt".
Bốn mươi ngày sau khi sống lại, Chúa Giêsu lên trời cả hồn lẫn xác. Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ của Người, đức Maria lên trời cả xác lẫn hồn. Tuy cùng một động tác lên trời cả hồn lẫn xác, nhưng có cái khác rất lớn giữa Mẹ và Con. Khác cái gì ? Ta sẽ trả lời.
Rồi khi ta kính một vị thánh, ta hát mừng vị thánh đó về trời, chứ không phải xuống đất. Hôm nay ta mừng thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, về trời. Cùng một động tác về trời, nhưng có cái khác biệt giữa các thánh kia với thánh Maria. Khác thế nào? Ta sẽ giải đáp.
1. Khác biệt giữa thánh Maria lên trời
và các thánh khác lên trời
Khác biệt nằm nơi chữ "xác". Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Các thánh khác chỉ về trời, nói nôm na dễ hiểu, phần hồn thôi. Còn xác thịt hư nát này phải chờ đợi đến ngày quang lâm vinh hiển mới được nhập lại với hồn mà cùng hưởng vinh quang Thiên quốc. Cho dẫu xác vị đó là xác của một vị đại thánh nào đi chăng nữa, cho dẫu xác vị thánh đó vẫn còn nguyên vẹn trải qua gần 750 năm như xác thánh Clara, thì xác đó đều phải chờ. Xác thánh Maria không chờ. Mà lên ngay. Về ngay trên thiên quốc cả xác lẫn hồn.
Niềm tin này đã có từ xa xưa, chứ không cần đợi đến ngày lễ các thánh 1-11-1950, khi ĐGH Pio 12 tuyên bố tín điều ĐM Hồn Xác về Trời, người ta mới tin. Dân chúng đã tin từ lâu, nên đã dệt nên một giai thoại mà chúng ta chắc đã nghe đến mòn tai. Giai thoại về ông Toma tông đồ cứng tin :
Lúc Đức Mẹ lên 64 tuổi, Đức Mẹ được Chúa cho biết ngày hội ngộ với Con trên Thiên đàng đã gần đến. Giáo dân càng bao quanh Mẹ vì sợ mất Mẹ, vì sợ giây phút chia ly. Các Tông đồ hay tin đã vội vã trở về, để được chiêm ngắm Mẹ lần cuối cùng.
Nhưng trong các Tông đồ có một vị chuyên môn lỡ hẹn là ông thánh Tôma. Lần này không phải lỗi ông, mà vì ông đi giảng xa quá về không kịp. Nghe nói xa nhất trong các tông đồ, tận miền Ấn Độ xa xôi. Khi về tới Ephêsô, nơi Đức Mẹ ở cùng Gioan trong những năm cuối đời, thì Đức Mẹ đã nằm xuống và được an táng trong một phần mộ khoét trong đá. Toma khóc lóc mong được thấy mặt mẹ của Thầy mình lần cuối, nên để làm vừa lòng Tôma, các Tông đồ và giáo dân đã đi ra phần mộ. Đến nơi, chỉ ngửi thấy phảng phất mùi hoa huệ thơm tho. Và khi mở hòn đá che huyệt ra thì không thấy xác Đức Mẹ Maria đâu cả.
Giai thoại thì thường không có thật, nhưng nó được xây dựng trên một niềm tin, trên một xác tín nào đó. Như giai thoại u Cơ lấy Lạc Long Quân đẻ ra bọc trứng 100 quả, nở thành 100 người con, nói lên niềm tin mọi người là đồng bào, cùng một bọc mà ra. Trong trường hợp giai thoại Toma này, xác tín đó là thánh Maria đã về trời cả hồn lẫn xác, khác với các vị thánh khác, chỉ mới về trời phần hồn, còn xác vẫn còn lưu lạc dưới đất. Mặc dầu thần học mới bây giờ không xem hồn xác tách biệt hoàn toàn sau khi chết, mà vẫn một cách nào đó liên kết với nhau, thì vẫn khác với xác vinh quang của thánh Maria, kết hợp hoàn toàn trọn vẹn với hồn và đang ở nơi Thiên Quốc. Đó là cái khác thứ nhất: thánh Maria khác với các thánh khác khi về trời. Khác nơi chứ "xác".
2. Khác biệt giữa Mẹ về trời cả hồn lẫn xác
với Con của Mẹ về trời cả xác lẫn hồn.
Điểm khác biệt ở đây, nằm nơi "động tác". Mẹ được đưa về trời. Con của Mẹ tự mình lên trời. Nếu chúng ta gọi đơn giản cho nhanh, lễ Chúa lên trời, lễ Mẹ lên trời, thì ta chưa nói được cái khác. Ngôn ngữ chính thức bằng tiếng Latinh dùng hai chữ khác nhau cho Mẹ và Con. Cho Con, phụng vụ dùng chữ Ascentio, Ascension 🡪 Ascenseur thang máy. Cho Mẹ, phụng vụ dùng chữ khác hẳn: Assumptio(n) : sự đảm nhận, sự bảo lãnh. Ai bảo lãnh ai. Chúa bảo lãnh Mẹ. Dễ hiểu hơn, Con bảo lãnh Mẹ. Không có người con ở bên Mỹ bảo lãnh, làm sao mẹ qua được nước Hoa Kỳ. Có lẽ từ ngữ xưa, lễ Mông Triệu, nói được ý này hơn. Mẹ được triệu về nơi cao xa. Mông là cao xa: mông lung, mênh mông. Triệu là gọi về, gọi đến. Triệu tập. (*)
Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội, ngay từ phút giây vào đời. Và đến giây phút lìa đời, Người Con này đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài bảo lãnh cho Mẹ được vào hưởng vinh quang thiên quốc cả xác lẫn hồn.
Chúa Giêsu Kitô cũng sẽ bảo lãnh cho chúng ta, những Kitô hữu đây được vào hưởng vinh quang cả xác lẫn hồn như Mẹ Maria, chỉ khác với Mẹ, một chút thôi, tức là Chúa sẽ nói với ta “xác hãy chờ một chút.” just a moment. Một chút của Chúa có thể là giây lát, có thể là mười năm, mà cũng có thể là thế hệ này đến thế hệ khác. Nhưng khi ta đã lìa đời này rồi, thì ta đã sống ngoài thời gian, nên khái niệm ngày giờ năm tháng không còn nữa, nên một chút so với ngàn năm cũng chỉ là một. Chờ một chút. Nhưng để đáng được Chúa nói chờ một chút với ta, ta hãy theo con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác. Con đường đó là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và "Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Mọi hành vi cử chỉ lời nói đều thấm nhuần Lời Chúa, Ý Chúa. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi lại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến, là được bảo lãnh về trời cả hồn lẫn xác, riêng xác, hãy đợi đấy, chờ một chút.
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
__________________________________________________
(*) có thể thêm một hay hai đoạn sau :
Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Roma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính – Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu – Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành phủ lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ – Chúa chúng ta dẫn mẹ Ngài lên ngai trên trời.
Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được bảo lãnh về trời cả hồn lẫn xác.
Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng Y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700.000 dân chúng dưới bầu trời tươi sáng, Đức Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm ngân vang khắp quảng trường Thánh Phêrô, vọng vang vào đền thờ chật ních hơn 80.000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm những lời trịnh trọng tuyên tín: "Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian này, đã được bảo lãnh hưởng phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự ý chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ phản bội đức tin Công Giáo của Thiên Chúa."
Con Vẫn Muốn “Mẹ Một Lần Ở Lại”
Lm. Trương Đình Hiền.
10:59 14/08/2019
Con Vẫn Muốn “Mẹ Một Lần Ở Lại”
LỄ MẸ VỀ TRỜI (15.8.2019)
Trong Phụng vụ Thánh lễ An Táng, Hội Thánh hay chọn bài đọc 1 từ Kinh Thánh Cựu Ước với trình thuật của sách Khôn Ngoan nói về cái chết của Người Công Chính :
Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và nỗi khốn khổ của sự chết không đụng tới các ngài. Đối với mắt người không hiểu, thì các ngài đã chết…là rơi vào cõi diệt vong….nhưng thật ra các ngài vẫn tràn đầy hy vọng và được bất tử…”.
Thì ra, ngay từ mạc khải Cựu Ước, Thiên Chúa đã hé mở “mầu nhiệm sống vĩnh hằng sau cái chết, sau khi con người từ giã cuộc sống”, cho dù sự mạc khải về chân lý đó chỉ mới dừng lại ở “sự sống của linh hồn” : Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội Công Giáo mừng kính một ngày “chết”, một ngày “từ giã cõi đời” của một người phụ nữ, như một ngày của niềm hân hoan, hy vọng của sự sống cả xác và hồn, như lời tuyên tín cách đây 69 năm của ĐGH Pio XII ngày 1.11.1950 trong tín điều Đức Maria hồn xác về trời :
“Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”.
Chúng ta thử dừng lại để tìm hiểu mầu nhiệm đặc biệt nầy :
Trước hết, Mẹ về trời chính là kết quả của sự phục sinh của Đức Kitô :
Chân lý nầy đã được Thánh Phaolô khai triển rất nhiều lần trong các bức thư của Ngài. Cách riêng, trong trích đoạn của Thư Cô-rin-tô mới vừa được công bố, đã khẳng định cách dứt khoát chân lý nền tảng nầy : “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc ngàn thu” (BĐ 2).
Đức Thánh GH Gioan-Phaolô II đã xác quyết chân lý nầy trong thông điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Chuộc) : “Trong mầu nhiệm lên trời hồn xác là biểu hiện đức tin của Giáo Hội, theo đó, Đức Maria được hợp nhất với Chúa Kitô bằng mọt mối liên kết mật thiết và không thể chia lìa”. Và như thế, lễ Mẹ về Trời chính là một tín hiệu vui mừng, là dấu chỉ của niềm hy vọng bao la cho đoàn dân Chúa, đoàn dân mà Mẹ chính là một “thành viên ưu tuyển” đi trước để dẫn đường như kinh Tiền Tụng Hội Thánh hát lên hôm nay: “Hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế.”
Quả thật, cuộc sống nầy nếu chỉ hạn hẹp trong khoảnh khắc “Trăm năm còn có gì đâu” để rồi tất cả khép lại trước cửa mồ sự chết “chỉ là một nấm cỏ khâu xanh rì”, thì bi đát cho thân phận kiếp người biết bao.
Không, nếu “con người là ảnh hình Thiên Chúa”, và ngay từ buổi khai sinh lập địa “Thiên Chúa đã hà hơi thổi thần khí tác sinh” vào trong cái hình hài hữu hạn bùn đất kia, thì chẳng phải thân phận ấy đã tiềm tàng hạt giống vĩnh hằng đó sao ? Và rồi, nếu cái chết đã theo vào trần gian do ảnh hưởng của tội lỗi và sự liên đới với A-đam đầu tiên, thì sự phục sinh vĩnh hằng sẽ chiếu rọi ánh quang hy vọng xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại nhờ hậu quả của công trình cứu độ và sự liên kết với Con Thiên Chúa làm người. “Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15, 22). Cho nên chúng ta có thể nói được rằng : mầu nhiệm “Đức Maria hồn Xác Về Trời” là một cách cắt nghĩa cụ thể chân lý cuối cùng mà Hội Thánh tuyên xưng trong Kinh Tin Kính : “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý : Xác tín về chân lý phục sinh, về niềm hy vọng vĩnh cửu không đồng nghĩa với thái độ trốn chạy hay né tránh khỏi mọi thực tại đảo điên, mọi đau thương khổ luỵ và những đe doạ kinh hoàng của sự chết đang vây bủa từng ngày. Bài sách Khải huyền hôm nay đã vẽ lên cái hiện thực đó : “Một điềm lạ….một người nữ mặc áo….đang mang thai, kêu la chuyển bụng….một con rồng đỏ….”. Cuộc lữ hành trần thế của Hội Thánh cũng như của mỗi người chúng ta dưới thế gian nầy đều phải đi qua con đường của đau thương, tăm tối, sự chết, bách hại… Mới hôm qua đây, ngày 14.8, Hội Thánh kính nhớ Thánh Tử đạo linh mục Maximilian Maria Kolbe, ngài đã bị quân Phát-xít Đức sát hại trong trại tù Auschwitz ngày áp lễ Mẹ Về Trời năm 1941, vì chấp nhận chết thay cho một bạn tù.
Phải chăng, vị thánh Tử Đạo vì tình yêu nầy đã xác tín về sự sống lại trong Đấng Phục Sinh, Đấng đã dõng dạc tuyên bố ngay trước cửa mồ của người chết Lazarô : “Chính Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).
Và hôm nay, để diễn ta “viễn tượng vinh thắng của Mẹ Hội Thánh sau cuộc lữ hành gian nan dưới thế, qua hình ảnh cuộc “trốn chạy của người phụ nữ mới sinh con vào hoang mạc”, sách Khải huyền, đã loan báo ngay những lời của “niềm tin chiến thắng” : “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta và uy quyền của Đức Kitô của Người đã được thực hiện”.
Vì thế, chiều kích giáo lý thứ hai mà ngày lễ hôm nay nhắm đến, phải chăng đó là : Mẹ Về trời : tiêu đích của cuộc hành trình đức tin.
Vâng, khi họp mừng lễ Mẹ về trời hôm nay, phụng vụ còn muốn nói với chúng ta rằng : ngày nay trên quê trời, chắc chắn Mẹ cũng đang dõi mắt theo từng bước chân của mỗi cuộc đời con cái dưới chốn trần ai. Nếu phải dùng một hình ảnh nào đó để minh hoạ cho chân lý nầy, chúng ta có thể mượn hình ảnh của bà mẹ Việt nam trong ca khúc “Huyền thoại Mẹ” của cố NS Trịnh Công Sơn : “Mẹ về đứng dưới mưa, che đàn con nằm ngủ, canh từng bước chân thù, mẹ ngồi dưới cơn mưa…Mẹ là gió uốn quanh trên đời con thầm lặng, trong câu hát thanh bình, mẹ làm gió mong manh…Mẹ là nước chứa chan trôi dùm con phiền muộn, cho đời mãi trong lành, mẹ chìm dưới gian nan…”.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc thăm viếng của Đức Maria nơi nhà Bà Isave để từ nơi mái nhà nầy đã vang lên lời tạ ơn và chúc tụng hồng ân cứu rỗi Thiên Chúa đã dành cho nhân loại mà người đầu tiên được hưởng nhờ là chính Đức Maria : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hởn hở vui mừng, vì Thiên chúa Đấng Cứu độ tôi….Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, thật Danh Người chí thánh chí tôn…”.
Như thế, lễ Mẹ Về Trời lại mở ra cho chúng ta chiều kích của một “Cuộc Thăm viếng Mới”. Mẹ lại đến chia sẻ niềm vui ơn cứu độ và hy vọng phục sinh cho “con cháu E-và” đang dập vùi trong “chốn khách đày, nơi khóc lóc” (Kinh Lạy nữ Vương), và cũng lại một lần nữa gọi mời con cái Mẹ tiếp tục lên đường với Mẹ để mở ra những cuộc “thăm viếng khác” đến muôn vạn mái nhà, đến trăm nghìn địa chỉ, nhất là những địa chỉ tối tăm, đói khổ, tật bệnh, lầm lạc…đang cần bừng sáng lên những lời tin yêu Magnificat : “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Thần trí tôi hớn hở reo mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi…”.
Mỗi một người và mỗi cộng đoàn Kitô hữu, chắc chắn luôn mong ước có Mẹ luôn bao bọc chở che, luôn đồng hành và thăm viếng, như cách ước mơ trong bài thơ “Xin một lần ở lại”, cho dù biết và tin rằng rằng Mẹ Về Trời nhưng Mẹ vẫn không bao giờ xa cách :
Ở lại với chúng con đi,
Thế giới hôm nay đang cần Mẹ lắm.
Rất nhiều anh chị em chúng con đang như kẻ mồ côi.
Biết Mẹ về trời, nào đâu biền biệt xa xôi,
Nhưng con vẫn muốn,
Mẹ ơi, xin một lần ở lại !
Tôi cũng xin cầu chúc cho cộng đoàn và cho mỗi người luôn có Mẹ ở lại với chúng ta. Amen.
Lm. Trương Đình Hiền.
LỄ MẸ VỀ TRỜI (15.8.2019)
Trong Phụng vụ Thánh lễ An Táng, Hội Thánh hay chọn bài đọc 1 từ Kinh Thánh Cựu Ước với trình thuật của sách Khôn Ngoan nói về cái chết của Người Công Chính :
Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và nỗi khốn khổ của sự chết không đụng tới các ngài. Đối với mắt người không hiểu, thì các ngài đã chết…là rơi vào cõi diệt vong….nhưng thật ra các ngài vẫn tràn đầy hy vọng và được bất tử…”.
Thì ra, ngay từ mạc khải Cựu Ước, Thiên Chúa đã hé mở “mầu nhiệm sống vĩnh hằng sau cái chết, sau khi con người từ giã cuộc sống”, cho dù sự mạc khải về chân lý đó chỉ mới dừng lại ở “sự sống của linh hồn” : Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội Công Giáo mừng kính một ngày “chết”, một ngày “từ giã cõi đời” của một người phụ nữ, như một ngày của niềm hân hoan, hy vọng của sự sống cả xác và hồn, như lời tuyên tín cách đây 69 năm của ĐGH Pio XII ngày 1.11.1950 trong tín điều Đức Maria hồn xác về trời :
“Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”.
Chúng ta thử dừng lại để tìm hiểu mầu nhiệm đặc biệt nầy :
Trước hết, Mẹ về trời chính là kết quả của sự phục sinh của Đức Kitô :
Chân lý nầy đã được Thánh Phaolô khai triển rất nhiều lần trong các bức thư của Ngài. Cách riêng, trong trích đoạn của Thư Cô-rin-tô mới vừa được công bố, đã khẳng định cách dứt khoát chân lý nền tảng nầy : “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc ngàn thu” (BĐ 2).
Đức Thánh GH Gioan-Phaolô II đã xác quyết chân lý nầy trong thông điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Chuộc) : “Trong mầu nhiệm lên trời hồn xác là biểu hiện đức tin của Giáo Hội, theo đó, Đức Maria được hợp nhất với Chúa Kitô bằng mọt mối liên kết mật thiết và không thể chia lìa”. Và như thế, lễ Mẹ về Trời chính là một tín hiệu vui mừng, là dấu chỉ của niềm hy vọng bao la cho đoàn dân Chúa, đoàn dân mà Mẹ chính là một “thành viên ưu tuyển” đi trước để dẫn đường như kinh Tiền Tụng Hội Thánh hát lên hôm nay: “Hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế.”
Quả thật, cuộc sống nầy nếu chỉ hạn hẹp trong khoảnh khắc “Trăm năm còn có gì đâu” để rồi tất cả khép lại trước cửa mồ sự chết “chỉ là một nấm cỏ khâu xanh rì”, thì bi đát cho thân phận kiếp người biết bao.
Không, nếu “con người là ảnh hình Thiên Chúa”, và ngay từ buổi khai sinh lập địa “Thiên Chúa đã hà hơi thổi thần khí tác sinh” vào trong cái hình hài hữu hạn bùn đất kia, thì chẳng phải thân phận ấy đã tiềm tàng hạt giống vĩnh hằng đó sao ? Và rồi, nếu cái chết đã theo vào trần gian do ảnh hưởng của tội lỗi và sự liên đới với A-đam đầu tiên, thì sự phục sinh vĩnh hằng sẽ chiếu rọi ánh quang hy vọng xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại nhờ hậu quả của công trình cứu độ và sự liên kết với Con Thiên Chúa làm người. “Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15, 22). Cho nên chúng ta có thể nói được rằng : mầu nhiệm “Đức Maria hồn Xác Về Trời” là một cách cắt nghĩa cụ thể chân lý cuối cùng mà Hội Thánh tuyên xưng trong Kinh Tin Kính : “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý : Xác tín về chân lý phục sinh, về niềm hy vọng vĩnh cửu không đồng nghĩa với thái độ trốn chạy hay né tránh khỏi mọi thực tại đảo điên, mọi đau thương khổ luỵ và những đe doạ kinh hoàng của sự chết đang vây bủa từng ngày. Bài sách Khải huyền hôm nay đã vẽ lên cái hiện thực đó : “Một điềm lạ….một người nữ mặc áo….đang mang thai, kêu la chuyển bụng….một con rồng đỏ….”. Cuộc lữ hành trần thế của Hội Thánh cũng như của mỗi người chúng ta dưới thế gian nầy đều phải đi qua con đường của đau thương, tăm tối, sự chết, bách hại… Mới hôm qua đây, ngày 14.8, Hội Thánh kính nhớ Thánh Tử đạo linh mục Maximilian Maria Kolbe, ngài đã bị quân Phát-xít Đức sát hại trong trại tù Auschwitz ngày áp lễ Mẹ Về Trời năm 1941, vì chấp nhận chết thay cho một bạn tù.
Phải chăng, vị thánh Tử Đạo vì tình yêu nầy đã xác tín về sự sống lại trong Đấng Phục Sinh, Đấng đã dõng dạc tuyên bố ngay trước cửa mồ của người chết Lazarô : “Chính Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).
Và hôm nay, để diễn ta “viễn tượng vinh thắng của Mẹ Hội Thánh sau cuộc lữ hành gian nan dưới thế, qua hình ảnh cuộc “trốn chạy của người phụ nữ mới sinh con vào hoang mạc”, sách Khải huyền, đã loan báo ngay những lời của “niềm tin chiến thắng” : “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta và uy quyền của Đức Kitô của Người đã được thực hiện”.
Vì thế, chiều kích giáo lý thứ hai mà ngày lễ hôm nay nhắm đến, phải chăng đó là : Mẹ Về trời : tiêu đích của cuộc hành trình đức tin.
Vâng, khi họp mừng lễ Mẹ về trời hôm nay, phụng vụ còn muốn nói với chúng ta rằng : ngày nay trên quê trời, chắc chắn Mẹ cũng đang dõi mắt theo từng bước chân của mỗi cuộc đời con cái dưới chốn trần ai. Nếu phải dùng một hình ảnh nào đó để minh hoạ cho chân lý nầy, chúng ta có thể mượn hình ảnh của bà mẹ Việt nam trong ca khúc “Huyền thoại Mẹ” của cố NS Trịnh Công Sơn : “Mẹ về đứng dưới mưa, che đàn con nằm ngủ, canh từng bước chân thù, mẹ ngồi dưới cơn mưa…Mẹ là gió uốn quanh trên đời con thầm lặng, trong câu hát thanh bình, mẹ làm gió mong manh…Mẹ là nước chứa chan trôi dùm con phiền muộn, cho đời mãi trong lành, mẹ chìm dưới gian nan…”.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc thăm viếng của Đức Maria nơi nhà Bà Isave để từ nơi mái nhà nầy đã vang lên lời tạ ơn và chúc tụng hồng ân cứu rỗi Thiên Chúa đã dành cho nhân loại mà người đầu tiên được hưởng nhờ là chính Đức Maria : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hởn hở vui mừng, vì Thiên chúa Đấng Cứu độ tôi….Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, thật Danh Người chí thánh chí tôn…”.
Như thế, lễ Mẹ Về Trời lại mở ra cho chúng ta chiều kích của một “Cuộc Thăm viếng Mới”. Mẹ lại đến chia sẻ niềm vui ơn cứu độ và hy vọng phục sinh cho “con cháu E-và” đang dập vùi trong “chốn khách đày, nơi khóc lóc” (Kinh Lạy nữ Vương), và cũng lại một lần nữa gọi mời con cái Mẹ tiếp tục lên đường với Mẹ để mở ra những cuộc “thăm viếng khác” đến muôn vạn mái nhà, đến trăm nghìn địa chỉ, nhất là những địa chỉ tối tăm, đói khổ, tật bệnh, lầm lạc…đang cần bừng sáng lên những lời tin yêu Magnificat : “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Thần trí tôi hớn hở reo mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi…”.
Mỗi một người và mỗi cộng đoàn Kitô hữu, chắc chắn luôn mong ước có Mẹ luôn bao bọc chở che, luôn đồng hành và thăm viếng, như cách ước mơ trong bài thơ “Xin một lần ở lại”, cho dù biết và tin rằng rằng Mẹ Về Trời nhưng Mẹ vẫn không bao giờ xa cách :
Ở lại với chúng con đi,
Thế giới hôm nay đang cần Mẹ lắm.
Rất nhiều anh chị em chúng con đang như kẻ mồ côi.
Biết Mẹ về trời, nào đâu biền biệt xa xôi,
Nhưng con vẫn muốn,
Mẹ ơi, xin một lần ở lại !
Tôi cũng xin cầu chúc cho cộng đoàn và cho mỗi người luôn có Mẹ ở lại với chúng ta. Amen.
Lm. Trương Đình Hiền.
Dẫn Nhập và Lời Nguyện Giáo Dân Lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời 15.8.2019
Lm Francis Lý văn Ca
14:19 14/08/2019
ÐẦU LỄ: Anh Chị Em thân mến,
Mừng lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở chúng ta là Mẹ được Thiên Chúa ban cho chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa. Mẹ luôn giúp đỡ chúng ta trong cuộc chiến đấu tiến về quê trời. Phần thưởng Đức Mẹ nhận lãnh cho cuộc đời phục vụ, hứa hẹn cho chúng ta cũng được thưởng công cho cuộc đời vất vả của chúng ta. Chúng ta chắc chắn được hưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng. Chúa Giêsu đón mừng Đức Mẹ lên trời cũng sẽ chào đón chúng ta về thiên đàng.
Việc tôn sùng Ðức Trinh Nữ Maria ngày nay đã trở thành môt vấn đề tế nhị. Các nhà thần học thi nhau bàn cãi: Người thì chủ trương không được tôn sùng, vì việc tôn sùng Ðức Mẹ có thể làm lấn át Chúa Kitô. Kẻ khác ngược lại, coi Mẹ như một Bà Chúa nào đó cao cả, phải tối đa tôn sùng.
Lòng sùng kính Mẹ phải nhằm mục đích làm sáng danh Thiên Chúa, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. Với mục đích nầy, Mẹ đã trở nên người lý tưởng cho mỗi người tín hữu chúng ta. Mẹ được Chúa Cha kén chọn làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể và được tưởng thưởng hồn xác lên trời. Chúng ta nhìn lên Mẹ, theo gương sống của Mẹ và xin Mẹ dẫn chúng ta đến cùng Ðức Kitô, Con Mẹ và gặp gỡ được Thiên Chúa.
Hôm nay, mừng kính Mẹ về trời cũng là dịp để chúng ta chúc mừng các bà mẹ, bà chị đã chọn Mẹ làm quan thầy của mình. Ước chi trong ngày lễ hôm nay, Mẹ ban tràn đầy hồng ân của Mẹ cho các bà mẹ và các bà chị.
Giờ đây, xin kính mời Cộng Ðoàn đứng lên, cùng hợp tiếng xướng lên bài ca đầu lễ mừng kính Mẹ hồn xác lên trời hôm nay.
TRƯỚC BÀI I:
Người con được sinh ra do người nữ trong bài đọc thứ I chúng ta sắp nghe, ám chỉ Chúa Giêsu sẽ được Ðức Maria sinh ra. Ðấng sẽ chiến thắng quỷ dữ. Phần người nữ sẽ được Chúa cất đi nơi khác, ám chỉ sự siêu thăng của Mẹ.
TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô so sánh sự dữ đã nhập vào thế gian do sự phản bội của Ađam cũ thế nào thì giờ đây, qua Ađam Mới - là Ðức Kitô - ơn cứu rỗi đã đến trong thế gian. Ðể công trình cứu chuộc được viên mãn, chính Mẹ Maria đã cộng tác trong chương trình nầy.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Mẹ đi viếng bà Elizabeth nói lên tinh thần chia sẻ niềm vui cứu độ mà Mẹ đang cưu mang. Ðồng thời, Mẹ cũng tỏ tinh thần cụ thể qua sự giúp đỡ bà Elizabeth trong tình họ hàng.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã đáp lời Mẹ thỉnh cầu, làm phép lạ cho nước hoá rượu ngon. Giờ đây, chúng ta nhờ Mẹ chuyển những lời cầu xin của chúng ta lên trước tôn nhan Thiên Chúa.
1. Xin Mẹ nhìn đến đoàn con Việt Nam đang mừng kính vinh hiển của Mẹ trên trời: Xin ban cho Quê Hương và Giáo Hội Mẹ Việt Nam luôn bình an thịnh đạt. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Xin cho những nhân đức rạng ngời của Mẹ chiếu soi trên những chị em đã chọn Mẹ làm quan thầy: để họ luôn rập theo mẫu mực của Mẹ trong đời sống của người Kitô hữu. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin cho mỗi người tín hữu chúng ta luôn biết noi gương Mẹ: đến với anh chị em không cần báo đáp, quên mình để gặp gỡ Chúa nơi tha nhân trong tinh thần phục vụ. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Nhân ngày mừng kính Mẹ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa gia tăng lòng hăng say hoạt động tông đồ nơi mỗi người tín hữu chúng ta, để Cộng Ðoàn dân Chúa khắp nơi có thêm nhiều tông đồ nhiệt thành gia nhập những những đoàn thể mang danh thánh của Mẹ. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các tôi tớ của Chúa đã qua đời, nhờ sự từ của Chúa và lời cầu nguyện của chúng ta, các ngài được vinh phúc như Mẹ Maria. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Cha từ ái, qua việc Cha ban cho Mẹ được vinh hiển trên thiên quốc, Cha đã cho chúng con được cơ hội hiệp thông niềm vui với Mẹ. Xin Cha ban cho chúng con những nguyện ước mà chúng con nhờ Mẹ chuyển cầu hôm nay. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Mừng lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở chúng ta là Mẹ được Thiên Chúa ban cho chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa. Mẹ luôn giúp đỡ chúng ta trong cuộc chiến đấu tiến về quê trời. Phần thưởng Đức Mẹ nhận lãnh cho cuộc đời phục vụ, hứa hẹn cho chúng ta cũng được thưởng công cho cuộc đời vất vả của chúng ta. Chúng ta chắc chắn được hưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng. Chúa Giêsu đón mừng Đức Mẹ lên trời cũng sẽ chào đón chúng ta về thiên đàng.
Việc tôn sùng Ðức Trinh Nữ Maria ngày nay đã trở thành môt vấn đề tế nhị. Các nhà thần học thi nhau bàn cãi: Người thì chủ trương không được tôn sùng, vì việc tôn sùng Ðức Mẹ có thể làm lấn át Chúa Kitô. Kẻ khác ngược lại, coi Mẹ như một Bà Chúa nào đó cao cả, phải tối đa tôn sùng.
Lòng sùng kính Mẹ phải nhằm mục đích làm sáng danh Thiên Chúa, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. Với mục đích nầy, Mẹ đã trở nên người lý tưởng cho mỗi người tín hữu chúng ta. Mẹ được Chúa Cha kén chọn làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể và được tưởng thưởng hồn xác lên trời. Chúng ta nhìn lên Mẹ, theo gương sống của Mẹ và xin Mẹ dẫn chúng ta đến cùng Ðức Kitô, Con Mẹ và gặp gỡ được Thiên Chúa.
Hôm nay, mừng kính Mẹ về trời cũng là dịp để chúng ta chúc mừng các bà mẹ, bà chị đã chọn Mẹ làm quan thầy của mình. Ước chi trong ngày lễ hôm nay, Mẹ ban tràn đầy hồng ân của Mẹ cho các bà mẹ và các bà chị.
Giờ đây, xin kính mời Cộng Ðoàn đứng lên, cùng hợp tiếng xướng lên bài ca đầu lễ mừng kính Mẹ hồn xác lên trời hôm nay.
TRƯỚC BÀI I:
Người con được sinh ra do người nữ trong bài đọc thứ I chúng ta sắp nghe, ám chỉ Chúa Giêsu sẽ được Ðức Maria sinh ra. Ðấng sẽ chiến thắng quỷ dữ. Phần người nữ sẽ được Chúa cất đi nơi khác, ám chỉ sự siêu thăng của Mẹ.
TRƯỚC BÀI II:
Thánh Phaolô so sánh sự dữ đã nhập vào thế gian do sự phản bội của Ađam cũ thế nào thì giờ đây, qua Ađam Mới - là Ðức Kitô - ơn cứu rỗi đã đến trong thế gian. Ðể công trình cứu chuộc được viên mãn, chính Mẹ Maria đã cộng tác trong chương trình nầy.
TRƯỚC BÀI TIN MỪNG:
Mẹ đi viếng bà Elizabeth nói lên tinh thần chia sẻ niềm vui cứu độ mà Mẹ đang cưu mang. Ðồng thời, Mẹ cũng tỏ tinh thần cụ thể qua sự giúp đỡ bà Elizabeth trong tình họ hàng.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã đáp lời Mẹ thỉnh cầu, làm phép lạ cho nước hoá rượu ngon. Giờ đây, chúng ta nhờ Mẹ chuyển những lời cầu xin của chúng ta lên trước tôn nhan Thiên Chúa.
1. Xin Mẹ nhìn đến đoàn con Việt Nam đang mừng kính vinh hiển của Mẹ trên trời: Xin ban cho Quê Hương và Giáo Hội Mẹ Việt Nam luôn bình an thịnh đạt. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Xin cho những nhân đức rạng ngời của Mẹ chiếu soi trên những chị em đã chọn Mẹ làm quan thầy: để họ luôn rập theo mẫu mực của Mẹ trong đời sống của người Kitô hữu. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin cho mỗi người tín hữu chúng ta luôn biết noi gương Mẹ: đến với anh chị em không cần báo đáp, quên mình để gặp gỡ Chúa nơi tha nhân trong tinh thần phục vụ. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Nhân ngày mừng kính Mẹ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa gia tăng lòng hăng say hoạt động tông đồ nơi mỗi người tín hữu chúng ta, để Cộng Ðoàn dân Chúa khắp nơi có thêm nhiều tông đồ nhiệt thành gia nhập những những đoàn thể mang danh thánh của Mẹ. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho các tôi tớ của Chúa đã qua đời, nhờ sự từ của Chúa và lời cầu nguyện của chúng ta, các ngài được vinh phúc như Mẹ Maria. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Cha từ ái, qua việc Cha ban cho Mẹ được vinh hiển trên thiên quốc, Cha đã cho chúng con được cơ hội hiệp thông niềm vui với Mẹ. Xin Cha ban cho chúng con những nguyện ước mà chúng con nhờ Mẹ chuyển cầu hôm nay. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Dẫn Nhập và Lời Nguyện Giáo Dân Chủ Nhật 20 Mùa Quanh Năm C 18.8.2019
Lm Francis Lý văn Ca
17:19 14/08/2019
Đầu Lễ: Anh Chị Em thân mến,
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phần nào ý thức được câu nói của cha ông: "Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết".
Chủ đề của các bài đọc hôm nay, khuyến khích chúng ta sống đúng với danh hiệu "Kitô hữu". Người đời thường nói :"Lời thật thì mích lòng". Tiên tri Giêrêmia hôm nay đã đề cập đến một sự thật, điều nầy đã chạm tự ái của dân Dothái, cho nên họ đã a dua tố cáo ông. Nhưng Thiên Chúa đã cứu ông.
Chúa Kitô, qua bài Tin Mừng, đã mang lửa xuống trần gian và Ngài ước mong lửa nầy luôn cháy. Đôi lúc vì lửa nầy luôn tỏa chiếu mà người chung quanh đâm ra bực dọc với ánh sáng của chúng ta. Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn để mỗi người trong chúng ta trở thành những môn đệ trung kiên sống không chỉ bằng lời nói mà còn minh chứng bằng chính cuộc sống của mình.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta cùng hiệp tiếng với ca đoàn bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Tiên tri Giêrêmia bị dân bản xứ thù ghét, vì ông chỉnh đốn họ. Lời ông đã chạm đến đời sống thực tế của họ. Cho nên họ đã tống ông xuống giếng cạn, nhưng Chúa đã cứu ông.
TRƯỚC BÀI II:
Qua hình ảnh Đức Kitô chết trên thập tự... Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta can đảm chấp nhận những khó khăn xảy ra trong đời sống hằng ngày.
TRƯỚC BÀI PÂ:
Chúa Kitô cho chúng ta thấy thái độ của người đời tại sao họ ghen ghét chúng ta. Bởi vì chúng ta đã bước đi trong ánh sáng của Chúa. Họ yêu chuộng bóng tối, sự dữ nhiều hơn sự lành. Chúng ta hân hoan bước đi trong ánh sáng soi dẫn của Chúa.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta đang quây quần để cử hành mầu nhiệm ThánhThể và học hỏi Lời Chúa trong Kinh Thánh. Giờ đây trước tôn nhan Đấng Tối Cao, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Với ơn thánh Chúa hộ phù, xin giúp chúng ta biết canh tân cuộc sống nơi môi trường chúng ta đang sinh sống. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Qua sự canh tân cuộc sống trong gia đình, học đường, cộng đoàn… chúng ta sẽ mang lửa yêu thương của Chúa đến cho anh em đồng loại. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Trong sự canh tân, xin giúp mỗi người tín hữu chúng ta ý thức về phép công bằng, thành thật trong công ăn việc làm, ngõ hầu để lại những mẫu gương sáng cho thế hệ mai sau. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Là những phần tử của nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo Hội, qua những sinh hoạt trong các đoàn thể, xin cho tình thân ái giữa chúng ta ngày thêm triển nở. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho giới trẻ, với bầu nhiệt huyết hăng say đang nỗ lực nối kết những bàn tay, những khối óc trong cộng đoàn-xứ đạo, xin cho những cố gắng nầy sẽ đóng góp thật nhiều cho tương lai của Giới Trẻ. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Với lòng thành chúng con dâng lên Chúa những lời nguyện cầu cho tha nhân và cho chính chúng con cũng như cộng đoàn dân Chúa. Xin Chúa nhậm lấy như chính của lễ Con Chúa dâng trên bàn thờ hôm nay. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phần nào ý thức được câu nói của cha ông: "Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết".
Chủ đề của các bài đọc hôm nay, khuyến khích chúng ta sống đúng với danh hiệu "Kitô hữu". Người đời thường nói :"Lời thật thì mích lòng". Tiên tri Giêrêmia hôm nay đã đề cập đến một sự thật, điều nầy đã chạm tự ái của dân Dothái, cho nên họ đã a dua tố cáo ông. Nhưng Thiên Chúa đã cứu ông.
Chúa Kitô, qua bài Tin Mừng, đã mang lửa xuống trần gian và Ngài ước mong lửa nầy luôn cháy. Đôi lúc vì lửa nầy luôn tỏa chiếu mà người chung quanh đâm ra bực dọc với ánh sáng của chúng ta. Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn để mỗi người trong chúng ta trở thành những môn đệ trung kiên sống không chỉ bằng lời nói mà còn minh chứng bằng chính cuộc sống của mình.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta cùng hiệp tiếng với ca đoàn bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Tiên tri Giêrêmia bị dân bản xứ thù ghét, vì ông chỉnh đốn họ. Lời ông đã chạm đến đời sống thực tế của họ. Cho nên họ đã tống ông xuống giếng cạn, nhưng Chúa đã cứu ông.
TRƯỚC BÀI II:
Qua hình ảnh Đức Kitô chết trên thập tự... Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta can đảm chấp nhận những khó khăn xảy ra trong đời sống hằng ngày.
TRƯỚC BÀI PÂ:
Chúa Kitô cho chúng ta thấy thái độ của người đời tại sao họ ghen ghét chúng ta. Bởi vì chúng ta đã bước đi trong ánh sáng của Chúa. Họ yêu chuộng bóng tối, sự dữ nhiều hơn sự lành. Chúng ta hân hoan bước đi trong ánh sáng soi dẫn của Chúa.
Lời Nguyện Giáo Dân
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta đang quây quần để cử hành mầu nhiệm ThánhThể và học hỏi Lời Chúa trong Kinh Thánh. Giờ đây trước tôn nhan Đấng Tối Cao, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Với ơn thánh Chúa hộ phù, xin giúp chúng ta biết canh tân cuộc sống nơi môi trường chúng ta đang sinh sống. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Qua sự canh tân cuộc sống trong gia đình, học đường, cộng đoàn… chúng ta sẽ mang lửa yêu thương của Chúa đến cho anh em đồng loại. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Trong sự canh tân, xin giúp mỗi người tín hữu chúng ta ý thức về phép công bằng, thành thật trong công ăn việc làm, ngõ hầu để lại những mẫu gương sáng cho thế hệ mai sau. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Là những phần tử của nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo Hội, qua những sinh hoạt trong các đoàn thể, xin cho tình thân ái giữa chúng ta ngày thêm triển nở. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho giới trẻ, với bầu nhiệt huyết hăng say đang nỗ lực nối kết những bàn tay, những khối óc trong cộng đoàn-xứ đạo, xin cho những cố gắng nầy sẽ đóng góp thật nhiều cho tương lai của Giới Trẻ. Chúng ta cùng nguyện xin.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Với lòng thành chúng con dâng lên Chúa những lời nguyện cầu cho tha nhân và cho chính chúng con cũng như cộng đoàn dân Chúa. Xin Chúa nhậm lấy như chính của lễ Con Chúa dâng trên bàn thờ hôm nay. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Mẹ lên trời nhờ liên đới
Lm Nguyễn Xuân Trường
20:15 14/08/2019
Bài Sách Thánh lễ Đức Mẹ lên trời viết rằng: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết… mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” Liên đới với Đức Kitô chính là lý do căn bản để Đức Mẹ lên trời.
Còn ai liên đới chặt chẽ với Chúa Giêsu hơn Mẹ Maria? Mẹ cưu mang Chúa trong lòng dạ. Thiên Chúa vô hình đã nên hình nên dạng nhờ chính máu thịt Mẹ. Chúa lớn lên từ chính dòng sữa Mẹ. Suốt đời Mẹ từ khi cất tiếng “xin vâng” cho tới chân thập giá là cả đời liên đới gắn chặt với Chúa. Mẹ không tách rời Chúa. Nên Chúa về trời thì Mẹ cũng về trời.
Và Chúa đã làm người. Thế nên, một khi liên đới với Chúa thì Mẹ cũng liên đới với con người. Phúc Âm lễ Mẹ về trời kể chuyện Mẹ liên đới với con người qua việc đi thăm bà Êlisabét. Mẹ đến phục vụ bà, đem Chúa cho bà để cả nhà bà chan chứa niềm vui.
Thì ra, con đường đi đến với anh chị em trong yêu thương phục vụ cũng là con đường dẫn chúng ta về trời cao với Chúa. Hãy cùng nhau ngân nga câu hát: Mẹ ơi, đời con dõi bước theo Mẹ… để được về trời cùng Mẹ. Amen.
Bắc Ninh
Maria thật diễm phúc hơn mọi người phụ nữ
Lm Đan Vinh
23:11 14/08/2019
Lễ Mẹ Hồn Xác lên trời
Kh 11,19a. 12,1-6a,10ab; 1 Cr 15,20-27;Lc 1,39-45
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.(53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
- C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
- C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
- C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI:
1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ?
2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ?
3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì ?
4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà ?
5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì ?
6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu và để làm gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC MA-RI-A HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và bệ chân của Thiên Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A, HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) TỪ TÍN ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA ĐẾN TÍN ĐIỀU MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3) NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ ĐẶC ÂN HỒN XÁC LÊN TRỜI CỦA ĐỨC MA-RI-A:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
4) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI TIN CẬY CẦU XIN NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công Giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công Giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU VÀ MẸ HỘI THÁNH :
a) Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Giê-su : Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7). Mẹ không những có phúc vì đã cưu mang nuôi dưỡng Người, mà còn vì đã « lắng nghe và thực hành Lời Chúa » (x. Lc 11,27-28).
b) Đức Ma-ri-a là Mẹ Hội Thánh :
-Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên, Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,25-27). Theo lời trối của Thầy, môn đệ Gio-an đã đại diện Hội Thánh đón Đức Ma-ri-a về nhà mà phụng dưỡng thay Thầy.
-Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta hôm nay.
2) ĐỨC MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC:
+ Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa ở cùng như lời sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và được nhìn xem Thiên Chúa (x. Mt 5,8).
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức Maria chứa đựng Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là Ma-ri-a có phúc vì đã nghe và thực hành Lời Chúa như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người đã sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
3) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC CHÚA TRIỆU HỒI VỀ TRỜI:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng hằng chuyển cầu cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ để cũng được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai đã cùng Mẹ xin ơn Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giê-su lên trời (x. Cv 1,14).
4) SỐNG TIN YÊU VÀ PHỤC VỤ LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VỀ TRỜI VỚI MẸ:
- Đức Ma-ri-a đã nêu gương sống đức tin: Trong biến cố truyền tin, Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa dạy và mau mắn xin vâng ý Chúa (x. Lc 1,30-36). Hôm nay chúng ta cũng phải năng đến nhà thờ dâng lễ Chúa Nhật, lắng nghe Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày, tham dự nhóm Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần để gia tăng đức tin, nhờ đó sẽ có thể tích cực loan báo Tin Mừng bằng đời sống chứng nhân bác ái.
- Đức Ma-ri-a cũng nêu gương sống tình thương cụ thể: Mẹ dấn thân đi bước trước đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, để đem niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng’ trong lòng mẹ. Sau đó Mẹ đã ở lại 3 tháng để giúp đỡ cho tới khi bà này sinh con, rồi mới về lại nhà mình (x. Lc 1,39-56). Về sau Mẹ còn quan tâm giúp đôi tân hôn tại thành Ca-na bằng việc cầu bầu với Đức Giê-su và đã được Người nghe lời làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon (x. Ga 2,1-11).
- Tình thương nơi Mẹ Ma-ri-a luôn gắn liền với hành động cụ thể là chia sẻ và phục vụ : Hôm nay mỗi tín hữu chúng ta muốn được lên trời với Mẹ cũng phải sống tin yêu, bằng việc thăm viếng tha nhân để chia sẻ tình thương và khiêm nhường phục vụ những người đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần, như có người đã phát biểu: “Có thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho”.
4. THẢO LUẬN:
Việc về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao ?
Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc về trời với Mẹ ?
5. NGUYỆN CẦU:
« LẠY ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách : khi bị thất bại trong việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con muôn ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na : « Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo » (Ga 2,5).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Kh 11,19a. 12,1-6a,10ab; 1 Cr 15,20-27;Lc 1,39-45
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.(53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
- C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
- C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
- C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI:
1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ?
2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ?
3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì ?
4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà ?
5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì ?
6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu và để làm gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC MA-RI-A HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và bệ chân của Thiên Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A, HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) TỪ TÍN ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA ĐẾN TÍN ĐIỀU MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3) NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ ĐẶC ÂN HỒN XÁC LÊN TRỜI CỦA ĐỨC MA-RI-A:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
4) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI TIN CẬY CẦU XIN NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công Giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công Giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU VÀ MẸ HỘI THÁNH :
a) Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Giê-su : Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7). Mẹ không những có phúc vì đã cưu mang nuôi dưỡng Người, mà còn vì đã « lắng nghe và thực hành Lời Chúa » (x. Lc 11,27-28).
b) Đức Ma-ri-a là Mẹ Hội Thánh :
-Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên, Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,25-27). Theo lời trối của Thầy, môn đệ Gio-an đã đại diện Hội Thánh đón Đức Ma-ri-a về nhà mà phụng dưỡng thay Thầy.
-Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta hôm nay.
2) ĐỨC MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC:
+ Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa ở cùng như lời sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và được nhìn xem Thiên Chúa (x. Mt 5,8).
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức Maria chứa đựng Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là Ma-ri-a có phúc vì đã nghe và thực hành Lời Chúa như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người đã sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
3) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC CHÚA TRIỆU HỒI VỀ TRỜI:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng hằng chuyển cầu cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ để cũng được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai đã cùng Mẹ xin ơn Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giê-su lên trời (x. Cv 1,14).
4) SỐNG TIN YÊU VÀ PHỤC VỤ LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VỀ TRỜI VỚI MẸ:
- Đức Ma-ri-a đã nêu gương sống đức tin: Trong biến cố truyền tin, Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa dạy và mau mắn xin vâng ý Chúa (x. Lc 1,30-36). Hôm nay chúng ta cũng phải năng đến nhà thờ dâng lễ Chúa Nhật, lắng nghe Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày, tham dự nhóm Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần để gia tăng đức tin, nhờ đó sẽ có thể tích cực loan báo Tin Mừng bằng đời sống chứng nhân bác ái.
- Đức Ma-ri-a cũng nêu gương sống tình thương cụ thể: Mẹ dấn thân đi bước trước đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, để đem niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng’ trong lòng mẹ. Sau đó Mẹ đã ở lại 3 tháng để giúp đỡ cho tới khi bà này sinh con, rồi mới về lại nhà mình (x. Lc 1,39-56). Về sau Mẹ còn quan tâm giúp đôi tân hôn tại thành Ca-na bằng việc cầu bầu với Đức Giê-su và đã được Người nghe lời làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon (x. Ga 2,1-11).
- Tình thương nơi Mẹ Ma-ri-a luôn gắn liền với hành động cụ thể là chia sẻ và phục vụ : Hôm nay mỗi tín hữu chúng ta muốn được lên trời với Mẹ cũng phải sống tin yêu, bằng việc thăm viếng tha nhân để chia sẻ tình thương và khiêm nhường phục vụ những người đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần, như có người đã phát biểu: “Có thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho”.
4. THẢO LUẬN:
Việc về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao ?
Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc về trời với Mẹ ?
5. NGUYỆN CẦU:
« LẠY ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách : khi bị thất bại trong việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con muôn ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na : « Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo » (Ga 2,5).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Cộng sản Trung Quốc loại bỏ các từ ngữ như Chúa và Kinh Thánh khỏi các sách dành cho trẻ em
Đặng Tự Do
08:45 14/08/2019
Đốt sách chôn nho là một chủ trương tại Trung Quốc vào đời nhà Tần. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc lần đầu tiên, năm 213 trước Chúa Giáng Sinh, thừa tướng của ông này là Lý Tư đã đề nghị Tần Thủy Hoàng dập tắt tự do ngôn luận nhằm thống nhất các chính kiến và tư tưởng bằng cách đốt hết tất cả các sách và chôn sống các nhà nho có tư tưởng khác với mình.
Để chuẩn bị cho mùa khai trường năm nay, được bắt đầu vào tháng Chín, chủ trương này đã được tái thể hiện lại một cách tinh vi. Thật thế, Nhà Xuất bản Giáo dục Nhân dân của Trung Quốc đã cho in lại hàng loạt sách giáo khoa dành cho trẻ em. Kitô hữu kinh hoàng nhận ra trong các sách giáo khoa mới được in ra, các từ 'Chúa' và 'Kinh thánh' đã bị loại bỏ hoàn toàn.
Ngay cả các tài liệu tham khảo thuộc loại văn học cổ điển, và các sách học tiếng Anh, chẳng hạn như các cuốn truyện tranh dành cho thiếu nhi “The Little Match Girl” của Hans Christian Andersen, “Robinson Crusoe” của Daniel Defoe và “Vanka” của Anton Chekhov cũng chịu cùng chung số phận.
Peter Gao, một người Công Giáo nói với UCANews rằng tình hình đàn áp tôn giáo tại Trung Quốc đã gia tăng rất mạnh sau thỏa thuận với Vatican.
“Chính quyền Trung Quốc đã gia tăng việc phá hủy các nhà thờ và thánh giá, và cấm trẻ vị thành niên vào nhà thờ, họ đã thẳng tay đàn áp Giáo hội. Bây giờ họ đi xa thêm một bước nữa là loại bỏ từ vựng tôn giáo khỏi các sách giáo khoa và cả những kiệt tác văn học thế giới.”
Theo UCANews, quyết định của cộng sản Trung Quốc thay đổi văn bản gốc không chỉ khiến các Kitô hữu tức giận mà còn gây ra sự bất bình trong ngành giáo dục tại quốc gia này.
Source:UCANews The words 'God' and 'Bible' banned in Chinese textbooks
Để chuẩn bị cho mùa khai trường năm nay, được bắt đầu vào tháng Chín, chủ trương này đã được tái thể hiện lại một cách tinh vi. Thật thế, Nhà Xuất bản Giáo dục Nhân dân của Trung Quốc đã cho in lại hàng loạt sách giáo khoa dành cho trẻ em. Kitô hữu kinh hoàng nhận ra trong các sách giáo khoa mới được in ra, các từ 'Chúa' và 'Kinh thánh' đã bị loại bỏ hoàn toàn.
Ngay cả các tài liệu tham khảo thuộc loại văn học cổ điển, và các sách học tiếng Anh, chẳng hạn như các cuốn truyện tranh dành cho thiếu nhi “The Little Match Girl” của Hans Christian Andersen, “Robinson Crusoe” của Daniel Defoe và “Vanka” của Anton Chekhov cũng chịu cùng chung số phận.
Peter Gao, một người Công Giáo nói với UCANews rằng tình hình đàn áp tôn giáo tại Trung Quốc đã gia tăng rất mạnh sau thỏa thuận với Vatican.
“Chính quyền Trung Quốc đã gia tăng việc phá hủy các nhà thờ và thánh giá, và cấm trẻ vị thành niên vào nhà thờ, họ đã thẳng tay đàn áp Giáo hội. Bây giờ họ đi xa thêm một bước nữa là loại bỏ từ vựng tôn giáo khỏi các sách giáo khoa và cả những kiệt tác văn học thế giới.”
Theo UCANews, quyết định của cộng sản Trung Quốc thay đổi văn bản gốc không chỉ khiến các Kitô hữu tức giận mà còn gây ra sự bất bình trong ngành giáo dục tại quốc gia này.
Source:UCANews
Đức Tổng Giám Mục Bashar Warda: Người Công Giáo đã gần biến mất tại Iraq
Đặng Tự Do
16:09 14/08/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Vào đêm mùng 6 tháng Tám năm 2014, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã càn qua vùng đồng bằng Nineveh ở miền bắc Iraq, khiến hơn 120,000 Kitô hữu phải sống lưu vong ở Kurdistan. Năm năm sau, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã bị đánh bại, và các biện pháp ổn định khu vực đã được đề ra.
Theo Đức Tổng Giám Mục Warda, cho đến nay, 40,000 Kitô hữu đã trở về quê hương của họ, tái lập lại chín thị trấn lịch sử của Kitô giáo trong vùng. Một số lớn những người tị nạn đã di cư sang Âu Châu và Hoa Kỳ. Một con số nhỏ hơn vẫn tiếp tục sống trong các trại tị nạn ở Erbil.
Một số người tị nạn đã quay về cố hương trong vùng đồng bằng Nineveh, nhưng rồi họ lại quay trở lại các trại tị nạn ở Erbil sau khi mùa màng của họ bị đốt phá, và gia đình họ nhận được các truyền đơn hăm dọa từ các tiểu tổ ISIS nằm vùng vẫn còn lén lút hoạt động trong khu vực.
Tính chung trong tổng số 40 triệu dân Iraq hiện nay, 69% dân số theo Hồi Giáo Shiite. Chỉ có khoảng 30% theo Hồi Giáo Sunni. Tuy nhiên, đó không phải là tình hình tại Mosul. Tuyệt đại dân chúng trong thành phố này theo Hồi Giáo Sunni. Chính vì thế, sau khi giải phóng được Mosul, lực lượng PMF của Hồi Giáo Shiite không bị giải giới nhưng vẫn hoạt động mạnh trong vùng với ý đồ thanh lọc tôn giáo tại Mosul và khu vực chung quanh. Cả các tín hữu Kitô lẫn người Hồi Giáo Sunni đều trong tầm ngắm của họ. Tuy nhiên, các tín hữu Kitô có lẽ là mục tiêu dễ nuốt hơn.
Trước thềm cuộc xâm lược của Hoa Kỳ vào năm 2003, Kitô hữu có khoảng 1.5 triệu người. Ngày nay, chỉ còn lại 1/6 con số này.
Đức Tổng Giám Mục Warda nói với tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ rằng sự tàn bạo của bọn khủng bố Hồi Giáo IS là một phần của một “chu kỳ bạo lực nhắm vào các Kitô hữu ở Trung Đông được lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt 1,400 năm qua.”
Từ đầu thời kỳ Hồi giáo vào thế kỷ thứ Bảy, Kitô hữu và những người không theo đạo Hồi khác “đã được khoan dung ở mức độ nào đó, phụ thuộc vào phán xét và ý thích của nhà cầm quyền địa phương. Nói chung, các Kitô hữu có được khoan dung hay không phụ thuộc vào cường độ của tinh thần thánh chiến thịnh hành vào từng thời điểm cụ thể.”
Đức Tổng Giám Mục nhấn mạnh rằng ngay cả trong thời Hoàng Kim, kéo dài từ thứ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 14, là thời kỳ có nhiều học giả Công Giáo nghi lễ Chanđê và Syria, và được đánh dấu bằng cuộc đối thoại Hồi giáo - Kitô giáo phong phú, chưa bao giờ có chuyện bình đẳng giữa các Kitô hữu và người Hồi giáo.”
Source:Crux
Sự chết và lên trời của Đức Maria: Những tư tưởng tuyệt vời của các thánh.
Giuse Thẩm Nguyễn
16:10 14/08/2019
Trong lúc Giáo Hội không có một công bố chính thức nào về việc Mẹ Maria đã chết trước khi Mẹ lên trời hay không, thì chắc hẳn có những người thánh thiện vẫn nghĩ là Mẹ đã chết.
Vào ngày 1 tháng Mười Một, năm 1950, ĐGH Pius XII đã long trọng xác tín trong Hiến Pháp Tông Đồ Munificentissimus Deus tín điều “Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria trọn đời đồng trinh, đã hoàn tất hành trình dương thế của Mẹ, được lên trời cả hồn lẫn xác trong vinh quang.” Chúng ta biết đây là Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, một ngày lễ buộc, được cử hành vào ngày 15 tháng Tám.
Điều xác tín long trọng này không đưa ra câu hỏi là Đức Maria có chết hay không trước khi Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời. Tất cả các tài liệu chỉ nói “đã hoàn tất hành trình dương thế của Mẹ.”
Người Công Giáo không bắt buộc phải tin hay không tin việc Đức Maria đã chết hay không, trước khi cả hồn và xác được đưa lên trời.
Có một sự bổ xung thú vị cho ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời là Giáo hội Đông Phương thì chú tâm về sự an giấc của Mẹ Thiên Chúa hơn là việc Mẹ lên trời và cũng mừng lễ vào ngày 15 tháng Tám.
Sách Giáo Lý Công Giáo, điều 966 cho chúng ta những lời từ Kinh Phụng Vụ Hy lạp:
Ôi Mẹ Thiên Chúa, khi sinh con, Mẹ vẫn còn đồng trinh, khi Mẹ an giấc, Mẹ đã không rời bỏ cõi trần, nhưng được đoàn tụ với nguồn mạch của Sự Sống. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa hằng sống và bằng lời cầu nguyện, Mẹ sẽ giải thoát linh hồn chúng con khỏi sự chết.
Nhiều vị Giáo Hoàng và các tài liệu của Giáo Hội đã đề cập đến những bí nhiệm này, một số xác quyết là Mẹ Maria đã trải qua một cái chết tự nhiên, dù rằng thân xác của Mẹ không trải qua đau đớn của sự mục nát.
ĐGH Pius XII đã đề cập đến cái chết của Mẹ ít nhất năm lần. Trong tài liệu mà ngài xác định tín điều Mẹ Hồn Xác Lên Trời, ngài đã viết: Thân xác của Đức Trinh Nữ Maria không bị hư nát, nhưng… Mẹ đã chiến thắng khỏi sự chết, được hưởng vinh quang thiên đàng giống như người con duy nhất của Mẹ là Đức Giê-su Kitô.”
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng cho rằng Mẹ Maria đã trải qua cái chết tự nhiên trước khi Mẹ được lên trời. Vào ngày 25 tháng Sáu năm 1997, trong buổi tiếp kiến chung, ngài đã nói “để cùng được sống lại với sự sống lại của Đức Kitô, Mẹ Maria trước hết đã cùng chết với sự chết của Đức Kitô.”
Từ thế kỷ thứ sáu, Thánh Gregory of Tours đã nói về sự an giấc và sau đó là lên trời của Mẹ.
Đức Mẹ Maria đã hoàn tất hành trình dương thế của Mẹ và giờ Mẹ được gọi ra khỏi thế gian, tất cả các Tông Đồ từ các miền khác nhau đã về nhà của Mẹ. Và khi họ nghe biết là Mẹ sắp rời khỏi thế gian, họ cùng nhau canh thức với Mẹ. Và này, Chúa Giê-su cùng với các Thiên Thần của Ngài đã đến và đón nhận linh hồn của Mẹ, rồi trao cho Thiên thần Michael và rút về.
Tuy nhiên vào sáng sớm, các Tông Đồ để xác Mẹ trong một cái quan tài trống và đặt trong một ngôi mộ và họ canh thức chờ Thiên Chúa đến. Và đây, Thiên Chúa lại đến và đứng với họ, và đã nhận lấy thân xác thánh của Mẹ, qua một đám mây đưa lên trời, nơi đó xác và hồn của Mẹ lại kết hợp với nhau để hưởng niềm vui cùng với những người được Thiên Chúa chọn, và là niềm vui tốt lành đời đời không bao giờ chấm dứt.” (Saint Gregory of Tours, Bishop; A. D.595-A.D. 594); Eight Books of Miracles; A.D. 575-593)
Một điểm khác biệt chính cần lưu ý là: Sự thăng thiên của chúa Giê-su được thực hiện qua chính quyền năng của Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Việc lên trời của Đức Mẹ được thực hiện bởi quyền năng của Thiên Chúa, chứ không phải do quyền năng của Đức Mẹ.
Do vậy dù bất kể điều gì thực sự lưu truyền từ xa xưa, chúng ta biết rằng Đức Mẹ của chúng ta đã được đưa về thiên đàng, cả hồn lẫn xác, ngang qua cuộc sống đời này.
Sách Giáo Lý Công Giáo, điều 967 viết:
Do sự gắn bó hoàn toàn với thánh ý của Chúa Cha, với công cuộc cứu chuộc của con mình, và với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Trinh Nữ Maria là khuôn mẫu của đức tin và đức mến cho Giáo Hội. Nhờ đó Mẹ là “thành viên trổi vượt và tuyệt đối độc nhất của Giáo Hội”; và Mẹ được coi là “sự thực hiện gương mẫu”, là điển hình của Giáo Hội.”
Source: aleteia.org Mary’s death and assumption: Beautiful thoughts from the saints
Cuộc hành hương đi bộ 5000 cây số từ Paris đến Jerusalem
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb
20:15 14/08/2019
Cuộc hành hương đi bộ 5000 cây số từ Paris đến Jerusalem
Hai cô gái đi bộ hơn 7 tháng, từ Paris đến Jerusalem, không có một xu trong túi. Một cuộc hành hương tìm kiếm Thiên Chúa, gặp gỡ tha nhân hầu hiểu biết thêm về tha nhân và về chính mình.
Bài viết của Tác giả Jean Charles Putzolu
Cuộc phiêu lưu bắt đầu từ Paris.
Cô Camille Desveaux đã mơ ước dự án này trong âm hồn từ khi cô mới14 tuổi. Đó là một giấc mơ, ẩn dấu trong cô, cô chưa bao giờ chia sẻ với ai. Ba năm trước cuộc hành trình, cô quyết định cho ba mẹ biết ước mơ của cô. Cô phải thuyết phục ba mẹ và nếu ba mẹ đồng ý cho cô thực hiện thì cô mới đi...
Trong thời gian đó, Camille gặp Guilemette de Nortbecourt tại đại học. Cả hai rất hợp nhau, thế là tình bạn được nảy nở. Camille quyết định không nói với Guillemette bất cứ điều gì về dự án của cô cho đến khi họ cùng thuê một căn hộ và sau khi hoàn tất văn bằng đại học. Khi Camille chia sẻ với Guillemette, cô khám phá ra rằng cả hai đều có cùng một mơ ước. "Trong lúc đó, tôi cũng đang tìm kiếm một cái gì tuyệt đối: Tôi khao khát tìm được Chúa. Ý tưởng về một cuộc hành hương được hình thành rõ nét qua một linh mục, Cha Louis Hervé Guiny. Camille không nghi ngờ gì về chính mình. Cô quyết tâm khám phá lãnh vực tâm linh, nhưng dự án của cô chỉ ấp ủ trong lòng một mình cô, chứ chưa có một người thứ hai nào biết. Phải mất cả tuần cô mới chia sẻ với cô bạn và họ quyết định cùng nhau khởi hành.
Hai cô được chúc lành trước khi lên đường |
Ngày 10 tháng 9 năm 2018, ngày họ khởi hành, họ đã hiệp dâng Thánh lễ tại nhà thờ Đức Bà Paris lúc 8 giờ sáng. Cả hai nài xin các linh mục chúc lành cho ý định này và đồng hành với họ trong tâm tình cầu nguyện. Gia đình của hai cô cũng hiện diện trong thánh lễ gồm ba chị em Camille và bốn anh em của Guillemette. Ngay sau Thánh lễ, hai cô đã lên đường trước những ánh mắt ngâm ngùi âu lo của những người thân yêu.
Họ trải qua bốn ngày đầu tiên trong thành phố Paris, bàn bạc cùng nhau đâu là những điểm dừng chân trong lịch trình… tìm đến nhà của bạn bè và những người quen. Bắt đầu từ ngày thứ năm, họ đã mạo hiểm tới những nơi xa lạ. Họ không biết họ sẽ ngủ ở đâu đêm đó và mối lo nhất là họ không có một đồng xu dính túi... Guillemette nói: "Đây là một quyết định đầy sáng suốt và ý thức", chúng tôi muốn tự mình giã từ mọi sự và trầm mình vào sự quan phòng yêu thương của Chúa, vì chính Ngài là người đã gieo vào tâm hồn hai cô và hướng dẫn các cô thực hiện được cuộc hành trình này… Xa xa họ trông thấy một lâu đài và tự nhủ: "Nơi đây chắc chắn phải có nhiều phòng! Hy vọng chủ nhân sẵn sàng tiếp đón các cô! Thế là các cô đã tiến về đó, đến trước cửa và bấm chuông...
Camille với Veronica, người lạ chưa hề quen biết đầu tiên đã rộng mở cửa nhà đón họ |
Cảm nghiệm sự khiên hạ khi phải ngửa tay ăn xin
Đây mới chỉ là ngày thứ năm và lần đầu tiên, hai cô phải khẩn khoản nài xin lòng hiếu khách từ một người xa lạ hoàn toàn... Những chân tình van xin của họ đã bị từ chối một cách lịch sự. Họ cảm nhận ra rằng thật nhục nhã khi phải ăn xin. Nhưng họ đã quyết tâm, và không lúc nào họ nghĩ đến việc từ bỏ cuộc hành hương đi bộ này. Họ gõ một cánh cửa khác và cửa đã mở ra chào đón hai cô với một trái tim rộng mở. Theo Camille, họ đã học được rất nhiều từ những cuộc gặp gỡ này. Chúng tôi rất ngạc nhiên bởi lòng tốt của gia đình này. Đôi khi lòng tốt ẩn giấu tận đáy lòng chúng ta và phải được khơi dậy". Bà Veronica đã rộng mở cửa nhà đón họ. Thực tế, bà để hai cô một mình ở nhà, vì bà đã có chương trình đi xem kịch hát đêm đó… Camille và Guillemette đã ổn định cho đêm nay. Sáng hôm sau, trong bữa sáng, hai cô có thời gian để hiểu rõ hơn về bà chủ đã cho họ trú ngụ.
Một buổi tối khác, sau khi băng qua Thụy Sĩ, qua dãy núi Alps của Ý, Slovenia và Croatia, họ đến được Bosnia Herzegovina. Ở đó, họ được chào đón bởi Pierre, một người Serb 80 tuổi cặm cụi làm việc. Ông ta không biết tiếng nước ngoài. May mắn thay, con gái Slavica của ông biết một chút tiếng Anh, ít nhất đủ để hiểu nhau. Pierre đồng ý tiếp đón hai chúng tôi. Camile cho hay: "Ông ấy dành cho chúng tôi một cái giường, và ngày hôm sau khi thức giấc, chúng tôi thấy ông ngủ trên đi văng vì đã nhường giường của mình cho chúng tôi. Tôi tự nghĩ trong trường hợp tôi, không biết tôi có thể làm được điều tương tự như thế hay không!
Đi bộ trong tuyết lạnh ở Bosnia-Herzegovina |
Mùa đông Balkan
Ba của Guillemette là một người lính, ông ta đã cảnh báo hai cô về mùa đông khắc nghiệt mà họ có thể phải đối diện ở Balkan. Trong thời gian hành hương của họ, từ tháng 11 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019, nhiệt độ ôn hòa, không lạnh quá âm12 độ, nhưng đây là thời gian có nhiều cảnh quan đẹp đặc biệt. Guillemette nhớ lại khi họ ở Bulgaria, họ đã đi bộ trong tuyết giá suốt ngày dù có nắng ấm mặt trời… Những phong cảnh trước mắt chúng tôi đã cho chúng tôi cảm hứng, chiêm ngắm và cảm tạ Thiên Chúa, Đấng hóa công.
Với bà Rustem, vợ của "muhtar" (trưởng làng) Kocahidir, Thổ Nhĩ Kỳ, bà đã cho chúng tôi ngay cả đồ ngủ |
Gà tây
Sự khác biệt về văn hóa có thể tự tạo ra những vấn đề cho hai cô, vai đeo ba lô nặng 10 ký và một đôi giày tốt. Cô Guillemette chia sẻ: “Không ai niềm nở với chúng tôi, và cũng chẳng ai quan tâm tới sự an nguy của chúng tôi; trái lại họ còn bị cánh đàn ông nhìn họ với ánh mắt soi mói, có thể họ nghĩ chúng tôi là những cô gái mại dâm"; nên "Chúng tôi phải thay đổi cách tiếp cận và không dám mỉm cười với những người mà chúng tôi gặp gỡ. Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những điểm khó khăn nhất trong cuộc hành trình của chúng tôi, dù chúng tôi không ngừng trầm trồ khen ngợi trước những tòa nhà nguy nga tại phi thường.
Các giáo xư, nơi họ được chào đón |
Các giáo xư, nơi họ được chào đón
Đối diện với những lần bị từ chối, thì hai cô cảm thấy lòng ấm áp khi được các giáo xứ rộng mở đón tiếp họ. Họ được các nhà thờ các Giáo xứ Công Giáo ở Pháp và Ý, các giáo xứ Công Giáo và Tin lành ở Thụy Sĩ và các giáo xứ Chính thống tiếp đón họ. "Mỗi lần, tại các giáo xứ, chúng tôi thực sự học hỏi được các nền văn hóa khác nhau và lòng hiếu khách".
Từ Serbia đến Hy Lạp, khi đối diện với khó khăn thông đạt bằng ngôn ngữ, khi tiếp xúc cá nhân với cá nhân… May mắn chúng tôi được các vị Thượng phụ của Chính thống viết cho chúng tôi những lá thư giới thiệu, các vị nói về cuộc hành hương của chúng tôi: những lá thư này giống như hộ chiếu giúp đỡ chúng tôi.
Chúng tôi cũng được chào đón tại các làng mạc của người Hồi giáo. Chúng tôi thường tìm đến nhà ông trưởng làng trước. Người ấy sẽ dàn xếp cho các cô, hoặc giúp hai cô tìm kiếm phòng trọ trong cộng đồng. Trong 248 đêm ngày hành hương, chúng tôi chưa gặp phải cảnh ngủ đầu đường xó chợ bao giờ.
Picnic ở Sülekler, Thổ Nhĩ Kỳ với một gia đình…
Picnic ở Sülekler, Thổ Nhĩ Kỳ với một gia đình… |
Camille và Guillemette chỉ có một cái điện thoại di động và đây là phương tiện duy nhất họ có để liên lạc với cha mẹ và gia đình để thông tin cho gia đình được yên tâm về cuộc hành trình của họ. Càng đi họ càng có thêm những người bạn mới, danh sách các số liên lạc trên điện thoại của họ nhiều thêm lên và các mối liên kết đó tạo cho họ những trợ lực liên tục: Trong một tin nhắn, Guillemette nói: "Nhiều người đã chào đón chúng tôi và chúng tôi chân thành cám ơn họ. Chúng tôi cố gắn làm như vậy, dù có tốn phí thời gian… Những khi chúng tôi cảm thấy thất vọng, thì những tin nhắn của những người này đã cho chúng tôi can đảm. Mỗi đêm hai cô thường kể về cuộc hành hương của họ cho những người đón tiếp họ. Camille trong đôi mắt ngấn lệ, nói tới những kỷ niệm khó quên. Họ có hàng trăm hình ảnh về các cuộc gặp gỡ và họ không quên một ai...
Những ngày dài đi bộ qua những cánh đồng và dọc theo các con đường…
Những ngày dài đi bộ qua những cánh đồng và dọc theo các con đường… |
Đi hành hương với một người bạn và dành 24 giờ mỗi ngày với nhau trong 7 tháng, có nghĩa là có những lúc bất đồng ý kiến với nhau... Kể từ khi bắt đầu vào ngày 10 tháng 9, họ có cơ hội tìm hiểu nhau nhiều hơn và khám phá thêm về bản thân người bạn. Guillemette thừa nhận "Tôi nhận ra niềm tự hào giữa chúng tôi, mặc dù thỉnh thoảng xảy ra một bất đồng nào đó! " Chúng tôi đã tranh luận với nhau, và bỏ qua nhiều cái ngớ ngẩn". Camille nhớ lại một trong những tranh cãi nặng lời và lố bịch xảy ra khi họ ở Ý: "Chúng tôi phải quyết định nên lội qua sông hay đi qua cây cầu. Con sông không sâu nhưng bạn không nhìn thấy đáy. Một người trong vùng đã khuyên chúng tôi nên đi tới cây cầu mà qua". Điều phân vân là cây cầu cách đó hai cây số và Camille không muốn đi đường vòng. Còn Guillemette thì khăng khăng phải đi qua bằng cây cầu, vì đây là một quyết định khôn ngoan và an toàn. Họ cười khi kể lại giai thoại này, và nhận ra rằng cuộc tranh cãi đó hoàn toàn vô nghĩa. Họ cãi nhau nhiều lần, những lúc mệt mỏi và tinh thần chán nản ... Nhưng họ đã vượt qua những phút giây ấy và nghiệm ra rằng họ phải gắn bó với nhau và không thể tách rời nhau được.
Gần đất thánh
Rời Serbia và trước khi vào Thổ Nhĩ Kỳ, họ đi qua Bulgaria. Họ hiểu rằng, trước khi rời Paris, họ không thể vượt qua Syria vì chiến tranh. Họ phải gián đoạn cuộc hành trình bằng máy bay. Họ rời Adalia để đến Cộng hòa Bắc Síp, một phần của hòn đảo không được cộng đồng quốc tế công nhận và do người Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát. Sau đó, họ lại lên đường để qua đảo và tiếp tục gõ cửa và mong đón nhận được những tấm lòng hiếu khách.
Từ Larnaka, họ bay thẳng đến Tel Aviv. Họ đã đáp xuống phi trường cách xa Jerusalem chừng 40 km cây số: bảy tháng đã trôi qua, và mục tiêu cuối cùng của họ đã nằm trong tầm tay với. Có người đề nghị họ đến thẳng Núi Ô-liu ở phía đông mà tiến vào thành thánh Jerusalem. Họ quyết định đi bộ thêm vài ngày nữa vòng quanh Jerusalem từ phía nam. Họ đã đến Bêlem. Hai cô nói lên ý nghĩa của chuyến đi vòng vòng này, vì họ muốn đi lại các dấu chân của Chúa Kitô và đây cũng là mục tiêu của cuộc hành hương này.
Quang cảnh thành Jerusalem
Quang cảnh thành Jerusalem |
Camille và Guillemette đã đi được 215 ngày, trung bình mỗi ngày họ đi từ 25 đến 35 cây số, lâu lâu họ phải nghỉ một vài ngày nghỉ để dưỡng sức. Việc leo lên Núi Ô-liu đến từ phía đông không dài lắm nhưng độ dốc sẽ làm cho cuộc đi bộ mệt mỏi. Họ chưa nhìn thấy Jerusalem, nhưng họ đã chuẩn bị những cảm xúc và tâm tình cho những giây phút đầu tiên này trong nhiều tuần qua. Chưa ai trong họ đã đến thăm Thánh Địa. Họ đi từ Nhà nguyện Chúa lên trời, tiến về Núi Ô-liu, đi qua các Nhà thờ Hồi giáo, để đến nhà thờ nơi Chúa dậy kinh Lạy Cha, và trước khi họ đặt chân tới Jerusalem mà họ đã mong chờ suốt bảy tháng qua. Khung cảnh Jerusalem thật tráng lệ. Phía trước Lăng mộ của Omar là Đền thờ, một công trình to lớn ngạo nghễ bao trùm toàn bộ Thành phố Jerusalem cổ. Họ dừng lại một lúc và kêu lên: "Cuối cùng chúng ta đã đến!" Sau đó, họ bắt đầu đi ra ngoài thành Jerusalem, dừng chân ở Vườn Gethsemane, qua nhà Đức Maria qua đời mà Giáo hội Chính thống gọi là nhà nơi Đức Mẹ thiếp ngủ đi một giấc ngủ và được đưa về trời. Tại vườn Gethsemane, nơi Chúa Giêsu đã cầu nguyện với các Tông đồ và cũng chính nơi đây Chúa bị phản bội và bắt giữ. Họ lại trở về Thành phố Cổ, băng qua Suk, nghênh qua Con đường Thập giá - Via Dolorosa tiến lên đồi Canve (Holy Sepulcher) và mồ chôn Chúa, qua Cổng Herod, tiến vào Bức tường Than khóc nơi đây các người Do thái cầu nguyện, học hỏi và suy niệm Kinh Thánh. Dòng Đa Minh đã chào đón họ một cách thân tình. Đó là ngày 13 tháng 4 năm 2019. Họ đã đi được 5.000 km.
Cuộc Hành trình từ Paris tới Jerusalem |
Bây giờ là lúc để nghỉ ngơi.
Trong khu vườn của trường Kinh thánh, họ ngủ trong một ngôi nhà nhỏ mà các tu sĩ dòng Đa Minh dành cho họ. Kể từ ngày khởi hành từ Paris, họ chưa bao giờ ngủ ngoài trời. Dòng Đa Minh đã chăm sóc họ trong 10 ngày. Họ rất hạnh phúc và chan hòa niềm vui.
Cuộc sống sau cuộc hành hương
Họ chưa bao giờ nghĩ về điều đó, vì họ hoàn toàn phó thác cho Chúa quan phòng, vì Người đã dẫn dắt họ suốt cuộc hành trình từ Paris đến Jerusalem. Họ mong ước "vun đắp" sự gần gũi thân tình này với Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Ở Paris, khi kết thúc đại học, họ đã tìm được việc làm. Camille làm việc cho tổ chức giúp gây quỹ châu Âu để hỗ trợ các dự án cho các công ty Pháp. Guillemette là một y tá trong Hiệp hội Perce-Neige, giúp đỡ những người khuyết tật. Họ đã phải bỏ công việc của mình để thực hiện cuộc hành hương này, và họ không biết họ sẽ làm gì khi trở về Pháp. Nhưng họ xác tín rằng: “cuộc sống của họ sẽ không thể tồn tại, nếu không có Chúa!” Cuộc hành hương này đã khơi dậy trong họ một ơn gọi… Họ không bỏ qua bất cứ điều gì như Camille chia sẻ "Cô thường nghĩ lại về Pierre, người Serb 80 tuổi, người đã cho chúng tôi tá túc qua đêm trong chính căn phòng của ông". "Tôi mong ước trong một vài năm tới tâm hồn tôi cũng được lớn lên và ghi đậm nét những nghĩ cử yêu thương mà cô đã trải nghiệm trong cuộc hành hương này.
Video
Bạn học đường gì từ những người bạn đã gặp gỡ trong chuyến hành hương?
Cô Camille chia sẻ: Tôi muốn nói lên tâm tình tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa, vì chính Ngài mang lại cho cuộc sống con người chúng ta ánh sáng và cho phép nó đạt đến đỉnh trọn lành, đưa lại cho cuộc sống chúng ta ý nghĩa đích thực sự của nó. Một ý nghĩa vượt lên trên cuộc sống của chính mình và đó là điều làm cho \chúng ta thực sự đáng sống.
Còn Guillemette, chị có cảm nghiệm gì?
- Theo tôi thì tôi rất xúc động trước những cảnh quan, công việc sáng tạo của Chúa, trong cuộc hành hương. Tất cả đem đến cho tôi một sự cảm mến nồng nàn không ngờ. Tôi nghĩ ai cũng vậy, vì tất cả là những kỳ công sáng tạo của Chúa. Chúng không thuộc về chúng ta mà thuộc về Chúa, đó là những kiệt tác của Chúa.
Cuộc hành trình đi bộ 5000 cây số của Camille và Guillemette...
- Các cô có tính chính xác là 5000 cây số hay các cô chỉ ướm chừng như thế?
- Tất nhiên là chúng tôi ướm chừng ma thôi!
Các cô có luôn đồng hành với nhau không?
- Vâng, đó là thực tại!
- Chúng tôi sẽ làm lại với nhau.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hình ảnh Đức Mẹ Maria lên trời
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
08:45 14/08/2019
Hình ảnh Đức Mẹ Maria lên trời
Vào thời điểm năm 96 sau Chúa giáng sinh, Thánh Gioan Tông đồ đến sinh sống rao giảng nước Thiên Chúa ở vùng đảo Patmos thuộc lãnh thổ nước Hylạp.
Vào thời điểm này Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô phát triển đang bước sang thế hệ thứ ba.
Thánh Gioan tông đồ trong một thị kiến trên trời, như ông viết thuật lại trong sách Khải Huyền ( Kh 12,1-6a.10ab), diễn tả chứa nhiều dấu chỉ hình ảnh tượng trưng: một người phụ nữ sinh con và con rồng phun lửa rực đỏ.
Người phụ nữ là hình ảnh nói về dân Thiên Chúa đã sinh hạ Chúa Giêsu, đấng cứu độ trần gian.
Con rồng phun lửa máu đỏ là hình ảnh nói về sự dữ, sự hận thù và sức mạnh gây ra sự chết chóc. Con rồng phun lửa này làm hết cách để nuốt chửng đứa bé sơ sinh, nên nó luôn bám sát đe dọa người mẹ hình ảnh dân Thiên Chúa.
Hình ảnh thị kiến của Thánh Gioan trong sách Khải Huyền, dù đã cách đây hai ngàn năm, nhưng luôn ẩn chứa tính cách thời sự. Từ ngày Hội Thánh Chúa được thành lập lan rộng khắp nơi trên địa cầu hầu như lúc nào cũng bị nghi kỵ đe dọa bắt bớ, những đàn áp đạo Kitô giáo vẫn hằng luôn diễn ra với những cách thức dã man tàn bạo cùng tinh vi ép buộc ngày nay cũng vẫn đang diễn ra trên khắp nơi ở các nước.
Đời sống đức tin ở các nước tự do dân chủ, như bên Âu châu, ngay nơi nước Đức, như càng ngày càng đi xuống lâm vào khủng hoảng đang rơi dần vào tình trạng xa lạ. Bức tranh đó gây nên tâm trạng suy nghĩ tư lự có khi lo âu sợ hãi cho tương lai đời sống Hội Thánh Chúa ở trần gian.
Dẫu vậy Thánh Gioan tông đề không muốn vì thế nói đến gây nên sự lo âu sợ hãi cho dân Thiên Chúa, nhưng muốn khích lệ lòng can đảm nơi mọi người tín hữu Chúa Kitô: con rồng phun lửa không thể nuốt sát hại người con của người mẹ. Người con có Thiên Chúa phù hộ đã chiến thắng con rồng sự dữ, và đã đánh đuổi nó ra khỏi trời.
Trên mặt đất con rồng sự dữ vẫn gây ra đau khổ tang tóc cho Hội Thánh Chúa nơi trần gian. Nhưng sự đau khổ Hội Thánh phải chịu đựng ở trần gian, cho dù là điều tương phản với sự chiến thắng của Chúa trên sự dữ, không kéo dài đến vô tận cùng, như Thạnh Vịnh diễn tả: „ Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. 5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. 6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.“ ( Tv 126,4-6)
Vào thời điểm thế lỷ 6. sau Chúa giáng sinh, người phụ nữ trong sách Khải huyền của Thánh Gioan được hiểu cắt nghĩa về Đức Mẹ Maria: hình ảnh nguyên thủy tiên khởi của Hội Thánh Chúa trên trần gian.
Những điều chúng ta là dân Thiên Chúa tin tưởng và hy vọng, Đức Mẹ Maria đã nhận lãnh: được hoàn thành trọn vẹn trong vinh quang của Chúa. Đây là ý nghĩa ngày lễ mừng kính Đức Mẹ hồn xác được đưa rước về trời.
Điều này nhắc nhở người tín hữu Chúa Kitô nhìn lên Đức Mẹ Maria như vì sao niềm hy vọng và ơn cứu chuộc.
Nhiều hình ảnh và tượng vẽ khắc chạm Đức Mẹ Maria đầu đội triều thiên 12 ngôi sao và có ánh sáng mặt trời chiếu tỏa cùng dưới bàn chân có mặt trăng.
Đức Mẹ Maria là hình ảnh người phụ nữ về viễn cảnh ngày cánh chung nói lên rằng sự tốt lành thánh thiện khắc phục chiến thắng và Thiên Chúa sẽ biến đổi sự đau khổ lo âu của chúng ta.
Tâm nhìn thánh thiện tin tưởng hướng lên Đức Mẹ Maria xưa nay đã giúp rất nhiều người có thêm sức lực vượt qua khỏi những cơn khốn khó đau khổ trong đời sống.
Cuộc đời Đức Mẹ Maria xưa kia trên trần gian cũng không có luật trừ tránh khỏi những lo âu đau khổ. Kinh thánh thuật lại Đức Mẹ hạ sinh hài nhi Giêsu giữa cánh đồng trong hang chuồng súc vật, rồi con đường tỵ nạn sang Aicập để tránh khỏi bị vua Herode tìm giết hài nhi Giêsu con mình.
Thiên Chúa đã phù hộ che chở gia đình Đức Mẹ Maria trong cơn hoạn nạn khốn khó. Điều này nói lên sức mạnh sự dữ chấm dứt nơi sức mạnh của Thiên Chúa.
Lễ mừng kính Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời là ngày lễ chống lại sự lo âu sợ hãi. Ngày lễ hướng tầm nhìn con mắt đức tin lên Thiên Chúa, vì Người không bao giờ bỏ rơi dân của Ngài.
Bàn tay quan phòng của Thiên Chúa nơi Đức Mẹ Maria mang đến cho con người sự can đảm tiếp tục con đường hành trình đức tin, dù gặp vướng phải chông gai khốn khó.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vào thời điểm năm 96 sau Chúa giáng sinh, Thánh Gioan Tông đồ đến sinh sống rao giảng nước Thiên Chúa ở vùng đảo Patmos thuộc lãnh thổ nước Hylạp.
Vào thời điểm này Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô phát triển đang bước sang thế hệ thứ ba.
Thánh Gioan tông đồ trong một thị kiến trên trời, như ông viết thuật lại trong sách Khải Huyền ( Kh 12,1-6a.10ab), diễn tả chứa nhiều dấu chỉ hình ảnh tượng trưng: một người phụ nữ sinh con và con rồng phun lửa rực đỏ.
Người phụ nữ là hình ảnh nói về dân Thiên Chúa đã sinh hạ Chúa Giêsu, đấng cứu độ trần gian.
Con rồng phun lửa máu đỏ là hình ảnh nói về sự dữ, sự hận thù và sức mạnh gây ra sự chết chóc. Con rồng phun lửa này làm hết cách để nuốt chửng đứa bé sơ sinh, nên nó luôn bám sát đe dọa người mẹ hình ảnh dân Thiên Chúa.
Hình ảnh thị kiến của Thánh Gioan trong sách Khải Huyền, dù đã cách đây hai ngàn năm, nhưng luôn ẩn chứa tính cách thời sự. Từ ngày Hội Thánh Chúa được thành lập lan rộng khắp nơi trên địa cầu hầu như lúc nào cũng bị nghi kỵ đe dọa bắt bớ, những đàn áp đạo Kitô giáo vẫn hằng luôn diễn ra với những cách thức dã man tàn bạo cùng tinh vi ép buộc ngày nay cũng vẫn đang diễn ra trên khắp nơi ở các nước.
Đời sống đức tin ở các nước tự do dân chủ, như bên Âu châu, ngay nơi nước Đức, như càng ngày càng đi xuống lâm vào khủng hoảng đang rơi dần vào tình trạng xa lạ. Bức tranh đó gây nên tâm trạng suy nghĩ tư lự có khi lo âu sợ hãi cho tương lai đời sống Hội Thánh Chúa ở trần gian.
Dẫu vậy Thánh Gioan tông đề không muốn vì thế nói đến gây nên sự lo âu sợ hãi cho dân Thiên Chúa, nhưng muốn khích lệ lòng can đảm nơi mọi người tín hữu Chúa Kitô: con rồng phun lửa không thể nuốt sát hại người con của người mẹ. Người con có Thiên Chúa phù hộ đã chiến thắng con rồng sự dữ, và đã đánh đuổi nó ra khỏi trời.
Trên mặt đất con rồng sự dữ vẫn gây ra đau khổ tang tóc cho Hội Thánh Chúa nơi trần gian. Nhưng sự đau khổ Hội Thánh phải chịu đựng ở trần gian, cho dù là điều tương phản với sự chiến thắng của Chúa trên sự dữ, không kéo dài đến vô tận cùng, như Thạnh Vịnh diễn tả: „ Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. 5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. 6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.“ ( Tv 126,4-6)
Vào thời điểm thế lỷ 6. sau Chúa giáng sinh, người phụ nữ trong sách Khải huyền của Thánh Gioan được hiểu cắt nghĩa về Đức Mẹ Maria: hình ảnh nguyên thủy tiên khởi của Hội Thánh Chúa trên trần gian.
Những điều chúng ta là dân Thiên Chúa tin tưởng và hy vọng, Đức Mẹ Maria đã nhận lãnh: được hoàn thành trọn vẹn trong vinh quang của Chúa. Đây là ý nghĩa ngày lễ mừng kính Đức Mẹ hồn xác được đưa rước về trời.
Điều này nhắc nhở người tín hữu Chúa Kitô nhìn lên Đức Mẹ Maria như vì sao niềm hy vọng và ơn cứu chuộc.
Nhiều hình ảnh và tượng vẽ khắc chạm Đức Mẹ Maria đầu đội triều thiên 12 ngôi sao và có ánh sáng mặt trời chiếu tỏa cùng dưới bàn chân có mặt trăng.
Đức Mẹ Maria là hình ảnh người phụ nữ về viễn cảnh ngày cánh chung nói lên rằng sự tốt lành thánh thiện khắc phục chiến thắng và Thiên Chúa sẽ biến đổi sự đau khổ lo âu của chúng ta.
Tâm nhìn thánh thiện tin tưởng hướng lên Đức Mẹ Maria xưa nay đã giúp rất nhiều người có thêm sức lực vượt qua khỏi những cơn khốn khó đau khổ trong đời sống.
Cuộc đời Đức Mẹ Maria xưa kia trên trần gian cũng không có luật trừ tránh khỏi những lo âu đau khổ. Kinh thánh thuật lại Đức Mẹ hạ sinh hài nhi Giêsu giữa cánh đồng trong hang chuồng súc vật, rồi con đường tỵ nạn sang Aicập để tránh khỏi bị vua Herode tìm giết hài nhi Giêsu con mình.
Thiên Chúa đã phù hộ che chở gia đình Đức Mẹ Maria trong cơn hoạn nạn khốn khó. Điều này nói lên sức mạnh sự dữ chấm dứt nơi sức mạnh của Thiên Chúa.
Lễ mừng kính Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời là ngày lễ chống lại sự lo âu sợ hãi. Ngày lễ hướng tầm nhìn con mắt đức tin lên Thiên Chúa, vì Người không bao giờ bỏ rơi dân của Ngài.
Bàn tay quan phòng của Thiên Chúa nơi Đức Mẹ Maria mang đến cho con người sự can đảm tiếp tục con đường hành trình đức tin, dù gặp vướng phải chông gai khốn khó.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Văn Hóa
Liên Khúc Hoan ca Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Đinh Văn Tiến Hùng
11:01 14/08/2019
( Lễ kính 15/8/ hằng năm )
-----------------------
“Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria trọn đời đồng trinh, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, được cả Hồn và Xác lên trời vào vinh quang Thiên Cung “
( Trích Tông Hiến Munificentissimus Deus do ĐGH PIÔ XII công bố 1/11/1950 )
Điệp khúc :
Hồng ân Thiên Chúa bao la,
Muôn loài mãi mãi ngợi ca danh Người,
Xác Hồn Mẹ đã lên trời,
Đoàn con dâng Mẹ ngàn lời hoan ca.
Tiểu khúc 1 :Nữ Vương Mẹ Chúa Trời.
Maria ôi Mẹ đầy phúc lạ !
Cao sang hơn mọi người Nữ trần gian,
Ngôi Hai Thiên Chúa bỏ chốn cao sang,
Hạ sinh trong lòng Bà nơi trần thế,
Và từ đây tiếp muôn ngàn thế hệ,
Sẽ tung hô Bà là Mẹ Chúa Trời.
Bao Đế vương đầy quyền lực loài người,
Phải cúi đầu trước vinh quang Thánh Mẫu.
Tiểu khúc 2 :Nữ Vương Muôn Loài.
Maria ôi muôn loài tôn kính !
Trời đất chuyển mình sông núi reo ca,
Rạng rỡ tinh câu xao động ngàn hoa,
Loài cầm thú cũng bừng lên sức sống,
Mừng nhân loại thoát khỏi cơn ác mộng,
Giải lời nguyền tội nguyên tổ khi xưa,
Người xuất hiện tuôn hồng phúc như mưa,
Đạp đầu rắn làm kinh hoàng quỉ dữ.
Tiểu khúc 3 :Nữ Vương Hoà Bình.
Maria ôi nhân loại mong đợí !
Đến xua tan thần chết và chiến tranh,
Người giang tay cứu vớt vạn sinh linh,
Để đem lại một tình yêu bất diệt,
Người Sứ giả quyền năng và diễm tuyệt,
Đuổi bóng đêm như ánh sáng bình minh,
Cho loài người sống hạnh phúc thanh bình,
Tôn thờ Chúa và Yêu thương đồng loại.
Tiểu khúc 4 :Nữ Vương Thiên Quốc.
Maria ôi Nữ Vương tuyệt diệu !
Vượt lên cao soi sáng khắp Thiên cung,
Mẹ Thiên Chúa thật cao trọng vô cùng,
Diễm huyền lạ lòng tràn đầy ơn phúc,
Chín tầng trời trổi hoan ca bái phục,
Thần Thánh nghiêng mình chiêm ngưỡng uy linh,
Vị Nữ Vương lộng lẫy chốn Thiên đình,
Triều thiên toả muôn hào quang rực rỡ.
Tiểu khúc 5 : Nữ Vương Giáo Hội.
Maria ôi Mẹ Hiền Giáo Hội !
Dưới chân Thánh giá Chúa năm xưa,
Nhân loại được diễm phúc mấy cho vừa,
Chúa rất buồn sầu trước giờ vĩnh biệt,
Nhìn vị Tông đồ Ngài yêu tha thiết,
Đại diện cho chính Giáo Hội hôm nay,
Chúa trao Mẹ nhận con yêu từ đây,
Để nhờ Mẹ ủi an và che chở.
Tiểu khúc 6 :Nữ Vương Lòng Con.
Maria ôi lòng đầy nhân ái !
Cả đời con luôn tha thiết mến yêu,
Hồn xác con Mẹ ấp ủ sớm chiều,
Ru dịu ngọt trong bàn tay trìu mến,
Sóng vùi dập lôi thuyền con lạc bến,
Mẹ đón chờ và hướng dẫn lối đi,
Hỗ trợ con trong những lúc gian nguy,
Mẹ ngời sáng như Hải đăng soi lối.
ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
Tâm lý con người thời nay: Các Niềm Vui của Bất Bình
Vũ Văn An
19:57 14/08/2019
Các niềm vui của bất bình
Tiến sĩ Joseph Burgo tiếp tục phân tích tâm lý người thời nay, thời bừa phứa thông tin, thời bừa phứa phê phán tự do không hạn chế. Lần này ông muốn cho thấy sự giận dữ có chỗ thoát tự do khiến người giận dữ cảm thấy thỏa mãn hơn về chính họ như thế nào. Trong cuốn
The Narcissist You Know, ông mô tả sự bất bình tự cho là chính đáng là một trong ba chống chế đệ nhất đẳng chống lại cái tâm thức cốt lõi là tủi nhục (shame) ra sao. Cùng với việc đổ lỗi và khinh miệt, nó dựng lên cả một tường thành kiên cố chống lại các cảm quan thiếu sót, thiệt hại, hay xấu xa khó coi (ugliness) bằng cách trút (nghĩa là phóng chiếu) các cảm quan ấy lên một ai khác, bắt họ phải mang lấy chúng.
• “Tôi tuyệt đối không làm gì sai. Anh mới là người phải chịu lỗi!”
• “Làm thế nào anh có thể chỉ trích tôi được! Chính cơn giận làm anh giả thiết bắt lỗi tôi!”
• “Anh là thằng đáng ghét, đáng khinh miệt, và khó mà thành người”.
Ba nét đó, tức đổ lỗi, khinh miệt, và bất bình, nổi bật trong nhân cách của mọi kẻ tự yêu mình thái quá một cách cực đoan và chống đỡ “cảm thức thổi phồng cái tôi” hết sức quen thuộc của họ. Ta thấy nhan nhản những nhân cách này trong xã hội hiện thời.
Ở một mức độ kém hơn, phần lớn chúng ta thỉnh thoảng cũng có dùng các chống chế này một cách tạm thời. Chỉ cần nghĩ lại những cãi cọ gần đây khi người phối ngẫu, người bạn, hay người hùn hạp than phiền về tác phong của ta. Ta có bất bình và chống chế, ít nhất ngay lúc ấy không? Ta có tự bào chữa và ráng quay mũi súng, moi một khuyết điểm nào khác của họ để tấn công không? Ta có cười mỉa mai và tỏ vẻ khinh miệt, nếu không bằng lời thì cũng bằng nét mặt hay không? Trong khi tranh luận nóng nẩy, những phản ứng như thế là chuyện thông thường, không có chi là bệnh hoạn, miễn là cuối cùng ta dịu xuống, xin lỗi và tiếp nhận lời phê bình nếu nó có giá trị.
Cũng thế, nhiều người trong chúng ta thường tỏ vẻ khinh bỉ, khinh miệt hay bất bình chính đáng trong những cách không hẳn cho thấy bất cứ rối loạn về nhân cách nào và còn có thể được coi là “thông thường”. Nhất là trong lãnh vực thống thuộc chính trị, ta thường phùng mang trợn mắt nổi giận và chỉ tay tố cáo những người thuộc phe bên kia. Làm thế nào bọn họ lại có một chủ trương như thế được! Chủ trương của bọn họ dưới cả mức bị khinh bỉ và cho thấy rõ ràng thiếu nhân tính, đừng nói tới việc thiếu tương cảm (empathy)! Thật hiển nhiên, bọn họ đáng bị ghét bỏ và lăng mạ! Ta thấy rất nhiều kiểu phản ứng này trên các facebooks.
Trong diễn trình phát biểu sự bất bình chính đáng như thế, ta thường thổi phồng lòng tự quí mình lên, thổi phồng cảm thức tự cho mình có giá lên bằng cách tự xác định mình không có chi giống như họ. Nếu những người kia giữ một quan điểm không đúng, đáng ghét, thì ngầm cho hiểu quan điểm của ta hay hơn. Trong khi họ thiếu tương cảm, thì ta thực sự quan tâm... điều này hẳn có nghĩa ta thực sự là những người tốt, phải không? Và vì họ bán khai và đáng khinh bỉ, thì nguyên sự kiện ta có thể thấy điều ấy cũng đã làm ta... ôi, thông sáng biết bao. Từ trên cao bệ thờ nhìn xuống, ta cảm thấy hài lòng về chính mình vì ta hơn họ xiết bao.
Hiển nhiên
Tiến sĩ Burgo cho rằng không điều gì trên đây thuộc bệnh lý cả.Thực vậy, chúng phổ biến đến trở thành như cơm bữa, được mọi người xếp vào loại “thông thường”. Bất hạnh thay, quá nhiều người bị dính cứng vào chủ trương đó, giống người vợ hay người chồng bất bình không bao giời lùi lại sau một trận chiến, nhất định không nhận lời chỉ trích, và cho người phối ngẫu phạm thượng kia một sự im lặng chết người cả mấy ngày trời sau đó. Mày là cái thứ người đáng khinh vì đã đối xử cách đó với tao nên mày không đáng để nói chuyện với!
Tiến sĩ Burgo đồng ý với tiến sĩ John Gottman khi cho rằng khinh miệt trong hôn nhân là nhân tố lớn nhất dẫn đến ly dị trong tương lai. Ông tự hỏi không biết con người ngày nay ở Hoa Kỳ đang đi về đâu với cái nỗi bất bình chính đáng được thổi phồng không lối thoát?
Tiến sĩ Joseph Burgo tiếp tục phân tích tâm lý người thời nay, thời bừa phứa thông tin, thời bừa phứa phê phán tự do không hạn chế. Lần này ông muốn cho thấy sự giận dữ có chỗ thoát tự do khiến người giận dữ cảm thấy thỏa mãn hơn về chính họ như thế nào. Trong cuốn
The Narcissist You Know, ông mô tả sự bất bình tự cho là chính đáng là một trong ba chống chế đệ nhất đẳng chống lại cái tâm thức cốt lõi là tủi nhục (shame) ra sao. Cùng với việc đổ lỗi và khinh miệt, nó dựng lên cả một tường thành kiên cố chống lại các cảm quan thiếu sót, thiệt hại, hay xấu xa khó coi (ugliness) bằng cách trút (nghĩa là phóng chiếu) các cảm quan ấy lên một ai khác, bắt họ phải mang lấy chúng.
• “Tôi tuyệt đối không làm gì sai. Anh mới là người phải chịu lỗi!”
• “Làm thế nào anh có thể chỉ trích tôi được! Chính cơn giận làm anh giả thiết bắt lỗi tôi!”
• “Anh là thằng đáng ghét, đáng khinh miệt, và khó mà thành người”.
Ba nét đó, tức đổ lỗi, khinh miệt, và bất bình, nổi bật trong nhân cách của mọi kẻ tự yêu mình thái quá một cách cực đoan và chống đỡ “cảm thức thổi phồng cái tôi” hết sức quen thuộc của họ. Ta thấy nhan nhản những nhân cách này trong xã hội hiện thời.
Ở một mức độ kém hơn, phần lớn chúng ta thỉnh thoảng cũng có dùng các chống chế này một cách tạm thời. Chỉ cần nghĩ lại những cãi cọ gần đây khi người phối ngẫu, người bạn, hay người hùn hạp than phiền về tác phong của ta. Ta có bất bình và chống chế, ít nhất ngay lúc ấy không? Ta có tự bào chữa và ráng quay mũi súng, moi một khuyết điểm nào khác của họ để tấn công không? Ta có cười mỉa mai và tỏ vẻ khinh miệt, nếu không bằng lời thì cũng bằng nét mặt hay không? Trong khi tranh luận nóng nẩy, những phản ứng như thế là chuyện thông thường, không có chi là bệnh hoạn, miễn là cuối cùng ta dịu xuống, xin lỗi và tiếp nhận lời phê bình nếu nó có giá trị.
Cũng thế, nhiều người trong chúng ta thường tỏ vẻ khinh bỉ, khinh miệt hay bất bình chính đáng trong những cách không hẳn cho thấy bất cứ rối loạn về nhân cách nào và còn có thể được coi là “thông thường”. Nhất là trong lãnh vực thống thuộc chính trị, ta thường phùng mang trợn mắt nổi giận và chỉ tay tố cáo những người thuộc phe bên kia. Làm thế nào bọn họ lại có một chủ trương như thế được! Chủ trương của bọn họ dưới cả mức bị khinh bỉ và cho thấy rõ ràng thiếu nhân tính, đừng nói tới việc thiếu tương cảm (empathy)! Thật hiển nhiên, bọn họ đáng bị ghét bỏ và lăng mạ! Ta thấy rất nhiều kiểu phản ứng này trên các facebooks.
Trong diễn trình phát biểu sự bất bình chính đáng như thế, ta thường thổi phồng lòng tự quí mình lên, thổi phồng cảm thức tự cho mình có giá lên bằng cách tự xác định mình không có chi giống như họ. Nếu những người kia giữ một quan điểm không đúng, đáng ghét, thì ngầm cho hiểu quan điểm của ta hay hơn. Trong khi họ thiếu tương cảm, thì ta thực sự quan tâm... điều này hẳn có nghĩa ta thực sự là những người tốt, phải không? Và vì họ bán khai và đáng khinh bỉ, thì nguyên sự kiện ta có thể thấy điều ấy cũng đã làm ta... ôi, thông sáng biết bao. Từ trên cao bệ thờ nhìn xuống, ta cảm thấy hài lòng về chính mình vì ta hơn họ xiết bao.
Hiển nhiên
Tiến sĩ Burgo cho rằng không điều gì trên đây thuộc bệnh lý cả.Thực vậy, chúng phổ biến đến trở thành như cơm bữa, được mọi người xếp vào loại “thông thường”. Bất hạnh thay, quá nhiều người bị dính cứng vào chủ trương đó, giống người vợ hay người chồng bất bình không bao giời lùi lại sau một trận chiến, nhất định không nhận lời chỉ trích, và cho người phối ngẫu phạm thượng kia một sự im lặng chết người cả mấy ngày trời sau đó. Mày là cái thứ người đáng khinh vì đã đối xử cách đó với tao nên mày không đáng để nói chuyện với!
Tiến sĩ Burgo đồng ý với tiến sĩ John Gottman khi cho rằng khinh miệt trong hôn nhân là nhân tố lớn nhất dẫn đến ly dị trong tương lai. Ông tự hỏi không biết con người ngày nay ở Hoa Kỳ đang đi về đâu với cái nỗi bất bình chính đáng được thổi phồng không lối thoát?
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 15/8/2019: Đại nghịch bất đạo cáo gian, trục xuất Thượng Phụ Eritrea
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
15:59 14/08/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Trong một diễn biến bi đát, 5 Giám Mục trong Thánh Hội Đồng Chính Thống Giáo Eritrea đã trục xuất Đức Thượng Phụ Abune Antonios, người được toàn dân kính ngưỡng, khỏi Giáo Hội Chính Thống Giáo tại quốc gia này. Cho đến nay, ngài là vị Thượng Phụ duy nhất của Giáo Hội Chính Thống Eritrea được Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống trên thế giới nhìn nhận.
Eritrea là quốc gia Phi Châu nằm dọc theo bờ biển phía tây nam của Biển Đỏ. Kitô Giáo đã có mặt tại đây ít nhất là vào thế kỷ thứ 4 khi vương quốc Kitô giáo Aksum phát triển mạnh ở vùng mà ngày nay là Eritrea và Ethiopia. Vương quốc bắt đầu suy tàn vào thế kỷ thứ 7 sau cuộc xâm lược của người Hồi giáo, nhưng một phần dân số Eritrea vẫn luôn là người Kitô giáo.
Tổng thống Eritrea hiện nay là ông Isaias Afwerki, sinh ngày 2 tháng Hai năm 1946. Ông Afwerki là một người vô thần, được đào tạo tại Trung Quốc để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành độc lập với Ethiopia. Mặt trận Giải phóng Nhân dân Eritrea của ông được tổ chức rập khuôn “giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc”, đã chiến thắng trong cuộc nội chiến nhằm tách ra khỏi Ethiopia vào năm 1991. Đây cũng là lực lượng trấn áp thẳng tay các thành phần đối lập, giúp ông ngồi vững trên ngai vàng trong suốt 28 năm qua. Thành tích nhân quyền của Eritrea thường xuyên được xếp hạng trong số những quốc gia tồi tệ nhất trên thế giới.
Về phương diện tôn giáo, bắt chước Trung Quốc, Afwerki đã xen mình vào nội bộ Chính Thống Giáo Eritrea. Sau khi Đức Thượng Phụ Abune Yacob qua đời vào ngày 2 tháng 12 năm 2003, Thánh Hội Đồng Chính Thống Giáo Eritrea đã bầu Đức Giám Mục Abune Antonios của Hamasiye làm Thượng Phụ. Ngài thường xuyên chỉ trích các thành tích nhân quyền tồi tệ của chính phủ. Tháng 8 năm 2005, Afwerki truất phế ngài, quản thúc tại gia, và chỉ định giáo dân Yoftahe Dimetros làm lãnh đạo Chính Thống Giáo Eritrea, y hệt như giáo gian Lưu Bách Niên lãnh đạo “Công Giáo yêu nước” Trung Quốc.
Các Giáo hội Chính thống Đông phương khác cũng như Giáo Hội Công Giáo vẫn tiếp tục công nhận Đức Thượng Phụ Antonios là nhà lãnh đạo chính thức.
Tháng Tư vừa qua Đức Thượng Phụ Antonios thuê người làm một cuốn phim tài liệu về Chính Thống Giáo Eritrea dưới triều đại giáo gian Yoftahe Dimetros. Cuốn phim chưa hoàn thành đã bị bại lộ.
Trong tuyên bố vừa được đưa ra, 5 trong 6 Giám Mục của Thánh Hội Đồng Chính Thống Giáo Eritrea (thường được gọi mỉa mai là các Giám Mục cung đình, nô bộc của chế độ) nói rằng các hoạt động gần đây của Đức Thượng Phụ đã khiến họ nhận ra rằng “sự ăn năn của ông không phải là chân thật” nên họ quyết định trục xuất ông.
“Tên của ông không bao giờ được nhắc đến và ghi nhớ và những người vi phạm sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc”, tuyên bố nói thêm.
Chính thống giáo chiếm khoảng 30% trong số 4.9 triệu dân của Eritrea. Khoảng 60% dân số là người Hồi giáo Sunni, 5% là người Công Giáo và 2% theo Tin lành. Chính thống Eritrea có khoảng 1,500 nhà thờ, 22 tu viện và 15,000 linh mục.
2. Một phụ nữ Công Giáo thành công trong hoạt động tông đồ ngông cuồng xưng mình là Thiên Chúa
Maman Pauline, thành viên của ủy ban điều phối các hoạt động tông đồ của giáo phận Yopougon, là một phụ nữ Công Giáo rất nổi tiếng tại Bờ Biển Ngà. Cô sáng lập nhóm cầu nguyện Công Giáo Maria Rosa Mystica, nghĩa là Đức Maria Hoa Hồng Mầu Nhiệm, từ năm 2002. Maria Rosa Mystica cũng là một tổ chức bác ái rất mạnh tại quốc gia này.
Các buổi cầu nguyện do Maman Pauline “chủ sự” lôi kéo hàng chục ngàn người là chuyện bình thường. Trong hơn một thập niên qua, cô lôi cuốn được rất nhiều người trở lại đạo Công Giáo.
Tuy nhiên, các thành công vang dội đã khiến cô mất dần lòng khiêm nhường. Từ một người phụ nữ ăn mặc giản dị, Maman Pauline, ngày nay thường được nhìn thấy trong trang phục áo dài trắng, khoác bên ngoài một áo choàng trắng rất quý phái và đeo vương miện như một nhân vật quyền quý trong hoàng gia, và được bao quanh bởi một đội ngũ vệ sĩ hùng hậu.
Cô cũng “chế ra” nhiều thủ tục khác lạ. Trước các buổi cầu nguyện, các tín hữu được yêu cầu tắm rửa để “tẩy trần” trong một hồ bơi và tham dự các nghi lễ trừ tà.
Tình hình trở nên nghiêm trọng khi vào tháng Tư vừa qua một thành viên trong nhóm cầu nguyện của cô là bà Adjoua nói trong một cuộc phỏng vấn với RTI, một đài truyền hình quốc gia, rằng “Maman Pauline là Thiên Chúa và đã cứu Bờ biển Ngà nhờ ánh sáng của cô.”
Trước khi trở lại đạo Công Giáo, Adjoua từng là một phù thủy, đã giết chết nhiều người. Bà nói Maman Pauline đã cứu rỗi linh hồn bà.
Sau đó, trong nhiều phóng sự truyền hình của RTI và các phương tiện truyền thông khác, một số thành viên trong nhóm Maria Rosa Mystica nói cô Maman Pauline đã bảo họ rằng cô là Thiên Chúa, và họ…cũng tin như vậy.
Câu chuyện này tương tự như câu chuyện của một người phụ nữ Công Giáo khác, tên là Parfaite, ở Benin, cũng thuộc Tây Phi, là người tự xưng mình là Chúa Kitô xuống thế làm người lần thứ hai. Bà Parfaite sau đó đã thành lập một giáo hội của mình, lôi cuốn nhiều người Công Giáo bỏ đạo theo bà.
Yannick Kouamé, một lãnh đạo Công Giáo địa phương, đã thách thức giáo phận Yopougnon tuyên bố một cách rõ ràng và dứt khoát để Giáo hội không thể bị đưa ra làm trò cười một lần nữa như đã xảy ra tại Benin.
Cha Marius Hervé Djadji, một nhà thần học tín lý, đã lặp lại những mối quan tâm này.
“Nếu Maman Pauline này là một người Công Giáo, cô ta nên khiêm tốn và thẳng thắn tố cáo những tuyên bố dị giáo như vậy. Nếu cô ấy im lặng, thì cô ấy ủng hộ điều đó.”
Ngài cảnh báo rằng các tín hữu Công Giáo trong giáo phận nên tránh các buổi cầu nguyện được nhóm này tổ chức hai lần trong một tuần.
“Qua sự hiện diện của anh chị em, anh chị em đang gieo rắc những nghi ngờ về đức tin của anh chị em vào Chúa Ba Ngôi. Hãy coi chừng những người xưng mình là tín hữu Công Giáo, nhưng lại làm ô nhiễm đức tin của anh chị em.”
Trước tình huống nghiêm trọng này, vào ngày 18 tháng Tư, Đức Cha Salomon Lezoutié đã ra lệnh đình chỉ các hoạt động của nhóm này.
Tuy nhiên, Đức Cha Bruno Kouamé – năm nay 91 tuổi, là Giám mục hiệu tòa Abengourou - đã công khai ủng hộ Maman Pauline, là người mà ngài đã rửa tội và ban phép thêm sức.
Đức Cha Bruno Kouamé thường xuyên tham dự các buổi cầu nguyện của nhóm và mô tả lệnh đình chỉ đối với Maria Rosa Mystica là “rất nguy hiểm”.
“Maman Pauline tập hợp được rất nhiều người. Giáo Hội Công Giáo nên dỗ dành Maman Pauline để những người theo cô vẫn gắn bó với Giáo Hội.”
Đức Cha Salomon Lezoutié đã ra một tối hậu thư cho Maman Pauline phải làm rõ vấn đề trên chính đài truyền hình RTI.
Thiệt là may. Ngày 4 tháng Tám vừa qua, Maman Pauline đã tuân thủ tối hậu thư của đấng bản quyền.
“Công việc của tôi là giúp đỡ những người lân cận của mình,” cô nói trên truyền hình.
“Chính Đức Maria là người đặt tôi ở vị trí đó, chính Đức Mẹ là người làm mọi việc. Đức Trinh Nữ Maria là mẹ của tôi và là mẹ của mọi người. Và thế giới phải biết điều đó.”
“Tôi luôn đặt Chúa Giêsu và Đức Mẹ trước tôi. Đức Maria và hài nhi Giêsu của Mẹ là trên hết, và tôi chỉ là thứ yếu.” Cô khẳng định thêm rằng mình sẽ không bao giờ lìa xa khỏi Giáo Hội Công Giáo.
Trong cuộc họp báo ngày 8 tháng Tám, Cha Patrick Ossein, Giám Đốc Truyền Thông của giáo phận Yopougon đã công bố kết luận của cuộc điều tra do giáo phận thực hiện từ tháng Tư đến nay.
“Chúng tôi đã nghe Maman Pauline, các nhà lãnh đạo cộng đồng cũng như những người của chương trình truyền hình, và chúng tôi đã đi đến kết luận rằng Maman Pauline đã không bảo Adjoua tuyên bố như thế, và cô ấy nói với chúng tôi rằng cô ấy không biết tại sao Adjoua lại làm như vậy.”
Giáo phận đã cho phép nhóm này tái hoạt động, nhưng thành lập các cơ chế giám sát các hoạt động của nhóm và lãnh đạo của nhóm để chặn đứng ngay bất kỳ biểu hiện sai trái nào.
Đức Cha Salomon Lezoutié cũng đã yêu cầu Maman Pauline ngừng sử dụng vệ sĩ, mà theo ngài là một hình thức phô trương không phù hợp với người làm việc tông đồ.
3. Tin rất buồn: Người Công Giáo đã gần biến mất tại Iraq
Đức Tổng Giám Mục Bashar Warda của Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Chanđê ở Erbil nói với tờ National Review rằng người Công Giáo đã gần biến mất khỏi Iraq.
Vào đêm mùng 6 tháng Tám năm 2014, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã càn qua vùng đồng bằng Nineveh ở miền bắc Iraq, khiến hơn 120,000 Kitô hữu phải sống lưu vong ở Kurdistan. Năm năm sau, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã bị đánh bại, và các biện pháp ổn định khu vực đã được đề ra.
Theo Đức Tổng Giám Mục Warda, cho đến nay, 40,000 Kitô hữu đã trở về quê hương của họ, tái lập lại chín thị trấn lịch sử của Kitô giáo trong vùng. Một số lớn những người tị nạn đã di cư sang Âu Châu và Hoa Kỳ. Một con số nhỏ hơn vẫn tiếp tục sống trong các trại tị nạn ở Erbil.
Một số người tị nạn đã quay về cố hương trong vùng đồng bằng Nineveh, nhưng rồi họ lại quay trở lại các trại tị nạn ở Erbil sau khi mùa màng của họ bị đốt phá, và gia đình họ nhận được các truyền đơn hăm dọa từ các tiểu tổ ISIS nằm vùng vẫn còn lén lút hoạt động trong khu vực.
Tính chung trong tổng số 40 triệu dân Iraq hiện nay, 69% dân số theo Hồi Giáo Shiite. Chỉ có khoảng 30% theo Hồi Giáo Sunni. Tuy nhiên, đó không phải là tình hình tại Mosul. Tuyệt đại dân chúng trong thành phố này theo Hồi Giáo Sunni. Chính vì thế, sau khi giải phóng được Mosul, lực lượng PMF của Hồi Giáo Shiite không bị giải giới nhưng vẫn hoạt động mạnh trong vùng với ý đồ thanh lọc tôn giáo tại Mosul và khu vực chung quanh. Cả các tín hữu Kitô lẫn người Hồi Giáo Sunni đều trong tầm ngắm của họ. Tuy nhiên, các tín hữu Kitô có lẽ là mục tiêu dễ nuốt hơn.
Trước thềm cuộc xâm lược của Hoa Kỳ vào năm 2003, Kitô hữu có khoảng 1.5 triệu người. Ngày nay, chỉ còn lại 1/6 con số này.
Đức Tổng Giám Mục Warda nói với tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ rằng sự tàn bạo của bọn khủng bố Hồi Giáo IS là một phần của một “chu kỳ bạo lực nhắm vào các Kitô hữu ở Trung Đông được lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt 1,400 năm qua.”
Từ đầu thời kỳ Hồi giáo vào thế kỷ thứ Bảy, Kitô hữu và những người không theo đạo Hồi khác “đã được khoan dung ở mức độ nào đó, phụ thuộc vào phán xét và ý thích của nhà cầm quyền địa phương. Nói chung, các Kitô hữu có được khoan dung hay không phụ thuộc vào cường độ của tinh thần thánh chiến thịnh hành vào từng thời điểm cụ thể.”
Đức Tổng Giám Mục nhấn mạnh rằng ngay cả trong thời Hoàng Kim, kéo dài từ thứ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 14, là thời kỳ có nhiều học giả Công Giáo nghi lễ Chanđê và Syria, và được đánh dấu bằng cuộc đối thoại Hồi giáo - Kitô giáo phong phú, chưa bao giờ có chuyện bình đẳng giữa các Kitô hữu và người Hồi giáo.”
4. Hội Đồng Giám Mục Ba Lan cảnh giác về ý thức hệ độc tài đồng tính
Từ một hiện tượng bất thường, trào lưu đồng tính tại Ba Lan không chỉ dừng lại ở việc buộc xã hội phải chấp nhận đó là một chuyện bình thường mà các nhà hoạt động đồng tính còn muốn tiến xa hơn trong việc coi đó là một “chuẩn mực” của xã hội. Thay đổi sách giáo khoa, sa thải những người không chấp nhận “chuẩn mực” mới, tấn công các nhà thờ là các biểu hiện tiêu biểu của một ý thức độc tài muốn thay đổi tận gốc xã hội.
Đức Tổng Giám Mục Stanisław Gądecki, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan cảnh cáo ý thức hệ độc tài về đồng tính này trong lá thư ngày 8 tháng 8, 2019. Toàn văn như sau:
Bất kể những ngày nghỉ, lẽ ra phải là thời gian nghỉ ngơi và suy ngẫm về vẻ đẹp của thiên nhiên do Thiên Chúa tạo thành, các cuộc tranh luận đang dấy lên ở Ba Lan về “ý thức hệ LGBT” (đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới). Điều này có lẽ liên quan đến bầu khí tấn công của các nhóm LGBT và sự gia tăng đáng kể số lượng các cuộc tuần hành gọi là “tự hào” được tổ chức ở nước ta, song song với việc giới thiệu các chương trình giảng dạy mới của trường học về một cách tiếp cận mới liên quan đến giáo dục giới tính, phù hợp với ý thức hệ này, được một số chính quyền địa phương lên kế hoạch thực hiện sau kỳ nghỉ hè này.
Những người thuộc nhóm được gọi là thiểu số về tính dục này là anh chị em của chúng ta, là những người Chúa Kitô đã hiến mạng sống của Người cho họ và là những người mà Chúa cũng muốn cứu độ. Tuy nhiên, việc tôn trọng các cá nhân được nêu trên không thể dẫn đến sự chấp nhận một ý thức hệ muốn thay đổi tận gốc các phong tục xã hội và các mối quan hệ giữa các cá nhân. “Cuộc nổi loạn về phong tục và đạo đức này – như Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh - thường vẫy những ‘lá cờ tự do’, nhưng thực tế, nó đã mang đến sự tàn phá về tinh thần và vật chất cho vô số con người, đặc biệt là những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất” (Vatican, 17/11/2014).
Do đó, tôi kêu gọi các chính quyền địa phương đừng đưa ra các quyết định - dưới chiêu bài chống phân biệt đối xử - để che giấu một ý thức hệ phủ nhận sự khác biệt giới tính tự nhiên và sự bổ sung giữa người nam và người nữ. Tôi cũng kêu gọi các nghị sĩ chống lại các kế hoạch sâu rộng của trào lưu LGBT, nhằm mục đích thay đổi luật pháp Ba Lan để giới thiệu cái gọi là hôn nhân đồng tính và khả năng nhận con nuôi của họ.
Làn sóng chỉ trích đã ảnh hưởng đến Tòa Thị Chính Krakow, các trường Đại Học, cũng như phản ứng của các chủ nhân đối với những người thể hiện thái độ không tán thành ý thức hệ LGBT. Điều đó chứng minh tính chất độc tài toàn trị của ý thức hệ bắt nguồn từ những người đồng tính, bao gồm việc loại bỏ những người có suy nghĩ khác mình. Do đó, tôi kêu gọi tất cả những người có thiện chí hãy áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thảo luận công khai không chỉ với những người ủng hộ ý thức hệ đã nêu mà còn phải cho phép các đối thủ của mình có quyền bình đẳng để tranh luận.
Đức Tổng Giám Mục Stanisław Gądecki
Thủ đô Poznań
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan
Warsaw, ngày 8 tháng 8 năm 2019
5. Pakistan: Hàng ngàn các thiếu nữ Công Giáo bị bắc cóc, cưỡng ép kết hôn và cải đạo sang Hồi giáo
Tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ đang gióng lên những hồi chuông cảnh báo về hoàn cảnh của các thiếu nữ Kitô, và thậm chí là của cả các trẻ em gái ở Pakistan.
“Mỗi năm ít nhất một ngàn cô gái bị bắt cóc, hãm hiếp và buộc phải chuyển sang đạo Hồi, thậm chí bị buộc phải cưới những kẻ hành hạ họ,” Tabassum Yousaf, một luật sư Công Giáo Pakistan là một thành viên của cộng đồng Thánh Egidio, cho biết như trên.
Để thu hút sự chú ý về vấn đề này, tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ đã tổ chức một cuộc họp báo ở Karachi vào hôm thứ Năm 8 tháng Tám, với sự tham dự của Đức Hồng Y Joseph Coutts và một số nhà lãnh đạo Hồi giáo.
Hiện tượng bắt buộc cải đạo sang Hồi Giáo nhắm vào các nhóm tôn giáo thiểu số tại Pakistan, đặc biệt là Kitô hữu và người Ấn giáo.
Tháng 7 vừa qua, một cô gái Kitô giáo 14 tuổi đã bị bắt cóc ở Lahore và buộc phải kết hôn với kẻ bắt cóc mình. Cảnh sát sau đó đã thông báo cho cha mẹ cô rằng một giấy chứng nhận cải đạo đã được cấp cho cô. Trong trường hợp như thế, cô gái không thể quay trở lại là một Kitô hữu vì cô sẽ vướng vào tội bội giáo của Hồi Giáo, là tội bị tử hình tại Pakistan.
Mặc dù luật pháp Pakistan hiện hành quy định tuổi kết hôn hợp pháp là 16 đối với các cô gái, trong thực tế luật này không được áp dụng. Các luật gia và các nhà hoạt động nhân quyền cũng đang cổ vũ cho việc nâng tuổi kết hôn hợp pháp thành 18, nhưng họ gặp phải ngàn trùng những khó khăn.
Tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ cũng đang ủng hộ các biện pháp bảo vệ pháp lý tốt hơn chống lại các vụ bắt cóc và cưỡng bức cải đạo. Gia đình của các nạn nhân thường phải đối mặt với một trận chiến khó khăn tại tòa án khi truy tố thủ phạm trước tòa.
Cuộc họp báo vào thứ Năm diễn ra chỉ vài ngày trước khi Pakistan cử hàng Ngày Dân tộc thiểu số, vào Thứ Bảy, 11 tháng Tám.
Bà Yousaf, luật sư Công Giáo, nói phương Tây và phương tiện truyền thông quốc tế “có thể làm được rất nhiều trong việc bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số ở Pakistan.”
Ông Sardar Mushtaq Gill, một luật sư Kitô giáo nổi tiếng và là một nhà hoạt động nhân quyền ở Pakistan, nói với tờ Quan Sát Viên Rôma về cuộc sống của các Kitô hữu ở nước này như sau:
“Cuộc sống của các nhóm tôn giáo thiểu số ở Pakistan được đánh dấu bằng bạo lực, phân biệt đối xử, và việc chà đạp các quyền cơ bản của con người. Đó là một vấn đề có tính hệ thống mà, và có nguồn gốc từ xa xưa trong lịch sử, trong thế giới quan, và văn hóa địa phương. Chính phủ cần được nhận thức về thực tế này và hành động phù hợp, để bảo vệ những công dân Pakistan không theo đạo Hồi và đề cao nhân quyền, công lý và tự do cho tất cả mọi người.”
6. Lần đầu tiên quan chức chính phủ Sri Lanka thừa nhận trách nhiệm vụ tấn công khủng bố sáng Chúa Nhật Phục sinh
Trong cuộc điều trần trước Quốc Hội Sri Lanka hôm 7 tháng Tám, Thủ tướng Wickremeinghe thừa nhận trách nhiệm của chính phủ trong các cuộc tấn công khủng bố hôm Chúa Nhật Phục sinh
Thủ tướng Sri Lanka nói với Ủy ban Điều Tra của Quốc hội: “ Các quan chức an ninh của tôi không được thông báo.” Khoảng 263 người đã chết trong các cuộc tấn công vào ngày 21 tháng 4. Ông giải thích rằng Tổng thống Sirisena đã không mời thủ tướng tham dự các cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia kể từ tháng 10 năm 2018.
Tuy nhiên, Thủ tướng Sri Lanka, Ranil Wickremeinghe nói trước Ủy ban Điều Tra của Quốc hội rằng chính phủ của ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn, vì sự thất bại không hành động trước các tin tình báo và phản ứng lúng túng của các cơ quan thi hành pháp luật trong ngày Chúa Nhật Phục sinh đẫm máu vừa qua.
Ông Wickremeinghe lưu ý rằng lần cuối cùng ông tham gia một cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia là vào tháng 10 năm 2018. Từ đó trở đi, Tổng thống Maithripala Sirisena không còn mời ông tham gia. Sirisena cũng loại trừ Tổng Thanh tra Cảnh sát, Pujith Jayasundara khỏi các cuộc họp này.
Trong cuộc họp báo hôm mùng 4 tháng Tám, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith, Tổng Giám mục của Colombo, cho biết ngài đã từ chối gặp bất kỳ ứng cử viên Tổng thống nào cho đến khi các báo cáo điều tra liên quan đến các cuộc tấn công khủng bố vào hôm Chúa Nhật Phục sinh được công bố.
Trước đó, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith đã cáo buộc chính phủ “không có xương sống”, cứ đổ qua đổ lại cho nhau, không ai chịu nhận trách nhiệm và yêu cầu chính phủ nên từ chức.
Ngài nói rằng có một nỗ lực rõ ràng nhằm che giấu sự thật vì tất cả những người có trách nhiệm vẫn chưa bị đưa ra ánh sáng.
“Chúng tôi không muốn chính phủ hoặc các chính trị gia sử dụng biến cố bi thảm này để giành lợi thế trong cuộc bầu cử, nhưng chúng tôi muốn thấy một quốc gia đoàn kết và có hành động thích hợp để ngăn chặn những việc như thế có thể xảy ra trong tương lai. Đó là những gì chúng tôi mong đợi,” ngài nói.
7. Cộng sản Trung Quốc loại bỏ các từ ngữ như Chúa và Kinh Thánh khỏi các sách dành cho trẻ em
Đốt sách chôn nho là một chủ trương tại Trung Quốc vào đời nhà Tần. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc lần đầu tiên, năm 213 trước Chúa Giáng Sinh, thừa tướng của ông này là Lý Tư đã đề nghị Tần Thủy Hoàng dập tắt tự do ngôn luận nhằm thống nhất các chính kiến và tư tưởng bằng cách đốt hết tất cả các sách và chôn sống các nhà nho có tư tưởng khác với mình.
Để chuẩn bị cho mùa khai trường năm nay, được bắt đầu vào tháng Chín, chủ trương này đã được tái thể hiện lại một cách tinh vi. Thật thế, Nhà Xuất bản Giáo dục Nhân dân của Trung Quốc đã cho in lại hàng loạt sách giáo khoa dành cho trẻ em. Kitô hữu kinh hoàng nhận ra trong các sách giáo khoa mới được in ra, các từ 'Chúa' và 'Kinh thánh' đã bị loại bỏ hoàn toàn.
Ngay cả các tài liệu tham khảo thuộc loại văn học cổ điển, và các sách học tiếng Anh, chẳng hạn như các cuốn truyện tranh dành cho thiếu nhi “The Little Match Girl” của Hans Christian Andersen, “Robinson Crusoe” của Daniel Defoe và “Vanka” của Anton Chekhov cũng chịu cùng chung số phận.
Peter Gao, một người Công Giáo nói với UCANews rằng tình hình đàn áp tôn giáo tại Trung Quốc đã gia tăng rất mạnh sau thỏa thuận với Vatican.
“Chính quyền Trung Quốc đã gia tăng việc phá hủy các nhà thờ và thánh giá, và cấm trẻ vị thành niên vào nhà thờ, họ đã thẳng tay đàn áp Giáo hội. Bây giờ họ đi xa thêm một bước nữa là loại bỏ từ vựng tôn giáo khỏi các sách giáo khoa và cả những kiệt tác văn học thế giới.”
Theo UCANews, quyết định của cộng sản Trung Quốc thay đổi văn bản gốc không chỉ khiến các Kitô hữu tức giận mà còn gây ra sự bất bình trong ngành giáo dục tại quốc gia này.
8. Ấn tín tòa giải tội lại bị tấn công ở Wisconsin
Trong tổng số 329,257,000 dân Hoa Kỳ hiện nay, người Công Giáo chỉ chiếm có 20.8% dân số. Nếu tính đến số người thường xuyên gắn bó với Giáo Hội, thì còn ít hơn nữa. Cho nên, cách kiếm phiếu dễ ăn nhất của các nhà lập pháp tại Hoa Kỳ là tấn công vào ấn tín tòa giải tội. Tính toán thống kê mà nói, đa số cử tri sẽ ủng hộ cho họ.
Chính vì thế, bất chấp sự thất bại của dự luật SB 360 tại California vào đầu tháng Bẩy vừa qua, chưa đầy một tháng sau đó, hai dân biểu Chris Taylor và Melissa Sargent của Madison, và Thượng nghị sĩ Lena Taylor của Milwaukee lại vừa đệ trình một dự luật tương tự tại tiểu bang Wiscosin.
Dự luật được giới thiệu bởi 3 nhà lập pháp toan tính loại bỏ việc bảo vệ được ghi trong luật tiểu bang theo đó các linh mục không buộc phải tiết lộ các thông tin nghe thấy “trong bối cảnh tòa giải tội” hoặc nghe được “thông qua các giao tiếp được giữ kín.”
“Bây giờ là thời điểm tất cả các giáo sĩ đều phải báo cáo các hành vi lạm dụng trẻ em, trong đó có lạm dụng tình dục, không có ngoại lệ nào cả, bất kể mọi lý do,” bà Lena Taylor nói tại một cuộc họp báo tại Quốc Hội Tiểu bang Wisconsin.
Rút kinh nghiệm của thất bại tại California, đồng thời với dự luật này, hôm thứ Tư 7 tháng Tám, nhóm của bà Taylor cũng giới thiệu một dự luật bảo vệ các nạn nhân trẻ em trong đó loại bỏ thời hiệu tố cáo các tội lỗi lạm dụng tính dục. Luật của Wiscosin quy định rằng người bị lạm dụng tính dục trong thời niên thiếu có thể kiện cáo thủ phạm từ khi xảy ra vụ việc cho đến khi tròn 35 tuổi.
Tiểu bang Wiscosin có 1.2 triệu người Công Giáo sinh hoạt trong 715 giáo xứ. Giáo Hội sở hữu 277 trường Công Giáo và 38 bệnh viện Công Giáo.