Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:43 18/10/2019
60. Thấy rõ mình, khinh miệt mình là kiến thức trác tuyệt nhất, là có lợi cho học vấn nhất.
(sách Gương Chúa Giê-su)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")
--------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:51 18/10/2019
40. HÀ BÀ COI TƯỚNG
Ở Hồng Châu có người tên là Hà Bà, giỏi về dùng đàn tỳ bà để đoán số.
Một hôm, có một quan tư pháp họ Quách mời ông ta đoán số đường hoạn lộ. Hà Bà bèn điều chỉnh các dây trên đàn tỳ bà và hát:
- “Ông là một người đàn ông phú quý ! Số mạng năm nay sẽ thăng lên nhất phẩm, sang năm thăng nhị phẩm, năm sau nữa lên tam phẩm, năm sau sau nữa sẽ thăng tứ phẩm…”
Quan tư pháp cười nói:
- “Hà Bà, mày nói sai rồi, phẩm cấp càng nhỏ thì chức càng cao, phẩm cấp càng nhiều thì chức càng nhỏ”.
Hà Bà lập tức đổi giọng dối trá:
- “Năm nay ngài giảm đi một phẩm, sang năm giảm hai phẩm, năm sau giảm ba phẩm, năm sau sau nữa giảm bốn phẩm, qua năm sáu năm sau, thì ngài sẽ không còn làm quan, từ hoàng đế trở xuống thì ngài lớn nhất vậy !”
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 40:
Con người ta thường thì sống vô tư, nhưng nếu nghe lời thầy bói thì hết vô tư, bởi vì thầy bói đoán mò nói đông nói tây, trúng trật không đâu vào đâu thế là gieo cái hoang mang trong lòng của người nhẹ dạ hay tin những điều nhảm nhí.
Quan tư pháp đã thấy ra được cái bịp bợm của thầy bói nên đã “sửa sai” cho ông ta.
Có một vài người Ki-tô hữu không thường xuyên đi dâng lễ, không thường xuyên tham dự các bí tích, không thường xuyên đọc thánh kinh Lời Chúa, nên dễ dàng bị các thầy bói lừa gạt mất tiền mất của và cuối cùng thì mất đức tin.
Giáo Hội đã dạy chúng ta: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình…”
Siêng năng đọc kinh dâng lễ thì không một thầy bói nào lừa được chúng ta, bởi vì chúng ta đã có Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta phải tin tưởng và tôn thờ, bởi vì chính Ngài là Đấng dựng nên…ông thầy bói hữu hình và ma quỷ là loài vô hình, vậy thì tại sao chúng ta tin tưởng và nghe lời thầy bói hơn Thiên Chúa chứ ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Ở Hồng Châu có người tên là Hà Bà, giỏi về dùng đàn tỳ bà để đoán số.
Một hôm, có một quan tư pháp họ Quách mời ông ta đoán số đường hoạn lộ. Hà Bà bèn điều chỉnh các dây trên đàn tỳ bà và hát:
- “Ông là một người đàn ông phú quý ! Số mạng năm nay sẽ thăng lên nhất phẩm, sang năm thăng nhị phẩm, năm sau nữa lên tam phẩm, năm sau sau nữa sẽ thăng tứ phẩm…”
Quan tư pháp cười nói:
- “Hà Bà, mày nói sai rồi, phẩm cấp càng nhỏ thì chức càng cao, phẩm cấp càng nhiều thì chức càng nhỏ”.
Hà Bà lập tức đổi giọng dối trá:
- “Năm nay ngài giảm đi một phẩm, sang năm giảm hai phẩm, năm sau giảm ba phẩm, năm sau sau nữa giảm bốn phẩm, qua năm sáu năm sau, thì ngài sẽ không còn làm quan, từ hoàng đế trở xuống thì ngài lớn nhất vậy !”
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 40:
Con người ta thường thì sống vô tư, nhưng nếu nghe lời thầy bói thì hết vô tư, bởi vì thầy bói đoán mò nói đông nói tây, trúng trật không đâu vào đâu thế là gieo cái hoang mang trong lòng của người nhẹ dạ hay tin những điều nhảm nhí.
Quan tư pháp đã thấy ra được cái bịp bợm của thầy bói nên đã “sửa sai” cho ông ta.
Có một vài người Ki-tô hữu không thường xuyên đi dâng lễ, không thường xuyên tham dự các bí tích, không thường xuyên đọc thánh kinh Lời Chúa, nên dễ dàng bị các thầy bói lừa gạt mất tiền mất của và cuối cùng thì mất đức tin.
Giáo Hội đã dạy chúng ta: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình…”
Siêng năng đọc kinh dâng lễ thì không một thầy bói nào lừa được chúng ta, bởi vì chúng ta đã có Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta phải tin tưởng và tôn thờ, bởi vì chính Ngài là Đấng dựng nên…ông thầy bói hữu hình và ma quỷ là loài vô hình, vậy thì tại sao chúng ta tin tưởng và nghe lời thầy bói hơn Thiên Chúa chứ ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Truyền giáo, sứ mạng chính yếu của người Kitô Hữu
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
20:18 18/10/2019
Trong Tông Huấn đầu tiên Evangelii Gaudium – Niềm vui Tin Mừng về việc Loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi: “Tôi muốn hướng đến mọi Kitô hữu Công Giáo, mời gọi họ bước vào một giai đoạn mới của việc Phúc Âm hóa, được ghi dấu ấn của niềm vui này và vạch lối đi cho Giáo Hội trong những năm tới.” (ĐGH. Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium – Niềm vui Tin Mừng về việc Loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày này, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2014, số 1.) Bởi lẽ, sứ vụ truyền giáo là sứ vụ chính yếu của Giáo Hội nói chung và của mọi Kitô hữu nói riêng. Đó là trách nhiệm tiên khởi của chúng ta.
Ý thức về nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng hiện nay trong thế giới hôm nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô dành riêng tháng 10 năm 2019 như là tháng ngoại thường để cầu nguyện, học hỏi và thực hiện sứ vụ truyền giáo với chủ đề: “Được rửa tội và được sai đi.”
Để có thể thi hành tốt sứ vụ này trong bối cảnh xã hội hiện nay, trong bài viết này, chúng ta tìm hiểu về chủ đề truyền giáo với những điểm chính sau: 1) Lý do phải truyền giáo; 2) Đối tượng cần được truyền giáo; 3) Cách thức để truyền giáo; 4) Để truyền giáo hiểu quả.
1- Lý do phải truyền giáo
Trước khi đi vào nội dung, cần phải giải thích một số từ ngữ truyền giáo. Liên quan đến sứ vụ này, trong lịch sử đã có nhiều hạn từ được dùng khác nhau:
Ban đầu, trong Tân Ước, truyền giáo có nghĩa là sai đi, phát xuất từ tiếng Hy Lạp - “Apostolos,” có nghĩa là người được gửi đến, được sai đi; nó trở thành tên của các Tông Đồ, người được Chúa Giêsu sai đi truyền giáo. Trong tiếng La Tinh truyền giáo được dịch bằng từ “missio,” có nghĩa là sứ vụ, người được sai đi thực thi sứ vụ.
Sau này người ta hiểu truyền giáo là truyền bá đức tin, nên dùng từ “Propagatio Fidei.” Nhưng từ này làm cho nhiều người dị nghĩ, hiểu truyền giáo là tuyên truyền. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã thay đổi bằng cách dùng một từ khác, đó là từ “Evangelizatio – Phúc Âm hóa.” Sau này, Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô II thường dùng lại và thêm vào những tín từ như: Tái Phúc âm, Tân Phúc Âm hóa. Ngài giải thích rằng Tân Phúc Âm hóa không phải là rao giảng một Phúc Âm mới, nhưng là rao giảng chính Tin Mừng của Chúa Kitô với những phương pháp mới, lòng nhiệt thành mới, với ngôn ngữ mới và cách thức mới. Chúng ta dùng hai hạn từ trong bài là truyền giáo và Phúc Âm hóa.
Thật vậy, truyền giáo không phải là một thứ thêm vào cho đời sống Giáo Hội nhưng là tâm điểm của đức tin Kitô giáo. Truyền giáo là bổn phận chính yếu của mọi người Kitô hữu. Tại sao chúng ta phải truyền giáo?
Trước hết, truyền giáo là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16; x. Mt 28,19-20). Chúng ta được mời gọi phải truyền giáo, bởi vì, đây là ý muốn của Thiên Chúa, Người muốn cho mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ nhờ việc tin vào Đức Giêsu Kitô (x. 1 Tm 2,4). Hoạt động truyền giáo nhằm phục vụ chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhằm phục vụ con người. Truyền giáo là thông đạt cho tha nhân hồng ân đức tin quý báu mà chúng ta đã lãnh nhận và hồng ân ấy liên hệ tới hạnh phúc của mọi người là được mời gọi thông phần vào sự sống của Thiên Chúa nhờ hồng ân cứu độ của Chúa Kitô. Nói cách khác, chúng ta may mắn được nhận biết Chúa Kitô và tin vào Người. Niềm vui này cần phải được chia sẻ cho người khác để họ cũng có cơ hội để nhận biết và tin vào Chúa Kitô như chúng ta.
Bởi thế, Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Ad Gentes cho rằng: “Bản chất Giáo Hội là truyền giáo.” (AG, 2.) Giáo Hội được thành lập để truyền giáo. Từ hơn hai mươi thế kỷ qua, Giáo Hội đã luôn cố gắng thực hiện lệnh truyền này của Chúa Giêsu, nhờ đó, Tin Mừng đã được phổ biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới. Giáo Hội bắt đầu từ một nhóm người rất nhỏ bé, nay đã trở thành mội đại gia đình rộng lớn và phát triển mạnh mẽ khắp mọi nơi và mọi dân tộc.
Trong bối cảnh hiện nay, Giáo Hội càng phải tích cực hơn nữa để tiếp tục sứ vụ này. Có thể nói rằng đây là thời điểm của truyền giáo. Về điểm này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và đời sống của tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận ân ban cứu độ của Người thì được thoát khỏi tội lỗi, nỗi buồn phiền, sự trống rỗng và nỗi cô độc nội tâm. Với Đức Giêsu Kitô, niềm vui thường hằng tái sinh.” ( ĐGH. Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm vui Tin Mừng, Sđd., số 1). Đó là lý do mà chúng ta phải truyền giáo.
2- Đối tượng của truyền giáo
Khi xem xét và nhận định về tình hình của thế giới hôm nay, cũng trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói tới ba đối tượng mà chúng ta phải hướng tới để loan báo Tin Mừng. (Sđd., số 14.)
Cho những Kitô hữu bình thường
Đối tượng thứ nhất đó là những người đã được Rửa Tội và đang thực hành niềm tin của mình một cách bình thường
.
Đối tượng này gồm những người trong cộng đoàn giáo xứ, trong gia đình chúng ta. Mỗi người chúng ta cần phải tiếp tục Tin Mừng hóa bản thân bằng việc lắng nghe Lời Chúa, nội tâm hóa các giá trị Tin Mừng, thực hành Lời Chúa, nhờ đó chúng ta trở thành những người Kitô hữu đích thực, những người đượm chất Tin Mừng, chứ không phải chỉ là những Kitô hữu trên danh nghĩa. Từ việc Tin Mừng hóa bản thân, chúng ta có thể Tin Mừng hóa gia đình, giáo xứ và môi trường mà chúng ta sống. Có thể nói đây là phạm vi mục vụ thông thường.
Cho những Kitô hữu không còn thực hành niềm tin
Đối tượng thứ hai cần được loan báo Tân Phúc Âm hóa là những người Kitô hữu đã được rửa tội, nhưng nay họ không còn thực hành niềm tin, không đến nhà thờ nữa, họ đã rời bỏ Giáo Hội. Nếu nhìn vào bức tranh truyền giáo của thế giới, những đối tượng này phần lớn thuộc các nước ở châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Ở đó, có rất nhiều người Công Giáo nhưng chỉ trên danh nghĩa, họ không còn sống niềm tin của mình. Có thể nói rằng cánh đồng truyền giáo cho những đối tượng này thật bát ngát bao la. Những người này cần được tiếp tục tái truyền giáo, nhờ đó họ trở lại sống niềm tin của mình.
Cho những người chưa biết Chúa và Tin Mừng
Đối tượng thứ ba đó là những người chưa biết Chúa Kitô và Tin Mừng, họ là những người không có tôn giáo nào, hoặc thuộc về một tôn giáo nào đó, nhưng chưa nhận biết Tin Mừng và chưa tin vào Chúa Kitô, họ là những người lương dân sống bên cạnh chúng ta.
Theo thống kê niêm giám của Tòa Thánh công bố ngày 06 tháng 3 năm 2019, tổng dân số thế giới có khoảng 7 tỷ 500 triệu người. Nhưng chỉ có 1 tỷ 313 triệu người Công Giáo, chiếm 17,7% dân số thế giới.
Ở Việt Nam hiện nay, vẫn còn rất nhiều người chưa biết Chúa và Tin Mừng. Theo thống kê năm 2019, Việt Nam có hơn 96 triệu người, nhưng tỷ lệ người Công Giáo chỉ chiếm gần 7%, nghĩa là cứ 100 người Việt thì chỉ có 7 người Công Giáo. Hằng năm, con số người gia nhập đạo rất ít.
Như thế, phần lớn là những người chưa biết Tin Mừng của Chúa Giêsu. Nếu nhìn theo viễn tượng này, thì Lời Chúa vẫn rất thời sự và cấp bách đối với chúng ta ngày nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” (Lc 10,2). Chúng ta được mời gọi đến với những người này, gặp gỡ họ và chia sẻ niềm tin của mình với họ.
3- Cách thức truyền giáo
Vậy làm sao chúng ta có thể truyền giáo cho con người hôm nay? Để trả lời câu hỏi này, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói đến ba cách thức truyền giáo:
Thứ nhất là cử hành phụng vụ.
Nghĩa là truyền giáo bằng việc cử hành cách bí tích, đọc kinh, cầu nguyện hằng này. Bởi lẽ, dân Chúa được hình thành nhờ việc cử hành và tham dự các bí tích. Mỗi người chúng ta được mời gọi mỗi ngày, mỗi Chúa Nhật đến tham dự thánh lễ và cử hành các bí tích, đọc kinh cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa. Qua việc tham dự phụng vụ, chúng ta gặp gỡ và sống thân tình với Chúa Kitô, nhờ đó, chúng ta được Lời Chúa và Thánh Thể nuôi dưỡng. Một người Kitô hữu đích thực là một người siêng năng tham dự các bí tích. Không thể là Kitô hữu đích thực nếu ngày Chúa Nhật họ không đến nhà thờ.
Cách thức thứ hai là rao giảng Tin Mừng
Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông Đồ: “Hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” Truyền giáo là loan báo Lời Chúa, kể chuyện về Chúa, kể lại kinh nghiệm đức tin của mình cho người khác. Ngày hôm nay chúng ta cần phải ra đi và chia sẻ Tin Mừng cho những người xung quanh chúng ta. Trong mỗi cuộc gặp gỡ, chúng ta có thể chia sẻ kinh nghiệm đức tin của mình cho những người khác. Chúng ta có thể kể chuyện về Thiên Chúa, về ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang đến cho người khác nghe. Chúng ta có thể làm được điều này trong mọi hoàn cảnh, khi gặp gỡ, khi điện thoại, khi thăm viếng, khi đi đường, khi ở nhà hoặc khi làm việc. Chúng ta có thể dùng truyền thông như facebook, internet, email... để chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Tất cả là cơ hội để chúng ta rao giảng Lời Chúa, nói chuyện về Chúa cho người khác.
Cách thức thứ ba đó là sống chứng tá bằng đời sống bái ái
Truyền giáo bằng những việc làm cụ thể, bằng chính đời sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta đến thăm viếng những người già, người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi trong xã hội. Chúng ta giúp đỡ họ, an ủi họ. Qua những việc làm cụ thể, họ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì, lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Những hành vi bác ái cụ thể là những bài giảng hùng hồn nhất về Thiên Chúa. Đây là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất.
Như thế, trong cả ba cách thức trên chúng ta đều có thể áp dụng để truyền giáo cho bất cứ ai mà gặp gỡ. Chúng ta hãy mạnh dạn truyền giáo, đừng sợ hãi, đừng ngần ngại, bởi vì, có Chúa Thánh Thần đến đồng hành và nâng đỡ chúng ta như Ngài đã đến và ban sức mạnh cho các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,10-20).
4- Để truyền giáo hiệu quả
Để truyền giáo và làm chứng cho Chúa Kitô một cách hiệu quả, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta hãy sống những điều chính yếu sau đây:
Tập trung vào Chúa Kitô
Đức Giáo Hoàng cảnh báo chúng ta về cám dỗ của ngày hôm nay, chúng ta biết quá nhiều điều và lại quá chú trọng đến những điều thứ yếu mà quên điều chính yếu. Điều chính yếu của đời sống của người kitô hữu biết Đức Kitô và nên giống Người. Để truyền giáo hiệu quả, trước hết chúng ta phải có kinh nghiệm về Thiên Chúa, đi vào tương quan gặp gỡ, sống mật thiết và yêu mến Chúa Kitô, xây dựng đời sống chúng ta trên nền tảng là Chúa Kitô. Mỗi ngày cố gắng để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để có trái tim của Chúa, tâm tình của Chúa, cách hành xử và cách nghĩ như Chúa. Khi Chúa Kitô trở thành trung tâm điểm đời sống, chúng ta coi những thứ khác như tiền bạc, danh vọng, địa vị, hưởng lạc... là thứ yếu, và có khi có thế nói: “Tôi coi tất cả là rơm rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3,8).
Vì thế, Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta: hãy tập trung đời sống vào Chúa Kitô, phát xuất lại từ Ngài.
Hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn
Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của công việc truyền giáo, nên chúng ta được mời gọi phó thác hoàn toàn và trong mọi sự cho sự hướng dẫn bên trong của Chúa Thánh Thần như là vị “linh hướng bên trong”, như là linh hồn của đời sống Kitô hữu, như người nghệ sỹ dưới sự điều khiển của nhạc trưởng, như cây đàn trong tay nghệ sỹ.
Chúng ta có mẫu gương sống động nhất về điều này nơi chính cuộc đời Chúa Giêsu. Người không bao giờ hiểu biết điều gì mà không nhờ Chúa Thánh Thần. Không có Chúa Thánh Thần, chúng ta không thể truyền giáo, bằng chứng rõ ràng qua biến cố Hiện Xuống: Sau khi Chúa chết, các môn đệ đều thất vọng, hoang mang và sợ sệt, nhưng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ can đảm ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh, nói được tiếng lạ, chữa lành các bệnh tật và trừ quỷ. Tất cả điều đó nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nếu không có Chúa Thánh Thần, truyền giáo trở thành tuyên truyền. Nhưng có Chúa Thánh Thần, truyền giáo trở thành một lễ Hiện Xuống mới. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định cách rõ ràng rằng: “Chúa Thánh Thần là tác nhân chính (protagonist) của tất cả sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội.” (Gioan Phaolô II, Redemtoris missio, số 21.) Chính vì thế mà thánh Tông Đồ mời gọi “Anh em hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn (Gl 5,18).
Xây dựng nền văn hóa gặp gỡ
Thế giới mà chúng ta đang vẫn còn bị thống trị bởi nền văn hóa của loại trừ và thù địch. Con người vẫn còn đối xử và nhìn người khác như là kẻ thù của nhau.
Đức tin kitô giáo không cho phép chúng ta nhìn tha nhân là thù địch, là hỏa ngục, nhưng họ chính là hình ảnh của Thiên Chúa, là một nhân vị quý giá đáng trân trọng, được Chúa Giêsu đổ máu cứu chuộc. Vì thế, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta xây dựng nền văn hóa gặp gỡ. Bắt đầu từ trong gia đình của mình. Để gặp nhau, chúng ta phải dành thời gian cho nhau, tôn trọng, lắng nghe, chia sẻ, nâng đỡ và yêu thương nhau.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn muốn một chúng ta đi ra ngoài, ra vùng ngoại ô, ra khỏi phạm vi của mình để vươn tới mọi người, để gặp gỡ mọi người mà không loại trừ ai.
Chúng ta đừng loại trừ nhau trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ. Nhưng tất cả được mời gọi mở rộng cái nhìn của mình theo cách nhìn của Thiên Chúa, là biết tôn trọng và đón nhận những khác biệt của người khác, của các tôn giáo khác. Để Giáo Hội là nhà rộng cửa đón tiếp mọi người như là nhà của Thiên Chúa, ngõ hầu họ cũng được ơn cứu độ.
5- Kết luận
Truyền giáo là sứ vụ chính yếu của mỗi người Kitô hữu. Chúng ta không chỉ là người có Chúa Kitô, nhưng phải là người mang Chúa Kitô cho người khác. Ước mong rằng tâm nguyện của thánh Phaolô phải là tâm nguyện của mỗi người chúng ta mỗi ngày: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
Hướng tới Chúa Nhật Truyền Giáo 2019
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Ý thức về nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng hiện nay trong thế giới hôm nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô dành riêng tháng 10 năm 2019 như là tháng ngoại thường để cầu nguyện, học hỏi và thực hiện sứ vụ truyền giáo với chủ đề: “Được rửa tội và được sai đi.”
Để có thể thi hành tốt sứ vụ này trong bối cảnh xã hội hiện nay, trong bài viết này, chúng ta tìm hiểu về chủ đề truyền giáo với những điểm chính sau: 1) Lý do phải truyền giáo; 2) Đối tượng cần được truyền giáo; 3) Cách thức để truyền giáo; 4) Để truyền giáo hiểu quả.
1- Lý do phải truyền giáo
Trước khi đi vào nội dung, cần phải giải thích một số từ ngữ truyền giáo. Liên quan đến sứ vụ này, trong lịch sử đã có nhiều hạn từ được dùng khác nhau:
Ban đầu, trong Tân Ước, truyền giáo có nghĩa là sai đi, phát xuất từ tiếng Hy Lạp - “Apostolos,” có nghĩa là người được gửi đến, được sai đi; nó trở thành tên của các Tông Đồ, người được Chúa Giêsu sai đi truyền giáo. Trong tiếng La Tinh truyền giáo được dịch bằng từ “missio,” có nghĩa là sứ vụ, người được sai đi thực thi sứ vụ.
Sau này người ta hiểu truyền giáo là truyền bá đức tin, nên dùng từ “Propagatio Fidei.” Nhưng từ này làm cho nhiều người dị nghĩ, hiểu truyền giáo là tuyên truyền. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã thay đổi bằng cách dùng một từ khác, đó là từ “Evangelizatio – Phúc Âm hóa.” Sau này, Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô II thường dùng lại và thêm vào những tín từ như: Tái Phúc âm, Tân Phúc Âm hóa. Ngài giải thích rằng Tân Phúc Âm hóa không phải là rao giảng một Phúc Âm mới, nhưng là rao giảng chính Tin Mừng của Chúa Kitô với những phương pháp mới, lòng nhiệt thành mới, với ngôn ngữ mới và cách thức mới. Chúng ta dùng hai hạn từ trong bài là truyền giáo và Phúc Âm hóa.
Thật vậy, truyền giáo không phải là một thứ thêm vào cho đời sống Giáo Hội nhưng là tâm điểm của đức tin Kitô giáo. Truyền giáo là bổn phận chính yếu của mọi người Kitô hữu. Tại sao chúng ta phải truyền giáo?
Trước hết, truyền giáo là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16; x. Mt 28,19-20). Chúng ta được mời gọi phải truyền giáo, bởi vì, đây là ý muốn của Thiên Chúa, Người muốn cho mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ nhờ việc tin vào Đức Giêsu Kitô (x. 1 Tm 2,4). Hoạt động truyền giáo nhằm phục vụ chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhằm phục vụ con người. Truyền giáo là thông đạt cho tha nhân hồng ân đức tin quý báu mà chúng ta đã lãnh nhận và hồng ân ấy liên hệ tới hạnh phúc của mọi người là được mời gọi thông phần vào sự sống của Thiên Chúa nhờ hồng ân cứu độ của Chúa Kitô. Nói cách khác, chúng ta may mắn được nhận biết Chúa Kitô và tin vào Người. Niềm vui này cần phải được chia sẻ cho người khác để họ cũng có cơ hội để nhận biết và tin vào Chúa Kitô như chúng ta.
Bởi thế, Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Ad Gentes cho rằng: “Bản chất Giáo Hội là truyền giáo.” (AG, 2.) Giáo Hội được thành lập để truyền giáo. Từ hơn hai mươi thế kỷ qua, Giáo Hội đã luôn cố gắng thực hiện lệnh truyền này của Chúa Giêsu, nhờ đó, Tin Mừng đã được phổ biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới. Giáo Hội bắt đầu từ một nhóm người rất nhỏ bé, nay đã trở thành mội đại gia đình rộng lớn và phát triển mạnh mẽ khắp mọi nơi và mọi dân tộc.
Trong bối cảnh hiện nay, Giáo Hội càng phải tích cực hơn nữa để tiếp tục sứ vụ này. Có thể nói rằng đây là thời điểm của truyền giáo. Về điểm này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và đời sống của tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận ân ban cứu độ của Người thì được thoát khỏi tội lỗi, nỗi buồn phiền, sự trống rỗng và nỗi cô độc nội tâm. Với Đức Giêsu Kitô, niềm vui thường hằng tái sinh.” ( ĐGH. Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm vui Tin Mừng, Sđd., số 1). Đó là lý do mà chúng ta phải truyền giáo.
2- Đối tượng của truyền giáo
Khi xem xét và nhận định về tình hình của thế giới hôm nay, cũng trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói tới ba đối tượng mà chúng ta phải hướng tới để loan báo Tin Mừng. (Sđd., số 14.)
Cho những Kitô hữu bình thường
Đối tượng thứ nhất đó là những người đã được Rửa Tội và đang thực hành niềm tin của mình một cách bình thường
.
Đối tượng này gồm những người trong cộng đoàn giáo xứ, trong gia đình chúng ta. Mỗi người chúng ta cần phải tiếp tục Tin Mừng hóa bản thân bằng việc lắng nghe Lời Chúa, nội tâm hóa các giá trị Tin Mừng, thực hành Lời Chúa, nhờ đó chúng ta trở thành những người Kitô hữu đích thực, những người đượm chất Tin Mừng, chứ không phải chỉ là những Kitô hữu trên danh nghĩa. Từ việc Tin Mừng hóa bản thân, chúng ta có thể Tin Mừng hóa gia đình, giáo xứ và môi trường mà chúng ta sống. Có thể nói đây là phạm vi mục vụ thông thường.
Cho những Kitô hữu không còn thực hành niềm tin
Đối tượng thứ hai cần được loan báo Tân Phúc Âm hóa là những người Kitô hữu đã được rửa tội, nhưng nay họ không còn thực hành niềm tin, không đến nhà thờ nữa, họ đã rời bỏ Giáo Hội. Nếu nhìn vào bức tranh truyền giáo của thế giới, những đối tượng này phần lớn thuộc các nước ở châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Ở đó, có rất nhiều người Công Giáo nhưng chỉ trên danh nghĩa, họ không còn sống niềm tin của mình. Có thể nói rằng cánh đồng truyền giáo cho những đối tượng này thật bát ngát bao la. Những người này cần được tiếp tục tái truyền giáo, nhờ đó họ trở lại sống niềm tin của mình.
Cho những người chưa biết Chúa và Tin Mừng
Đối tượng thứ ba đó là những người chưa biết Chúa Kitô và Tin Mừng, họ là những người không có tôn giáo nào, hoặc thuộc về một tôn giáo nào đó, nhưng chưa nhận biết Tin Mừng và chưa tin vào Chúa Kitô, họ là những người lương dân sống bên cạnh chúng ta.
Theo thống kê niêm giám của Tòa Thánh công bố ngày 06 tháng 3 năm 2019, tổng dân số thế giới có khoảng 7 tỷ 500 triệu người. Nhưng chỉ có 1 tỷ 313 triệu người Công Giáo, chiếm 17,7% dân số thế giới.
Ở Việt Nam hiện nay, vẫn còn rất nhiều người chưa biết Chúa và Tin Mừng. Theo thống kê năm 2019, Việt Nam có hơn 96 triệu người, nhưng tỷ lệ người Công Giáo chỉ chiếm gần 7%, nghĩa là cứ 100 người Việt thì chỉ có 7 người Công Giáo. Hằng năm, con số người gia nhập đạo rất ít.
Như thế, phần lớn là những người chưa biết Tin Mừng của Chúa Giêsu. Nếu nhìn theo viễn tượng này, thì Lời Chúa vẫn rất thời sự và cấp bách đối với chúng ta ngày nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” (Lc 10,2). Chúng ta được mời gọi đến với những người này, gặp gỡ họ và chia sẻ niềm tin của mình với họ.
3- Cách thức truyền giáo
Vậy làm sao chúng ta có thể truyền giáo cho con người hôm nay? Để trả lời câu hỏi này, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói đến ba cách thức truyền giáo:
Thứ nhất là cử hành phụng vụ.
Nghĩa là truyền giáo bằng việc cử hành cách bí tích, đọc kinh, cầu nguyện hằng này. Bởi lẽ, dân Chúa được hình thành nhờ việc cử hành và tham dự các bí tích. Mỗi người chúng ta được mời gọi mỗi ngày, mỗi Chúa Nhật đến tham dự thánh lễ và cử hành các bí tích, đọc kinh cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa. Qua việc tham dự phụng vụ, chúng ta gặp gỡ và sống thân tình với Chúa Kitô, nhờ đó, chúng ta được Lời Chúa và Thánh Thể nuôi dưỡng. Một người Kitô hữu đích thực là một người siêng năng tham dự các bí tích. Không thể là Kitô hữu đích thực nếu ngày Chúa Nhật họ không đến nhà thờ.
Cách thức thứ hai là rao giảng Tin Mừng
Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông Đồ: “Hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” Truyền giáo là loan báo Lời Chúa, kể chuyện về Chúa, kể lại kinh nghiệm đức tin của mình cho người khác. Ngày hôm nay chúng ta cần phải ra đi và chia sẻ Tin Mừng cho những người xung quanh chúng ta. Trong mỗi cuộc gặp gỡ, chúng ta có thể chia sẻ kinh nghiệm đức tin của mình cho những người khác. Chúng ta có thể kể chuyện về Thiên Chúa, về ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang đến cho người khác nghe. Chúng ta có thể làm được điều này trong mọi hoàn cảnh, khi gặp gỡ, khi điện thoại, khi thăm viếng, khi đi đường, khi ở nhà hoặc khi làm việc. Chúng ta có thể dùng truyền thông như facebook, internet, email... để chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Tất cả là cơ hội để chúng ta rao giảng Lời Chúa, nói chuyện về Chúa cho người khác.
Cách thức thứ ba đó là sống chứng tá bằng đời sống bái ái
Truyền giáo bằng những việc làm cụ thể, bằng chính đời sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta đến thăm viếng những người già, người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi trong xã hội. Chúng ta giúp đỡ họ, an ủi họ. Qua những việc làm cụ thể, họ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì, lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Những hành vi bác ái cụ thể là những bài giảng hùng hồn nhất về Thiên Chúa. Đây là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất.
Như thế, trong cả ba cách thức trên chúng ta đều có thể áp dụng để truyền giáo cho bất cứ ai mà gặp gỡ. Chúng ta hãy mạnh dạn truyền giáo, đừng sợ hãi, đừng ngần ngại, bởi vì, có Chúa Thánh Thần đến đồng hành và nâng đỡ chúng ta như Ngài đã đến và ban sức mạnh cho các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,10-20).
4- Để truyền giáo hiệu quả
Để truyền giáo và làm chứng cho Chúa Kitô một cách hiệu quả, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta hãy sống những điều chính yếu sau đây:
Tập trung vào Chúa Kitô
Đức Giáo Hoàng cảnh báo chúng ta về cám dỗ của ngày hôm nay, chúng ta biết quá nhiều điều và lại quá chú trọng đến những điều thứ yếu mà quên điều chính yếu. Điều chính yếu của đời sống của người kitô hữu biết Đức Kitô và nên giống Người. Để truyền giáo hiệu quả, trước hết chúng ta phải có kinh nghiệm về Thiên Chúa, đi vào tương quan gặp gỡ, sống mật thiết và yêu mến Chúa Kitô, xây dựng đời sống chúng ta trên nền tảng là Chúa Kitô. Mỗi ngày cố gắng để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để có trái tim của Chúa, tâm tình của Chúa, cách hành xử và cách nghĩ như Chúa. Khi Chúa Kitô trở thành trung tâm điểm đời sống, chúng ta coi những thứ khác như tiền bạc, danh vọng, địa vị, hưởng lạc... là thứ yếu, và có khi có thế nói: “Tôi coi tất cả là rơm rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3,8).
Vì thế, Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta: hãy tập trung đời sống vào Chúa Kitô, phát xuất lại từ Ngài.
Hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn
Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của công việc truyền giáo, nên chúng ta được mời gọi phó thác hoàn toàn và trong mọi sự cho sự hướng dẫn bên trong của Chúa Thánh Thần như là vị “linh hướng bên trong”, như là linh hồn của đời sống Kitô hữu, như người nghệ sỹ dưới sự điều khiển của nhạc trưởng, như cây đàn trong tay nghệ sỹ.
Chúng ta có mẫu gương sống động nhất về điều này nơi chính cuộc đời Chúa Giêsu. Người không bao giờ hiểu biết điều gì mà không nhờ Chúa Thánh Thần. Không có Chúa Thánh Thần, chúng ta không thể truyền giáo, bằng chứng rõ ràng qua biến cố Hiện Xuống: Sau khi Chúa chết, các môn đệ đều thất vọng, hoang mang và sợ sệt, nhưng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ can đảm ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh, nói được tiếng lạ, chữa lành các bệnh tật và trừ quỷ. Tất cả điều đó nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nếu không có Chúa Thánh Thần, truyền giáo trở thành tuyên truyền. Nhưng có Chúa Thánh Thần, truyền giáo trở thành một lễ Hiện Xuống mới. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định cách rõ ràng rằng: “Chúa Thánh Thần là tác nhân chính (protagonist) của tất cả sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội.” (Gioan Phaolô II, Redemtoris missio, số 21.) Chính vì thế mà thánh Tông Đồ mời gọi “Anh em hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn (Gl 5,18).
Xây dựng nền văn hóa gặp gỡ
Thế giới mà chúng ta đang vẫn còn bị thống trị bởi nền văn hóa của loại trừ và thù địch. Con người vẫn còn đối xử và nhìn người khác như là kẻ thù của nhau.
Đức tin kitô giáo không cho phép chúng ta nhìn tha nhân là thù địch, là hỏa ngục, nhưng họ chính là hình ảnh của Thiên Chúa, là một nhân vị quý giá đáng trân trọng, được Chúa Giêsu đổ máu cứu chuộc. Vì thế, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta xây dựng nền văn hóa gặp gỡ. Bắt đầu từ trong gia đình của mình. Để gặp nhau, chúng ta phải dành thời gian cho nhau, tôn trọng, lắng nghe, chia sẻ, nâng đỡ và yêu thương nhau.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn muốn một chúng ta đi ra ngoài, ra vùng ngoại ô, ra khỏi phạm vi của mình để vươn tới mọi người, để gặp gỡ mọi người mà không loại trừ ai.
Chúng ta đừng loại trừ nhau trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ. Nhưng tất cả được mời gọi mở rộng cái nhìn của mình theo cách nhìn của Thiên Chúa, là biết tôn trọng và đón nhận những khác biệt của người khác, của các tôn giáo khác. Để Giáo Hội là nhà rộng cửa đón tiếp mọi người như là nhà của Thiên Chúa, ngõ hầu họ cũng được ơn cứu độ.
5- Kết luận
Truyền giáo là sứ vụ chính yếu của mỗi người Kitô hữu. Chúng ta không chỉ là người có Chúa Kitô, nhưng phải là người mang Chúa Kitô cho người khác. Ước mong rằng tâm nguyện của thánh Phaolô phải là tâm nguyện của mỗi người chúng ta mỗi ngày: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
Hướng tới Chúa Nhật Truyền Giáo 2019
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Cầu nguyện liên lỉ như hít thở không nghỉ
Lm Nguyễn Xuân Trường
20:20 18/10/2019
Người Việt thường nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Người Tây cũng nói: “Thành công là kết quả của 1% tài năng và 99% cần cù lao động”. Cả Tây lẫn Ta đều khẳng định cuộc đời muốn thành công phải kiên gan bền chí. Điều này cũng đúng cả trong đời sống tôn giáo. Phải kiên trì cầu nguyện.
Trong trời đất, muốn lên đỉnh núi phải kiên trì cố sức leo hàng ngàn bước, chứ leo vài bước đã kêu mỏi đã than chán thì chỉ lên đỉnh mô đất mà thôi.
Trong đời người, không ai sinh ra vài ngày đã thành người lớn, mà cần nhiều năm tháng để trưởng thành. Cũng không ai tập thể hình vài ngày bụng đã cuồn cuộn 6 múi, mà phải bền bỉ tập luyện tháng này qua tháng khác.
Trong tình yêu, dù có phải lòng nhau đi nữa thì cũng không ai yêu hôm trước hôm sau cưới liền, mà rất cần có những năm tháng tìm hiểu kỹ càng.
Trong đời sống đức tin cũng vậy, không chỉ cầu xin 1 lần là được ngay, mà phải kiên tâm cầu nguyện hàng ngày. Cầu nguyện là huyết mạch kết nối tín hữu với Thiên Chúa.
Ở đời, “con có khóc mẹ mới cho bú”, trong Đạo, con cũng cần cầu xin để Chúa ban ơn. Phúc Âm tuần này kể dụ ngôn bà góa cứ kiên tâm nài nỉ cầu xin nên đã được quan tòa minh xét.
Dụ ngôn muốn dạy chúng ta hãy vững tin vào Chúa, hãy cầu xin liên lỉ. Cầu nguyện như hơi thở của linh hồn. Nhờ hít thở suốt ngày đêm mà thân xác chúng ta đón nhận khí trời đem sự sống, thì nhờ cầu nguyện liên lỉ mà cuộc đời chúng ta đón nhận ơn phù trợ và tình thương của Thiên Chúa. Amen.
Trong trời đất, muốn lên đỉnh núi phải kiên trì cố sức leo hàng ngàn bước, chứ leo vài bước đã kêu mỏi đã than chán thì chỉ lên đỉnh mô đất mà thôi.
Trong đời người, không ai sinh ra vài ngày đã thành người lớn, mà cần nhiều năm tháng để trưởng thành. Cũng không ai tập thể hình vài ngày bụng đã cuồn cuộn 6 múi, mà phải bền bỉ tập luyện tháng này qua tháng khác.
Trong tình yêu, dù có phải lòng nhau đi nữa thì cũng không ai yêu hôm trước hôm sau cưới liền, mà rất cần có những năm tháng tìm hiểu kỹ càng.
Trong đời sống đức tin cũng vậy, không chỉ cầu xin 1 lần là được ngay, mà phải kiên tâm cầu nguyện hàng ngày. Cầu nguyện là huyết mạch kết nối tín hữu với Thiên Chúa.
Ở đời, “con có khóc mẹ mới cho bú”, trong Đạo, con cũng cần cầu xin để Chúa ban ơn. Phúc Âm tuần này kể dụ ngôn bà góa cứ kiên tâm nài nỉ cầu xin nên đã được quan tòa minh xét.
Dụ ngôn muốn dạy chúng ta hãy vững tin vào Chúa, hãy cầu xin liên lỉ. Cầu nguyện như hơi thở của linh hồn. Nhờ hít thở suốt ngày đêm mà thân xác chúng ta đón nhận khí trời đem sự sống, thì nhờ cầu nguyện liên lỉ mà cuộc đời chúng ta đón nhận ơn phù trợ và tình thương của Thiên Chúa. Amen.
Thánh Lễ Chúa Nhật 29 Mùa Thường Niên 20/10/2019 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
22:08 18/10/2019
Bài Ðọc I: Xh 17, 8-13
"Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: "Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi". Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
Xướng: Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất.
Xướng: Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té; Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say.
Xướng: Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm.
Xướng: Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến; Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi và khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời.
Bài Ðọc II: 2 Tm 3, 14 - 4, 2
"Người của Thiên Chúa được hoàn hảo, để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.
Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Ðức Kitô, Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 1-8
"Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: "Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: 'Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù'. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: 'Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc'".
Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
Ðó là lời Chúa.
"Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: "Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi". Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
Xướng: Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất.
Xướng: Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té; Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say.
Xướng: Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm.
Xướng: Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến; Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi và khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời.
Bài Ðọc II: 2 Tm 3, 14 - 4, 2
"Người của Thiên Chúa được hoàn hảo, để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.
Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Ðức Kitô, Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 1-8
"Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: "Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: 'Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù'. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: 'Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc'".
Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
Ðó là lời Chúa.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thánh lễ tại Santa Marta 15/10/2019: Hãy học cách chỉ tay vào chính mình, để được giải thoát khỏi sự giả hình
Lệ Hằng, F.M.A.
16:41 18/10/2019
Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng sự giả hình giết chết chúng ta và để chống lại nó chúng ta cần học cách buộc tội chính mình và mở lòng mình ra để Chúa có thể chữa trị cho chúng ta. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba tại nhà nguyện Santa Marta.
Ngài nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu không dung thứ cho sự giả hình. Chúng ta phải được chữa khỏi bệnh đạo đức giả, và điều đầu tiên là ta phải học biết cách chỉ tay vào chính mình trước mặt Chúa, vì bất cứ ai không thể làm như vậy thì không phải là một tín hữu Kitô tốt.
Nói một đàng, làm một nẻo
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu được một người Pha-ri-sêu mời đến ăn trưa nhưng rồi Người bị chủ nhà chỉ trích vì các môn đệ của Ngài không thực hiện nghi thức rửa tay trước khi ngồi vào bàn ăn.
Đức Thánh Cha giải thích rằng hành vi này không thể được dung thứ và là đạo đức giả bởi vì người Pha-ri-sêu này chỉ làm bộ mời Chúa Giêsu đến ăn trưa, còn thực tâm bên trong là nhằm phán xét Ngài, chứ không phải là muốn kết bạn với anh ta. Đây chính xác là đạo đức giả, nói một đàng, làm một nẻo.
Sự thật
Chúa Giêsu thường gọi những kẻ đạo đức giả là “mồ mả tô vôi”. Theo Đức Thánh Cha, đây không phải là một sự xúc phạm, nhưng đó là sự thật. Ngài giải thích rằng thái độ đạo đức giả luôn bắt nguồn từ kẻ nói dối trâng tráo nhất, là ma quỷ. Ngài nói rằng ma quỷ là kẻ đạo đức giả đầu tiên và tất cả những kẻ đạo đức giả khác đều là những người thừa kế của nó.
Chúa Giêsu thích lật mặt nạ những kẻ đạo đức giả, là những người sử dụng ngôn ngữ ma quỷ, vì Ngài biết rằng đây là thái độ sẽ dẫn đến cái chết đời đời của người ấy.
Đạo đức giả giết chết
Đức Thánh Cha Phanxicô nói tiếp rằng bất cứ ai nghĩ rằng hình thức đạo đức giả này không tồn tại, đã bị nhầm lẫn. Mặc dù, đạo đức giả là một điều bất bình thường, nhưng đó lại là một trò phổ biến nhất trên đời khi người ta nói một đàng và làm một nẻo. Một ví dụ về điều này là trong cuộc chiến giành quyền lực. Ghen tuông khiến người ta hành động một cách tinh ranh, lịch sự bề ngoài nhưng với chất độc bên trong, chất độc để giết người khác, bởi vì đạo đức giả luôn giết chết. Nhưng chất độc ấy cũng làm hại chính mình.
Hãy mở ra lòng với Chúa
Để chữa trị cho thói giả hình này, chúng ta phải học cách chỉ tay vào chính chúng ta. Chúng ta phải mở lòng mình ra trước mặt Chúa và giải phóng những gì chúng ta có trong chúng ta. Bài tập tâm linh này, theo Đức Thánh Cha không phải là dễ học, nhưng chúng ta phải cố gắng thực hiện nó. Chúng ta phải nhìn thấy sự giả hình và xấu xa mà chúng ta có trong lòng mình.
Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ lại lời cầu nguyện của Thánh Phêrô, “Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Điều này nhắc nhở các tín hữu về tầm quan trọng trong việc thừa nhận sai lầm của chúng ta.
Source:Vatican NewsPope at Mass: Learn to point the finger at yourself, to be freed of hypocrisy
Ngài nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu không dung thứ cho sự giả hình. Chúng ta phải được chữa khỏi bệnh đạo đức giả, và điều đầu tiên là ta phải học biết cách chỉ tay vào chính mình trước mặt Chúa, vì bất cứ ai không thể làm như vậy thì không phải là một tín hữu Kitô tốt.
Nói một đàng, làm một nẻo
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu được một người Pha-ri-sêu mời đến ăn trưa nhưng rồi Người bị chủ nhà chỉ trích vì các môn đệ của Ngài không thực hiện nghi thức rửa tay trước khi ngồi vào bàn ăn.
Đức Thánh Cha giải thích rằng hành vi này không thể được dung thứ và là đạo đức giả bởi vì người Pha-ri-sêu này chỉ làm bộ mời Chúa Giêsu đến ăn trưa, còn thực tâm bên trong là nhằm phán xét Ngài, chứ không phải là muốn kết bạn với anh ta. Đây chính xác là đạo đức giả, nói một đàng, làm một nẻo.
Sự thật
Chúa Giêsu thường gọi những kẻ đạo đức giả là “mồ mả tô vôi”. Theo Đức Thánh Cha, đây không phải là một sự xúc phạm, nhưng đó là sự thật. Ngài giải thích rằng thái độ đạo đức giả luôn bắt nguồn từ kẻ nói dối trâng tráo nhất, là ma quỷ. Ngài nói rằng ma quỷ là kẻ đạo đức giả đầu tiên và tất cả những kẻ đạo đức giả khác đều là những người thừa kế của nó.
Chúa Giêsu thích lật mặt nạ những kẻ đạo đức giả, là những người sử dụng ngôn ngữ ma quỷ, vì Ngài biết rằng đây là thái độ sẽ dẫn đến cái chết đời đời của người ấy.
Đạo đức giả giết chết
Đức Thánh Cha Phanxicô nói tiếp rằng bất cứ ai nghĩ rằng hình thức đạo đức giả này không tồn tại, đã bị nhầm lẫn. Mặc dù, đạo đức giả là một điều bất bình thường, nhưng đó lại là một trò phổ biến nhất trên đời khi người ta nói một đàng và làm một nẻo. Một ví dụ về điều này là trong cuộc chiến giành quyền lực. Ghen tuông khiến người ta hành động một cách tinh ranh, lịch sự bề ngoài nhưng với chất độc bên trong, chất độc để giết người khác, bởi vì đạo đức giả luôn giết chết. Nhưng chất độc ấy cũng làm hại chính mình.
Hãy mở ra lòng với Chúa
Để chữa trị cho thói giả hình này, chúng ta phải học cách chỉ tay vào chính chúng ta. Chúng ta phải mở lòng mình ra trước mặt Chúa và giải phóng những gì chúng ta có trong chúng ta. Bài tập tâm linh này, theo Đức Thánh Cha không phải là dễ học, nhưng chúng ta phải cố gắng thực hiện nó. Chúng ta phải nhìn thấy sự giả hình và xấu xa mà chúng ta có trong lòng mình.
Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ lại lời cầu nguyện của Thánh Phêrô, “Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Điều này nhắc nhở các tín hữu về tầm quan trọng trong việc thừa nhận sai lầm của chúng ta.
Source:Vatican News
Phiên họp toàn thể thứ 13 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Vùng Amazon
Vũ Văn An
18:42 18/10/2019
Phiên họp toàn thể lần thứ 13 diễn ra vào chiều thứ Năm, ngày 17 tháng 10, và được dành cho việc trình bày các báo cáo của các nhóm làm việc nhỏ. 177 Nghị phụ Thượng Hội Đồng đã có mặt, dưới sự chủ tọa của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Các đóng góp, được đệ trình cho Tổng thư ký của Thượng hội đồng, không tạo nên một tài liệu chính thức của Thượng hội đồng. Đúng hơn, chúng là một bản tóm tắt các cuộc thảo luận diễn ra giữa những người tham gia Thượng Hội Đồng.
Vatican News viết như trên. Và bản tóm lược của họ tiếp tục như sau:
Thượng hội đồng là một hồng phúc quý giá của Chúa Thánh Thần ban cho Amazon và cho toàn Giáo hội, theo quan điểm của cả thần học lẫn mục vụ, và cho nhiệm vụ không thể tránh khỏi là chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Đó là một hoàng thời (Kairos), một thời gian ân sủng, một cơ hội thuận lợi để Giáo hội hòa giải với Amazon. Đó là sợi chỉ xuyên suốt kết hợp mười hai báo cáo của các nhóm làm việc nhỏ đã được trình bày trong Hội trường Thượng Hội Đồng vào chiều thứ Năm.
Một Thượng hội đồng có tính phổ quát
Tất cả các bản văn được đọc công khai đều bày tỏ hy vọng rằng ở Amazon, một con đường đồng nghị mới sẽ được khai triển và từ cuộc tập hợp các giám mục ở Vatican, một khởi đầu mới sẽ được thực hiện với niềm say mê truyền giáo hăng hái, vốn là điển hình của một Giáo hội nhìn ra ngoài thực sự. Hy vọng việc " sống đẹp" của Amazon sẽ gặp gỡ kinh nghiệm của Bát Phúc: Thực thế, dưới ánh sáng Lời Chúa, nó đang vươn tới sự thể hiện trọn vẹn của nó. Đã có nhiều đề nghị cụ thể đa dạng từ nhiều nhóm khác nhau cần được làm sáng tỏ: Thượng Hội Đồng hiện tại không chỉ là một Thượng Hội Đồng khu vực, mà còn có tính phổ quát, vì những gì xảy ra tại Amazon đều ảnh hưởng đến toàn thế giới.
Một Giáo Hội cho người nghèo và chống lại mọi hình thức bạo lực
Một điều bắt buộc đối với Giáo hội là lắng nghe tiếng kêu than của người ta và của trái đất; không im lặng, đứng về phía người nghèo và nói "không với bạo lực". Điều sau ở Amazon có một số khuôn mặt: bạo lực trong các nhà tù quá đông đúc; lạm dụng và khai thác tình dục; vi phạm quyền lợi của người bản địa; sát hại những người bảo vệ lãnh thổ; buôn bán và kinh doanh ma túy; tiêu diệt dân số trẻ; buôn bán người; văn hóa sát nữ và nam tôn; diệt chủng, đoạt sinh (biopiracy), diệt sắc tộc (ethnocide): mọi điều ác cần phải chiến đấu chống lại vì chúng giết chết cả văn hóa lẫn tinh thần. Việc lên án các vi phạm có hệ thống của khai khoáng và phá rừng đã rõ ràng. Một số vị nhấn mạnh mối liên hệ giữa việc lạm dụng những người yếu thế nhất và việc lạm dụng thiên nhiên. Trong số các trường hợp khẩn cấp được nhấn mạnh, chủ đề khủng hoảng khí hậu đã được dành nhiều không gian hơn cả.
Đề nghị thiết lập vọng quan sát nhân quyền của giáo hội quốc tế
Chính những người bản địa phải trả giá cao nhất bằng cuộc sống của họ, vì họ không được giúp đỡ, họ không được bảo vệ tại các lãnh thổ của họ. Đây là lý do tại sao hơn một Nhóm nhỏ đã kêu gọi thiết lập vọng quan sát nhân quyền quốc tế, vì xác tín rằng việc bảo vệ các dân tộc và thiên nhiên phải là đặc quyền của hành động giáo hội và mục vụ. Cũng có gợi ý cho rằng các giáo xứ nên tạo không gian an toàn cho trẻ em, thanh thiếu niên và những người dễ bị tổn thương. Quyền sống của mọi người từ thụ thai đến chết tự nhiên đã được tái khẳng định.
Giáo hội không phải là một Tổ chức Phi Chính phủ (NGO). Cần nhiều đối thoại đại kết hơn
Một trong các báo cáo đề nghị, Giáo hội có nhiệm vụ đồng hành với việc làm của những người bảo vệ nhân quyền thường bị các cơ quan công quyền kết tội. Tuy nhiên, đồng thời, Giáo Hội cần tránh việc trở nên giống như một cơ quan phi chính phủ (NGO). Cùng với nguy cơ tự trình bày mình như chỉ có khả năng có tính duy nghi lễ thuần túy, nguy cơ này thường gây ra việc mất nhiều tín hữu, vì họ quay đi tìm câu trả lời cho khát khao tâm linh của họ ở các tôn giáo hoặc hệ phái khác. Các nhóm nhỏ cũng đưa ra yêu cầu phải theo đuổi cuộc đối thoại đại kết và liên tôn một cách mạnh mẽ hơn với việc đề nghị lập hai trung tâm so sánh, một ở Amazon và một ở Rôma, giữa các nhà thần học của RELEP (Mạng lưới nghiên cứu của Ngũ Tuần Mỹ Latinh) và các nhà thần học Công Giáo.
Các thừa tác vụ, giáo dân và bác bỏ chủ nghĩa giáo sĩ trị
Một thừa tác vụ hiện diện được kêu gọi để tránh chủ nghĩa giáo sĩ trị. Về khía cạnh này, một vai trò lớn hơn phải được trao cho giáo dân. Hầu hết mọi Nhóm nhỏ đều yêu cầu phải hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của "Giáo hội thừa tác", nghĩa là một Giáo hội nơi đồng trách nhiệm và cam kết của giáo dân cùng tồn tại. Thí dụ, Nhóm nhỏ "A nói tiếng Tây Ban Nha" đã yêu cầu rằng đàn ông và đàn bà được trao các thừa tác vụ theo cung cách bình đẳng, đồng thời tránh nguy cơ giáo sĩ hóa giáo dân.
Phụ nữ và chức phó tế
Chủ đề phụ nữ hiện diện trong hơn một báo cáo với lời yêu cầu phải công nhận giá trị to lớn của việc họ hiện diện trong các phục vụ chuyên biệt cho Giáo hội ở Amazon, ngay cả trong các vai trò trách nhiệm và lãnh đạo cao hơn. Thí dụ, tại nơi làm việc, chúng ta được yêu cầu đảm bảo việc tôn trọng các quyền lợi của phụ nữ và khắc phục bất cứ loại thiên kiến nào. Hầu hết các nhóm nhỏ kêu gọi phải chú ý đến vấn đề chức phó tế dành cho phụ nữ theo quan điểm của Vatican II, lưu ý rằng nhiều chức năng của thừa tác vụ này đã được phụ nữ trong khu vực thực hiện. Tuy nhiên, có gợi ý cho rằng nên dành nhiều diễn từ hơn cho chủ đề này trong một hội nghị giám mục khác, nơi có lẽ phụ nữ nên được trao quyền bỏ phiếu.
Chức linh mục và các viri probati
Có đề nghị tổ chức một Thượng Hội Đồng Phổ Quát đặc nhiệm (ad hoc) cũng về chủ đề các viri probati. Về chủ đề này, các quan điểm khác nhau từ nhóm làm việc này sang nhóm làm việc khác. Đã có lời nhấn mạnh rằng giá trị của luật độc thân, một hồng phúc được đề nghị với các cộng đồng bản địa, không phải là vấn đề. Nhóm A nói tiếng Ý cảnh báo trước nguy cơ giá trị này sẽ bị suy yếu hoặc việc du nhập các viri probati có thể làm mất đi động lực truyền giáo của Giáo hội hoàn vũ trong việc phục vụ các cộng đồng xa xôi nhất. Hầu hết các báo cáo, chủ yếu của các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhắm vào một Giáo hội "hiện diện" chứ không phải "thăm viếng", và ủng hộ một cách nào đó để trao chức linh mục cho những người đàn ông đã có vợ, có tiếng tăm tốt, tốt nhất là người bản địa được chọn bởi các cộng đồng gốc, nhưng trong các điều kiện chuyên biệt. Cũng có lời nhấn mạnh rằng các linh mục này không nên bị coi là hạng nhì hoặc hạng ba, nhưng là những ơn gọi linh mục thực sự. Chúng ta không nên quên bi kịch của nhiều sắc dân hiện chỉ lãnh nhận các bí tích một hoặc hai lần một năm ở Amazon, chúng ta cũng đã được yêu cầu phải củng cố trong các cộng đồng địa phương ý thức rằng không phải chỉ có Bí tích Thánh Thể, mà cả Lời Chúa nữa cũng là của nuôi dưỡng thiêng liêng cho các tín hữu.
Khủng hoảng ơn gọi và việc đào tạo linh mục
Xem xét kích thước của lãnh thổ toàn vùng Amazon và sự khan hiếm các thừa tác viên, việc thành lập một quỹ khu vực để yểm trợ tính bền vững cho việc truyền giảng tin mừng đã được đề nghị. Ngoài ra, Nhóm A nói tiếng Ý đã bày tỏ "sự bối rối" đối với "việc thiếu suy tư về các nguyên nhân dẫn đến đề nghị khắc phục trong một số hình thức độc thân linh mục như được phát biểu bởi Công đồng Vatican II và Huấn quyền tiếp sau đó. Đồng thời, hy vọng rằng sẽ có việc đào tạo liên tục trong thừa tác vụ nhằm làm cho linh mục đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, và có lời thúc giục rằng các nhà truyền giáo hiện đang thi hành thừa tác vụ linh mục ở phía bắc bán cầu nên được gửi đến Amazon. Trước cuộc khủng hoảng ơn gọi, các nhóm nhỏ ghi nhận sự giảm thiểu hiện diện đáng kể của các tu sĩ ở Amazon và hy vọng sẽ có cuộc canh tân đời sống tu trì, một điều, theo lời nài nỉ của Liên Đoàn Tu Sĩ Châu Mỹ Latinh, CLAR, sẽ được cổ vũ bằng một sự hăng hái đổi mới, nhất là liên quan đến đời sống chiêm niệm. Tập chú của mọi người cũng hướng về việc đào tạo giáo dân: nó phải tòan diện và không chỉ có tính tín lý, mà còn có tính sứ điệp sơ truyền (kerygmatic), đặt nền tảng trên học thuyết xã hội của Giáo hội và dẫn đến việc cảm nghiệm và gặp gỡ với Đấng Phục sinh. Đồng thời việc tăng cường đào tạo các linh mục cũng đã được đề nghị: nó không chỉ mang tính học thuật, nó nên diễn ra tại các lãnh thổ Amazon và cung cấp các kinh nghiệm cụ thể về Giáo hội hướng ra bên ngoài, bên cạnh những con người đau khổ, trong các nhà tù hoặc bệnh viện. Việc thành lập các chủng viện bản địa nơi nền thần học địa phương được nghiên cứu và đào sâu cũng đã được đề nghị.
Đối thoại liên văn hóa và hội nhập văn hóa
Các Nhóm nhỏ cũng yêu cầu nên đem lại cho nền thần học và chăm sóc mục vụ một khuôn mặt bản địa. Đối thoại liên văn hóa và hội nhập văn hóa không nên được hiểu là phản đề. Nhiệm vụ của Giáo hội không phải là quyết định cho người dân Amazon hay đảm nhận vị trí chinh phục, mà là đồng hành, cùng nhau bước đi trong một quan điểm đồng nghị gồm đối thoại và lắng nghe. Thí dụ, đề nghị du nhập "Nghi thức Amazon" đã được đề nghị, cho phép việc phát triển tâm linh, thần học, phụng vụ và kỷ luật từ sự phong phú độc đáo của Giáo Hội Công Giáo tại khu vực. Như đã được giải thích trong một bản báo cáo, "các biểu tượng và cử chỉ của các nền văn hóa địa phương có thể được coi trọng trong phụng vụ của Giáo hội tại Amazon, duy trì sự thống nhất đáng kể của nghi thức Rôma, vì Giáo hội không muốn áp đặt tính độc dạng cứng ngắc trong những điều không ảnh hưởng đến đức tin". Việc cổ vũ kiếnn thức Kinh Thánh cũng được đề nghị, khuyến khích việc dịch nó sang các ngôn ngữ địa phương. Trong viễn cảnh này, việc thành lập một Hội đồng của Giáo hội Toàn Vùng Amazon đã được đề nghị, một cấu trúc giáo hội liên kết với CELAM, và nối kết với REPAM, và với các Hội đồng Giám mục của các quốc gia vùng Amazon.
Viễn kiến về vũ trụ của Amazon
Một trong các báo cáo viết rằng, "Viễn kiến vũ trụ Amazon có rất nhiều điều để dạy thế giới phương Tây vốn bị chi phối bởi kỹ thuật, thường chỉ phục vụ ‘ngẫu thần tiền bạc’". Người dân Amazon coi lãnh thổ của họ là thánh thiêng: do đó, một suy tư về giá trị tinh thần của sinh quần, đa dạng sinh học và quyền đất đai nên được khuyến khích. Mặt khác, việc loan báo Tin Mừng và tính độc đáo trong chiến thắng của Chúa Kitô trên sự chết, trong khi tôn trọng nền văn hóa của các dân tộc, phải được coi như yếu tố thiết yếu để tiếp nhận và hiểu viễn kiến vũ trụ của người Amazon.
Truyền giáo và tử đạo
Các nhà truyền giáo được kêu gọi tước bỏ não trạng duy thực dân , vượt qua các định kiến sắc tộc, tôn trọng các phong tục, nghi lễ và tín ngưỡng. Các Nhóm nhỏ phát biểu rằng các biểu hiện mà các dân tộc dùng để phát biểu đức tin của họ cần được đánh giá cao, đồng hành và cổ vũ. Việc thành lập vọng quan sát mục vụ và xã hội Toàn Vùng Amazon phối hợp với CELAM, các ủy ban công lý và hòa bình của giáo phận, CLAR và REPAM cũng được đề nghị. Ánh sáng và bóng tối phải được công nhận trong lịch sử Giáo hội ở Amazon. Phải phân biệt giữa Giáo hội "bản địa" coi người bản địa như những người thụ động tiếp nhận việc chăm sóc mục vụ và Giáo hội "bản địa" hiểu họ như các nhân vật chủ động đối với kinh nghiệm đức tin của chính họ, theo nguyên tắc "Cứu Amazon bằng Amazon". Điều cũng quan trọng nữa là phải coi trọng tấm gương sáng ngời của nhiều nhà truyền giáo và tử đạo đã hiến mạng sống ở Amazon vì tình yêu Tin Mừng. Nhóm nhỏ A nói tiếng Tây Ban Nha đề nghị khuyến khích các diễn trình phong chân phước cho các vị tử đạo Amazon.
Di dân, giới trẻ và các thành phố
Trong các bản văn được đọc tại hội trường, chúng ta không quên các sắc dân sống trong các vùng cô lập tự nguyện và chúng ta yêu cầu họ được đồng hành bằng việc làm của các nhóm truyền giáo lưu hành. Cũng có chỗ dành cho chủ đề nhập cư, nhất là nơi giới trẻ. Ngày nay, 80% dân số của Amazon sống ở các thành phố. Đây là một hiện tượng thường có các hậu quả tiêu cực như làm mất bản sắc văn hóa, loại trừ xã hội, tan rã hoặc bất ổn gia đình. Do đó, việc truyền giảng tin mừng của các trung tâm đô thị ngày càng trở nên cấp bách, nhưng công việc mục vụ phải thích nghi với các hoàn cảnh mà không quên các khu ổ chuột, vùng ngoại ô, cũng như các thực tại nông thôn. Cũng có nhu cầu cấp bách phải canh tân thừa tác vụ tuổi trẻ. Về mặt sư phạm, Giáo hội được yêu cầu quyết liệt cổ vũ nền giáo dục liên văn hóa song ngữ và khuyến khích một liên minh các mạng lưới đại học chuyên về khoa học Amazon và giáo dục đại học liên văn hóa cho người bản địa.
Bảo vệ sáng thế và chiều kích sinh thái
Chiều kích sinh thái là trung tâm trong các báo cáo của các Nhóm nhỏ trong đó, có lời khẳng định lại rằng Sáng thế là một kiệt tác của Thiên Chúa, mọi tạo vật đều có liên hệ với nhau. Không nên quên rằng "một hoán cải sinh thái thực sự bắt đầu trong gia đình và thông qua một hoán cải bản thân, qua cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu". Từ tiền đề này, điều bắt buộc là giải quyết các vấn đề thiết thực nhất như tăng nhiệt độ hoặc chống lại khí thải CO2. Nó khuyến khích một lối sống đạm bạc hơn và bảo vệ các thiện ích quý giá độc đáo như nước, một nhân quyền căn bản, một quyền mà nếu bị tư nhân hóa hoặc bị ô nhiễm, có nguy cơ gây hại đến cuộc sống của toàn bộ các cộng đồng. Giá trị của cây thuốc cũng nên được nhấn mạnh, cũng như sự phát triển các dự án bền vững, thông qua các khóa học dẫn đến việc hiểu biết các bí mật và sự thánh thiêng của thiên nhiên theo viễn kiến của người Amazon. Một số nhóm nhỏ đề nghị khai triển các dự án trồng lại rừng trong các trường đào tạo về kỹ thuật nông nghiệp.
Tội lỗi sinh thái và cổ vũ một nền kinh tế liên đới
Trong bối cảnh này, có một đề nghị kép; bao gồm chủ đề sinh thái toàn diện vào các chỉ thị của các Hội đồng Giám mục và bao gồm việc tôn trọng Ngôi nhà chung và các tội lỗi sinh thái của chúng ta vào nền Thần học luân lý, và qua cả việc sửa đổi các cẩm nang và nghi thức của Bí tích Giải tội. Một số nghị phụ của Thượng hội đồng công nhận rằng nhân loại đang tiến tới việc công nhận thiên nhiên như một chủ đề pháp luật. "Viễn kiến qui nhân học thực dụng đã lỗi thời và con người không còn có thể để các tài nguyên thiên nhiên bị khai thác không giới hạn gây nguy hiểm cho chính loài người”. Điều cần thiết là phải chiêm ngưỡng các dạng sự sống mênh mông trên hành tinh này trong tương quan với nhau, cùng cổ vũ một mô hình kinh tế liên đới và thành lập một thừa tác vụ để chăm sóc Ngôi nhà chung của chúng ta, theo đề nghị của Nhóm B nói tiếng Bồ Đào Nha.
Thượng Hội Đồng về Amazon và Truyền thông
Cuối cùng, một số báo cáo đã dành chỗ cho chủ đề phương tiện truyền thông. Các mạng lưới truyền thông Công Giáo được khuyến khích đặt Amazon vào trung tâm chú ý của họ, để truyền bá tin mừng và tố cáo mọi loại gây hấn chống lại Mẹ Trái đất và công bố sự thật. Cũng có đề nghị về việc sử dụng các mạng xã hội cho hình thức phát thanh web, truyền hình web và truyền thông vô tuyến để phổ biến các kết luận của Thượng hội đồng này. Hy vọng là dòng sông Thượng hội đồng, với sức mạnh của "dòng sông Amazon", sẽ ngập tràn nhiều hồng ân và ý tưởng được suy nghĩ bởi các nghị phụ đã lên tiếng trong Hội trường và từ kinh nghiệm cùng nhau bước đi này, các nẻo đường mới để truyền giảng tin mừng và sinh thái toàn diện có thể xuất hiện.
Bài này đã được cập nhật
Vatican News viết như trên. Và bản tóm lược của họ tiếp tục như sau:
Thượng hội đồng là một hồng phúc quý giá của Chúa Thánh Thần ban cho Amazon và cho toàn Giáo hội, theo quan điểm của cả thần học lẫn mục vụ, và cho nhiệm vụ không thể tránh khỏi là chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Đó là một hoàng thời (Kairos), một thời gian ân sủng, một cơ hội thuận lợi để Giáo hội hòa giải với Amazon. Đó là sợi chỉ xuyên suốt kết hợp mười hai báo cáo của các nhóm làm việc nhỏ đã được trình bày trong Hội trường Thượng Hội Đồng vào chiều thứ Năm.
Một Thượng hội đồng có tính phổ quát
Tất cả các bản văn được đọc công khai đều bày tỏ hy vọng rằng ở Amazon, một con đường đồng nghị mới sẽ được khai triển và từ cuộc tập hợp các giám mục ở Vatican, một khởi đầu mới sẽ được thực hiện với niềm say mê truyền giáo hăng hái, vốn là điển hình của một Giáo hội nhìn ra ngoài thực sự. Hy vọng việc " sống đẹp" của Amazon sẽ gặp gỡ kinh nghiệm của Bát Phúc: Thực thế, dưới ánh sáng Lời Chúa, nó đang vươn tới sự thể hiện trọn vẹn của nó. Đã có nhiều đề nghị cụ thể đa dạng từ nhiều nhóm khác nhau cần được làm sáng tỏ: Thượng Hội Đồng hiện tại không chỉ là một Thượng Hội Đồng khu vực, mà còn có tính phổ quát, vì những gì xảy ra tại Amazon đều ảnh hưởng đến toàn thế giới.
Một Giáo Hội cho người nghèo và chống lại mọi hình thức bạo lực
Một điều bắt buộc đối với Giáo hội là lắng nghe tiếng kêu than của người ta và của trái đất; không im lặng, đứng về phía người nghèo và nói "không với bạo lực". Điều sau ở Amazon có một số khuôn mặt: bạo lực trong các nhà tù quá đông đúc; lạm dụng và khai thác tình dục; vi phạm quyền lợi của người bản địa; sát hại những người bảo vệ lãnh thổ; buôn bán và kinh doanh ma túy; tiêu diệt dân số trẻ; buôn bán người; văn hóa sát nữ và nam tôn; diệt chủng, đoạt sinh (biopiracy), diệt sắc tộc (ethnocide): mọi điều ác cần phải chiến đấu chống lại vì chúng giết chết cả văn hóa lẫn tinh thần. Việc lên án các vi phạm có hệ thống của khai khoáng và phá rừng đã rõ ràng. Một số vị nhấn mạnh mối liên hệ giữa việc lạm dụng những người yếu thế nhất và việc lạm dụng thiên nhiên. Trong số các trường hợp khẩn cấp được nhấn mạnh, chủ đề khủng hoảng khí hậu đã được dành nhiều không gian hơn cả.
Đề nghị thiết lập vọng quan sát nhân quyền của giáo hội quốc tế
Chính những người bản địa phải trả giá cao nhất bằng cuộc sống của họ, vì họ không được giúp đỡ, họ không được bảo vệ tại các lãnh thổ của họ. Đây là lý do tại sao hơn một Nhóm nhỏ đã kêu gọi thiết lập vọng quan sát nhân quyền quốc tế, vì xác tín rằng việc bảo vệ các dân tộc và thiên nhiên phải là đặc quyền của hành động giáo hội và mục vụ. Cũng có gợi ý cho rằng các giáo xứ nên tạo không gian an toàn cho trẻ em, thanh thiếu niên và những người dễ bị tổn thương. Quyền sống của mọi người từ thụ thai đến chết tự nhiên đã được tái khẳng định.
Giáo hội không phải là một Tổ chức Phi Chính phủ (NGO). Cần nhiều đối thoại đại kết hơn
Một trong các báo cáo đề nghị, Giáo hội có nhiệm vụ đồng hành với việc làm của những người bảo vệ nhân quyền thường bị các cơ quan công quyền kết tội. Tuy nhiên, đồng thời, Giáo Hội cần tránh việc trở nên giống như một cơ quan phi chính phủ (NGO). Cùng với nguy cơ tự trình bày mình như chỉ có khả năng có tính duy nghi lễ thuần túy, nguy cơ này thường gây ra việc mất nhiều tín hữu, vì họ quay đi tìm câu trả lời cho khát khao tâm linh của họ ở các tôn giáo hoặc hệ phái khác. Các nhóm nhỏ cũng đưa ra yêu cầu phải theo đuổi cuộc đối thoại đại kết và liên tôn một cách mạnh mẽ hơn với việc đề nghị lập hai trung tâm so sánh, một ở Amazon và một ở Rôma, giữa các nhà thần học của RELEP (Mạng lưới nghiên cứu của Ngũ Tuần Mỹ Latinh) và các nhà thần học Công Giáo.
Các thừa tác vụ, giáo dân và bác bỏ chủ nghĩa giáo sĩ trị
Một thừa tác vụ hiện diện được kêu gọi để tránh chủ nghĩa giáo sĩ trị. Về khía cạnh này, một vai trò lớn hơn phải được trao cho giáo dân. Hầu hết mọi Nhóm nhỏ đều yêu cầu phải hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của "Giáo hội thừa tác", nghĩa là một Giáo hội nơi đồng trách nhiệm và cam kết của giáo dân cùng tồn tại. Thí dụ, Nhóm nhỏ "A nói tiếng Tây Ban Nha" đã yêu cầu rằng đàn ông và đàn bà được trao các thừa tác vụ theo cung cách bình đẳng, đồng thời tránh nguy cơ giáo sĩ hóa giáo dân.
Phụ nữ và chức phó tế
Chủ đề phụ nữ hiện diện trong hơn một báo cáo với lời yêu cầu phải công nhận giá trị to lớn của việc họ hiện diện trong các phục vụ chuyên biệt cho Giáo hội ở Amazon, ngay cả trong các vai trò trách nhiệm và lãnh đạo cao hơn. Thí dụ, tại nơi làm việc, chúng ta được yêu cầu đảm bảo việc tôn trọng các quyền lợi của phụ nữ và khắc phục bất cứ loại thiên kiến nào. Hầu hết các nhóm nhỏ kêu gọi phải chú ý đến vấn đề chức phó tế dành cho phụ nữ theo quan điểm của Vatican II, lưu ý rằng nhiều chức năng của thừa tác vụ này đã được phụ nữ trong khu vực thực hiện. Tuy nhiên, có gợi ý cho rằng nên dành nhiều diễn từ hơn cho chủ đề này trong một hội nghị giám mục khác, nơi có lẽ phụ nữ nên được trao quyền bỏ phiếu.
Chức linh mục và các viri probati
Có đề nghị tổ chức một Thượng Hội Đồng Phổ Quát đặc nhiệm (ad hoc) cũng về chủ đề các viri probati. Về chủ đề này, các quan điểm khác nhau từ nhóm làm việc này sang nhóm làm việc khác. Đã có lời nhấn mạnh rằng giá trị của luật độc thân, một hồng phúc được đề nghị với các cộng đồng bản địa, không phải là vấn đề. Nhóm A nói tiếng Ý cảnh báo trước nguy cơ giá trị này sẽ bị suy yếu hoặc việc du nhập các viri probati có thể làm mất đi động lực truyền giáo của Giáo hội hoàn vũ trong việc phục vụ các cộng đồng xa xôi nhất. Hầu hết các báo cáo, chủ yếu của các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhắm vào một Giáo hội "hiện diện" chứ không phải "thăm viếng", và ủng hộ một cách nào đó để trao chức linh mục cho những người đàn ông đã có vợ, có tiếng tăm tốt, tốt nhất là người bản địa được chọn bởi các cộng đồng gốc, nhưng trong các điều kiện chuyên biệt. Cũng có lời nhấn mạnh rằng các linh mục này không nên bị coi là hạng nhì hoặc hạng ba, nhưng là những ơn gọi linh mục thực sự. Chúng ta không nên quên bi kịch của nhiều sắc dân hiện chỉ lãnh nhận các bí tích một hoặc hai lần một năm ở Amazon, chúng ta cũng đã được yêu cầu phải củng cố trong các cộng đồng địa phương ý thức rằng không phải chỉ có Bí tích Thánh Thể, mà cả Lời Chúa nữa cũng là của nuôi dưỡng thiêng liêng cho các tín hữu.
Khủng hoảng ơn gọi và việc đào tạo linh mục
Xem xét kích thước của lãnh thổ toàn vùng Amazon và sự khan hiếm các thừa tác viên, việc thành lập một quỹ khu vực để yểm trợ tính bền vững cho việc truyền giảng tin mừng đã được đề nghị. Ngoài ra, Nhóm A nói tiếng Ý đã bày tỏ "sự bối rối" đối với "việc thiếu suy tư về các nguyên nhân dẫn đến đề nghị khắc phục trong một số hình thức độc thân linh mục như được phát biểu bởi Công đồng Vatican II và Huấn quyền tiếp sau đó. Đồng thời, hy vọng rằng sẽ có việc đào tạo liên tục trong thừa tác vụ nhằm làm cho linh mục đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, và có lời thúc giục rằng các nhà truyền giáo hiện đang thi hành thừa tác vụ linh mục ở phía bắc bán cầu nên được gửi đến Amazon. Trước cuộc khủng hoảng ơn gọi, các nhóm nhỏ ghi nhận sự giảm thiểu hiện diện đáng kể của các tu sĩ ở Amazon và hy vọng sẽ có cuộc canh tân đời sống tu trì, một điều, theo lời nài nỉ của Liên Đoàn Tu Sĩ Châu Mỹ Latinh, CLAR, sẽ được cổ vũ bằng một sự hăng hái đổi mới, nhất là liên quan đến đời sống chiêm niệm. Tập chú của mọi người cũng hướng về việc đào tạo giáo dân: nó phải tòan diện và không chỉ có tính tín lý, mà còn có tính sứ điệp sơ truyền (kerygmatic), đặt nền tảng trên học thuyết xã hội của Giáo hội và dẫn đến việc cảm nghiệm và gặp gỡ với Đấng Phục sinh. Đồng thời việc tăng cường đào tạo các linh mục cũng đã được đề nghị: nó không chỉ mang tính học thuật, nó nên diễn ra tại các lãnh thổ Amazon và cung cấp các kinh nghiệm cụ thể về Giáo hội hướng ra bên ngoài, bên cạnh những con người đau khổ, trong các nhà tù hoặc bệnh viện. Việc thành lập các chủng viện bản địa nơi nền thần học địa phương được nghiên cứu và đào sâu cũng đã được đề nghị.
Đối thoại liên văn hóa và hội nhập văn hóa
Các Nhóm nhỏ cũng yêu cầu nên đem lại cho nền thần học và chăm sóc mục vụ một khuôn mặt bản địa. Đối thoại liên văn hóa và hội nhập văn hóa không nên được hiểu là phản đề. Nhiệm vụ của Giáo hội không phải là quyết định cho người dân Amazon hay đảm nhận vị trí chinh phục, mà là đồng hành, cùng nhau bước đi trong một quan điểm đồng nghị gồm đối thoại và lắng nghe. Thí dụ, đề nghị du nhập "Nghi thức Amazon" đã được đề nghị, cho phép việc phát triển tâm linh, thần học, phụng vụ và kỷ luật từ sự phong phú độc đáo của Giáo Hội Công Giáo tại khu vực. Như đã được giải thích trong một bản báo cáo, "các biểu tượng và cử chỉ của các nền văn hóa địa phương có thể được coi trọng trong phụng vụ của Giáo hội tại Amazon, duy trì sự thống nhất đáng kể của nghi thức Rôma, vì Giáo hội không muốn áp đặt tính độc dạng cứng ngắc trong những điều không ảnh hưởng đến đức tin". Việc cổ vũ kiếnn thức Kinh Thánh cũng được đề nghị, khuyến khích việc dịch nó sang các ngôn ngữ địa phương. Trong viễn cảnh này, việc thành lập một Hội đồng của Giáo hội Toàn Vùng Amazon đã được đề nghị, một cấu trúc giáo hội liên kết với CELAM, và nối kết với REPAM, và với các Hội đồng Giám mục của các quốc gia vùng Amazon.
Viễn kiến về vũ trụ của Amazon
Một trong các báo cáo viết rằng, "Viễn kiến vũ trụ Amazon có rất nhiều điều để dạy thế giới phương Tây vốn bị chi phối bởi kỹ thuật, thường chỉ phục vụ ‘ngẫu thần tiền bạc’". Người dân Amazon coi lãnh thổ của họ là thánh thiêng: do đó, một suy tư về giá trị tinh thần của sinh quần, đa dạng sinh học và quyền đất đai nên được khuyến khích. Mặt khác, việc loan báo Tin Mừng và tính độc đáo trong chiến thắng của Chúa Kitô trên sự chết, trong khi tôn trọng nền văn hóa của các dân tộc, phải được coi như yếu tố thiết yếu để tiếp nhận và hiểu viễn kiến vũ trụ của người Amazon.
Truyền giáo và tử đạo
Các nhà truyền giáo được kêu gọi tước bỏ não trạng duy thực dân , vượt qua các định kiến sắc tộc, tôn trọng các phong tục, nghi lễ và tín ngưỡng. Các Nhóm nhỏ phát biểu rằng các biểu hiện mà các dân tộc dùng để phát biểu đức tin của họ cần được đánh giá cao, đồng hành và cổ vũ. Việc thành lập vọng quan sát mục vụ và xã hội Toàn Vùng Amazon phối hợp với CELAM, các ủy ban công lý và hòa bình của giáo phận, CLAR và REPAM cũng được đề nghị. Ánh sáng và bóng tối phải được công nhận trong lịch sử Giáo hội ở Amazon. Phải phân biệt giữa Giáo hội "bản địa" coi người bản địa như những người thụ động tiếp nhận việc chăm sóc mục vụ và Giáo hội "bản địa" hiểu họ như các nhân vật chủ động đối với kinh nghiệm đức tin của chính họ, theo nguyên tắc "Cứu Amazon bằng Amazon". Điều cũng quan trọng nữa là phải coi trọng tấm gương sáng ngời của nhiều nhà truyền giáo và tử đạo đã hiến mạng sống ở Amazon vì tình yêu Tin Mừng. Nhóm nhỏ A nói tiếng Tây Ban Nha đề nghị khuyến khích các diễn trình phong chân phước cho các vị tử đạo Amazon.
Di dân, giới trẻ và các thành phố
Trong các bản văn được đọc tại hội trường, chúng ta không quên các sắc dân sống trong các vùng cô lập tự nguyện và chúng ta yêu cầu họ được đồng hành bằng việc làm của các nhóm truyền giáo lưu hành. Cũng có chỗ dành cho chủ đề nhập cư, nhất là nơi giới trẻ. Ngày nay, 80% dân số của Amazon sống ở các thành phố. Đây là một hiện tượng thường có các hậu quả tiêu cực như làm mất bản sắc văn hóa, loại trừ xã hội, tan rã hoặc bất ổn gia đình. Do đó, việc truyền giảng tin mừng của các trung tâm đô thị ngày càng trở nên cấp bách, nhưng công việc mục vụ phải thích nghi với các hoàn cảnh mà không quên các khu ổ chuột, vùng ngoại ô, cũng như các thực tại nông thôn. Cũng có nhu cầu cấp bách phải canh tân thừa tác vụ tuổi trẻ. Về mặt sư phạm, Giáo hội được yêu cầu quyết liệt cổ vũ nền giáo dục liên văn hóa song ngữ và khuyến khích một liên minh các mạng lưới đại học chuyên về khoa học Amazon và giáo dục đại học liên văn hóa cho người bản địa.
Bảo vệ sáng thế và chiều kích sinh thái
Chiều kích sinh thái là trung tâm trong các báo cáo của các Nhóm nhỏ trong đó, có lời khẳng định lại rằng Sáng thế là một kiệt tác của Thiên Chúa, mọi tạo vật đều có liên hệ với nhau. Không nên quên rằng "một hoán cải sinh thái thực sự bắt đầu trong gia đình và thông qua một hoán cải bản thân, qua cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu". Từ tiền đề này, điều bắt buộc là giải quyết các vấn đề thiết thực nhất như tăng nhiệt độ hoặc chống lại khí thải CO2. Nó khuyến khích một lối sống đạm bạc hơn và bảo vệ các thiện ích quý giá độc đáo như nước, một nhân quyền căn bản, một quyền mà nếu bị tư nhân hóa hoặc bị ô nhiễm, có nguy cơ gây hại đến cuộc sống của toàn bộ các cộng đồng. Giá trị của cây thuốc cũng nên được nhấn mạnh, cũng như sự phát triển các dự án bền vững, thông qua các khóa học dẫn đến việc hiểu biết các bí mật và sự thánh thiêng của thiên nhiên theo viễn kiến của người Amazon. Một số nhóm nhỏ đề nghị khai triển các dự án trồng lại rừng trong các trường đào tạo về kỹ thuật nông nghiệp.
Tội lỗi sinh thái và cổ vũ một nền kinh tế liên đới
Trong bối cảnh này, có một đề nghị kép; bao gồm chủ đề sinh thái toàn diện vào các chỉ thị của các Hội đồng Giám mục và bao gồm việc tôn trọng Ngôi nhà chung và các tội lỗi sinh thái của chúng ta vào nền Thần học luân lý, và qua cả việc sửa đổi các cẩm nang và nghi thức của Bí tích Giải tội. Một số nghị phụ của Thượng hội đồng công nhận rằng nhân loại đang tiến tới việc công nhận thiên nhiên như một chủ đề pháp luật. "Viễn kiến qui nhân học thực dụng đã lỗi thời và con người không còn có thể để các tài nguyên thiên nhiên bị khai thác không giới hạn gây nguy hiểm cho chính loài người”. Điều cần thiết là phải chiêm ngưỡng các dạng sự sống mênh mông trên hành tinh này trong tương quan với nhau, cùng cổ vũ một mô hình kinh tế liên đới và thành lập một thừa tác vụ để chăm sóc Ngôi nhà chung của chúng ta, theo đề nghị của Nhóm B nói tiếng Bồ Đào Nha.
Thượng Hội Đồng về Amazon và Truyền thông
Cuối cùng, một số báo cáo đã dành chỗ cho chủ đề phương tiện truyền thông. Các mạng lưới truyền thông Công Giáo được khuyến khích đặt Amazon vào trung tâm chú ý của họ, để truyền bá tin mừng và tố cáo mọi loại gây hấn chống lại Mẹ Trái đất và công bố sự thật. Cũng có đề nghị về việc sử dụng các mạng xã hội cho hình thức phát thanh web, truyền hình web và truyền thông vô tuyến để phổ biến các kết luận của Thượng hội đồng này. Hy vọng là dòng sông Thượng hội đồng, với sức mạnh của "dòng sông Amazon", sẽ ngập tràn nhiều hồng ân và ý tưởng được suy nghĩ bởi các nghị phụ đã lên tiếng trong Hội trường và từ kinh nghiệm cùng nhau bước đi này, các nẻo đường mới để truyền giảng tin mừng và sinh thái toàn diện có thể xuất hiện.
Bài này đã được cập nhật
Đức Thánh Cha gặp gỡ nhóm người bản địa.
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb
05:42 18/10/2019
Đức Thánh Cha gặp gỡ nhóm người bản địa.
Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ một nhóm người bản địa tham gia Thượng hội đồng Vùng Amazon và nhìn nhận sự cần thiết phải đem Tin Mừng tới cho vùng này. (Tin Vatican)
Khoảng 3 giờ 30 chiều ngày thứ năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ khoảng 40 người dân bản địa, một số tham gia Thượng hội đồng Amazon, số khác tham gia vào các hoạt động văn hóa đang diễn ra song song với Thượng Hội đồng tại Rome. Nhóm này được Đức Hồng Y Claudio Hummes, người Brazil và Đức Tổng Giám Mục Roque Paloschi, giáo phận Porto Velho, Brazil tháp tùng
Theo tuyên cáo của ông Matteo Bruni, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh thì cuộc họp được mở đầu bằng hai bài phát biểu ngắn, được một người nữ và một người nam, đại diện cho người dân bản địa trình bầy. Họ bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Thánh Cha vì đã triệu tập Thượng hội đồng, và yêu cầu giúp đỡ thực hiện những ước muốn của dân bản địa, đảm bảo một nếp sống bình an và hạnh phúc cho người dân bản địa, chăm sóc vùng rừng núi của họ và bảo vệ vùng sông biển của họ cho con cháu được thừa hưởng trong tương lai!
Sau đó Đức Thanh Cha Phanxicô đáp từ ngắn cho những người hiện diện, nhấn mạnh đến cách rao giảng Tin mừng, như một hạt giống rơi xuống đất tốt làm phát sinh ra nhiều hoa trái... Liên quan đến Vùng Amazon, Văn phòng Báo chí Vatican tiếp tục thì Đức Thánh Cha đã nêu ra sự nguy hiểm của các hình thức thực dân mới.
Cuối cùng, Đức Thanh Cha Phanxicô đề cập đến nguồn gốc Kitô giáo, được phát sinh ra từ Do Thái, được phát triển trong thế giới Hy Lạp - Latinh, và sau đó lan tỏa đến các vùng đất khác như Slavic, Á Đông và Mỹ châu và Đức Thanh Cha Phanxicô đã nhắc lại sự cần thiết phải tái truyền bá Tin Mừng. Mọi người có thể đón nhận được Tin mừng của Chúa bằng văn hóa riêng của quê hương đất nước họ sinh sống.
Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ một nhóm người bản địa tham gia Thượng hội đồng Vùng Amazon và nhìn nhận sự cần thiết phải đem Tin Mừng tới cho vùng này. (Tin Vatican)
Khoảng 3 giờ 30 chiều ngày thứ năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ khoảng 40 người dân bản địa, một số tham gia Thượng hội đồng Amazon, số khác tham gia vào các hoạt động văn hóa đang diễn ra song song với Thượng Hội đồng tại Rome. Nhóm này được Đức Hồng Y Claudio Hummes, người Brazil và Đức Tổng Giám Mục Roque Paloschi, giáo phận Porto Velho, Brazil tháp tùng
Theo tuyên cáo của ông Matteo Bruni, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh thì cuộc họp được mở đầu bằng hai bài phát biểu ngắn, được một người nữ và một người nam, đại diện cho người dân bản địa trình bầy. Họ bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Thánh Cha vì đã triệu tập Thượng hội đồng, và yêu cầu giúp đỡ thực hiện những ước muốn của dân bản địa, đảm bảo một nếp sống bình an và hạnh phúc cho người dân bản địa, chăm sóc vùng rừng núi của họ và bảo vệ vùng sông biển của họ cho con cháu được thừa hưởng trong tương lai!
Sau đó Đức Thanh Cha Phanxicô đáp từ ngắn cho những người hiện diện, nhấn mạnh đến cách rao giảng Tin mừng, như một hạt giống rơi xuống đất tốt làm phát sinh ra nhiều hoa trái... Liên quan đến Vùng Amazon, Văn phòng Báo chí Vatican tiếp tục thì Đức Thánh Cha đã nêu ra sự nguy hiểm của các hình thức thực dân mới.
Cuối cùng, Đức Thanh Cha Phanxicô đề cập đến nguồn gốc Kitô giáo, được phát sinh ra từ Do Thái, được phát triển trong thế giới Hy Lạp - Latinh, và sau đó lan tỏa đến các vùng đất khác như Slavic, Á Đông và Mỹ châu và Đức Thanh Cha Phanxicô đã nhắc lại sự cần thiết phải tái truyền bá Tin Mừng. Mọi người có thể đón nhận được Tin mừng của Chúa bằng văn hóa riêng của quê hương đất nước họ sinh sống.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đại hội Linh mục Việt Nam Hoa kỳ: Hành Trình Emmaus VIII kết thức và lời Tri ân chân thành
Ban Tổ Chức
10:19 18/10/2019
SANTA ANA, CA -- Ngày thứ Năm 17.10.2019 sau khi dùng điểm tâm tại TTCG lúc 8:30 và sau giờ Kinh sáng, các linh mục có cuộc Hội thảo cuối cùng trong Hành trình Emmaus VIII với đề tài: “Những góp ý thiết thực cho những sinh họat tương lai của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ”.
Hia2nh ảnh Thánh lễ bế mạc Emmaus VIII và chia tay
Những ý tưởng và ý kiến đóng góp được nêu kên rất thiết thực cho những sinh hoạt trong nhiệm kỳ kế tiếp của Ban Tân Thưởng Vụ Liên Đoàn. Điều hợp do 2 linh mục Tân và Cựu Chủ Tịch LĐCGVNHK.
Lúc 11:00 AM là Thánh lễ bế bạc Đại hội do Đức cha Thomas Nguyễn thái Thành chủ tế và Cha Giuse Nguyễn Thanh Châu, Tân Chủ tịch LĐCGVNHK thuyết giảng.
Cuối thánh lễ có Nghi thức Bàn Giao Tân Ban Thường Vụ Liên Đoàn nhiệm kỳ 2019 – 2023
12:00 PM trưa các Linh mục chia tay trong niềm vui Có Chúa và Có Nhau trong tình Huynh Đệ Linh Mục.
Đại hội Linh mục Việt Nam tại Hoa Kỳ: Hành Trình Emmaus VIII đã kết thúc, nhưng âm vang hãy còn đọng lại. Chắc chắn có những khuyết điểm và thiếu sót mà một số anh em linh mục đã nêu lên hay sẽ tiếp tục bổ sung hầu rút kinh nghiệm cho lần tổ chức sau và đã được thông đạt cho Ban Tân Thường Vụ Liên Đoàn. Tuy nhiên Đại hội lần này có những thành công thấy rõ được đó là:
1/ Trọng tâm có những giờ cầu nguyện và nghi lễ sốt sắng trang nghiêm.
2/ Nội dung hội thảo nhắm tới tâm tình chia sẻ cởi mở mà không mang tính trao ban lý thuyết.
3/ Nhiều sinh hoạt vui tươi sống động tạo cơ hội cho anh em linh mục chưa quen biết được làm quen với nhau.
4/ Tạo bầu khí cho các linh mục sống với gia đình, hay thăm viếng bạn cũ, gặp lại con chiên thân quen... ngay chính giữa khung cảnh của Hành Trình Emmaus VIII.
Để có thể thức hiện được những mục tiêu trên, Ban Tổ Chức chúng tôi có rất nhiều lợi thế như:
1/ Giáo dân Việt Nam tại Nam Cali rất nhiệt thành và quí mến các linh mục, nên kêu gọi gì quí vị Ân nhân và các anh chị em Thiện nguyện viên sẵn sàng giúp đỡ.
2/ Không những Nam Cali có nhiều nhân lực, nhưng tài lực và các phương tiện cho việc tổ chức cũng đồi dào và dễ huy động.
3/ Đặc biệt trong lần tổ chức này, các linh mục tài ba tại địa phương khi được chúng tôi mời tham gia các Tiểu Ban và nhận các công tác thì không một vị nào từ chối lời mời cả. Đó là một món quà đặc biệt cho Liên Đoàn.
Để nói lên phần nào lòng biết ơn của Ban Tổ Chức, xin ghi nhận sự đóng góp đặc biệt và rất tích cực của các Linh mục nhận trách nhiệm các Tiểu Ban. Sau đây là danh sách:
BAN TỔ CHỨC ĐẠI HỘI
ĐÔ. Giuse Trịnh Minh Trí, Chủ tịch Liên Đoàn CGVN Hoa Kỳ
ĐÔ. Giuse Phạm Quốc Tuấn, Chủ Tịch Miền Tây Nam, Trưởng Ban tổ chức
LM. Gioan Trần Công Nghị, Phó Chủ Tịch Miền Tây Nam, Phó Ban tổ chức
LM. Micae Mai Khải-Hoàn, Cựu Chủ Tịch Miền Tây Nam
LM. Vincent Phạm Ngọc Hùng, Tân Giám Đốc Trung tâm Công Giáo Việt Nam, GP Orange
LM. Peter Võ Sơn, Tổng thư ký Liên Đoàn
LM. Giuse Trần Cao Thượng, Tổng thư ký Miền Tây Nam, Thư ký Ban Tổ chức.
CÁC TIỂU BAN:
- Ban Nội Dung và Thuyết trình: Đức ông Trí, Đức ông Tuấn, Cha Nghị Cha Hoàn.
- Ban Tài chánh Đại Hội: Đức ông Tuấn, Ông Quyền, Bs. Hoàng Lan,
anh Nguyễn Khanh, anh Trần Kiệt.
- Ban Thư ký và MC Đại hội: Cha Thái Bảo, Cha Tân, Cha Thành Tài, Cha Thượng.
- Ban Tu chính Nội quy Liên đoàn: Đức ông Phạm văn Phương, Cha Hoàn.
- Ban Tài liệu: Cha Jos Nguyễn Đức Trọng, Cha Phạm Hùng, Cha Tuyên, Anh Kiệt.
- Ban Phụng vụ: Cha Chu Vinh Quang, Cha Phạm Ngọc Hùng, Cha Bill Tuyền Cao.
- Ban Thánh ca: Cha Nguyễn văn Tuyên, Cha Phạm Tuấn, Cha Trần văn Tân.
- Ban Đưa đón: Anh Nguyễn đức Lực và Hiệp Sĩ Columbus.
- Ban Tiếp đón và Tham quan: Cha Thái Bảo, Cha Chính, Cha Chín.
- Ban Hội trường: Cha Phạm Hùng.
- Ban Ẩm thực: Cha Thượng.
- Ban Ghi danh Đại hội & Bảng tên: Bs Hoàng Lan.
- Ban Y tế: Bs Thanh Tâm, Bs Hoàng Lan, Thầy sáu Nguyễn Đức Tuấn.
- Ban Phục vụ Phòng ăn: Anh Trần Kiệt và Nhóm Liên Minh Thánh Tâm.
- Ban Trang Trí: Cha Chris Tuấn, Cha Phương.
- Ban Âm thanh, Ánh sáng, Projector: Anh Tạo, Cha Thượng.
- Ban Truyền thông: Cha Sơn, Cha Nghị.
- Ban Photos & Quay phim: Cha Thượng, Hoàng Dung, William Nguyễn.
BAN TIỆC MỪNG:
- Chương trình Tiệc Mừng Đại hội: Đức ông Tuấn, Cha Nghị, Cha Thượng.
- Ban Sinh hoạt và Văn Nghệ Đại hội: Cha Tạ Anh Kiệt, Cha Thành Tài, Cha Tân.
- Nhà Hàng: Cha Thượng & Bs Hoàng Lan
- Ban Ghi danh tham dự Tiệc: Ông Quyền, Ông Thế Lữ, Ông Thể, Ông Tuấn, Anh Kiệt,
Anh Khanh, Bs Hoàng Lan.
- Ban Tiêp Tân: Bs Hoàng Lan, Bs Thanh Tâm, Cô Sáu Hường, Cô Lang
Ngoài ra còn có các vị Ân Nhân và các Hội đoàn đóng góp tài chánh và công sức cho Đại hội, mà danh tính đã được đăng trong Sách Đại Hội Emmaus VIII, và sẽ bổ sung thêm trên Trang Web của Liên đoàn CGVNHK.
Thay mặt Ban Tổ Chức
Chân thành ghi ơn các Linh mục và Giáo dân đã đóng góp công sức trong Hành Trình Emmaus VIII.
Lm. Trần Công Nghị
Hia2nh ảnh Thánh lễ bế mạc Emmaus VIII và chia tay
Những ý tưởng và ý kiến đóng góp được nêu kên rất thiết thực cho những sinh hoạt trong nhiệm kỳ kế tiếp của Ban Tân Thưởng Vụ Liên Đoàn. Điều hợp do 2 linh mục Tân và Cựu Chủ Tịch LĐCGVNHK.
Lúc 11:00 AM là Thánh lễ bế bạc Đại hội do Đức cha Thomas Nguyễn thái Thành chủ tế và Cha Giuse Nguyễn Thanh Châu, Tân Chủ tịch LĐCGVNHK thuyết giảng.
Cuối thánh lễ có Nghi thức Bàn Giao Tân Ban Thường Vụ Liên Đoàn nhiệm kỳ 2019 – 2023
12:00 PM trưa các Linh mục chia tay trong niềm vui Có Chúa và Có Nhau trong tình Huynh Đệ Linh Mục.
Đại hội Linh mục Việt Nam tại Hoa Kỳ: Hành Trình Emmaus VIII đã kết thúc, nhưng âm vang hãy còn đọng lại. Chắc chắn có những khuyết điểm và thiếu sót mà một số anh em linh mục đã nêu lên hay sẽ tiếp tục bổ sung hầu rút kinh nghiệm cho lần tổ chức sau và đã được thông đạt cho Ban Tân Thường Vụ Liên Đoàn. Tuy nhiên Đại hội lần này có những thành công thấy rõ được đó là:
1/ Trọng tâm có những giờ cầu nguyện và nghi lễ sốt sắng trang nghiêm.
2/ Nội dung hội thảo nhắm tới tâm tình chia sẻ cởi mở mà không mang tính trao ban lý thuyết.
3/ Nhiều sinh hoạt vui tươi sống động tạo cơ hội cho anh em linh mục chưa quen biết được làm quen với nhau.
4/ Tạo bầu khí cho các linh mục sống với gia đình, hay thăm viếng bạn cũ, gặp lại con chiên thân quen... ngay chính giữa khung cảnh của Hành Trình Emmaus VIII.
Để có thể thức hiện được những mục tiêu trên, Ban Tổ Chức chúng tôi có rất nhiều lợi thế như:
1/ Giáo dân Việt Nam tại Nam Cali rất nhiệt thành và quí mến các linh mục, nên kêu gọi gì quí vị Ân nhân và các anh chị em Thiện nguyện viên sẵn sàng giúp đỡ.
2/ Không những Nam Cali có nhiều nhân lực, nhưng tài lực và các phương tiện cho việc tổ chức cũng đồi dào và dễ huy động.
3/ Đặc biệt trong lần tổ chức này, các linh mục tài ba tại địa phương khi được chúng tôi mời tham gia các Tiểu Ban và nhận các công tác thì không một vị nào từ chối lời mời cả. Đó là một món quà đặc biệt cho Liên Đoàn.
Để nói lên phần nào lòng biết ơn của Ban Tổ Chức, xin ghi nhận sự đóng góp đặc biệt và rất tích cực của các Linh mục nhận trách nhiệm các Tiểu Ban. Sau đây là danh sách:
BAN TỔ CHỨC ĐẠI HỘI
ĐÔ. Giuse Trịnh Minh Trí, Chủ tịch Liên Đoàn CGVN Hoa Kỳ
ĐÔ. Giuse Phạm Quốc Tuấn, Chủ Tịch Miền Tây Nam, Trưởng Ban tổ chức
LM. Gioan Trần Công Nghị, Phó Chủ Tịch Miền Tây Nam, Phó Ban tổ chức
LM. Micae Mai Khải-Hoàn, Cựu Chủ Tịch Miền Tây Nam
LM. Vincent Phạm Ngọc Hùng, Tân Giám Đốc Trung tâm Công Giáo Việt Nam, GP Orange
LM. Peter Võ Sơn, Tổng thư ký Liên Đoàn
LM. Giuse Trần Cao Thượng, Tổng thư ký Miền Tây Nam, Thư ký Ban Tổ chức.
CÁC TIỂU BAN:
- Ban Nội Dung và Thuyết trình: Đức ông Trí, Đức ông Tuấn, Cha Nghị Cha Hoàn.
- Ban Tài chánh Đại Hội: Đức ông Tuấn, Ông Quyền, Bs. Hoàng Lan,
anh Nguyễn Khanh, anh Trần Kiệt.
- Ban Thư ký và MC Đại hội: Cha Thái Bảo, Cha Tân, Cha Thành Tài, Cha Thượng.
- Ban Tu chính Nội quy Liên đoàn: Đức ông Phạm văn Phương, Cha Hoàn.
- Ban Tài liệu: Cha Jos Nguyễn Đức Trọng, Cha Phạm Hùng, Cha Tuyên, Anh Kiệt.
- Ban Phụng vụ: Cha Chu Vinh Quang, Cha Phạm Ngọc Hùng, Cha Bill Tuyền Cao.
- Ban Thánh ca: Cha Nguyễn văn Tuyên, Cha Phạm Tuấn, Cha Trần văn Tân.
- Ban Đưa đón: Anh Nguyễn đức Lực và Hiệp Sĩ Columbus.
- Ban Tiếp đón và Tham quan: Cha Thái Bảo, Cha Chính, Cha Chín.
- Ban Hội trường: Cha Phạm Hùng.
- Ban Ẩm thực: Cha Thượng.
- Ban Ghi danh Đại hội & Bảng tên: Bs Hoàng Lan.
- Ban Y tế: Bs Thanh Tâm, Bs Hoàng Lan, Thầy sáu Nguyễn Đức Tuấn.
- Ban Phục vụ Phòng ăn: Anh Trần Kiệt và Nhóm Liên Minh Thánh Tâm.
- Ban Trang Trí: Cha Chris Tuấn, Cha Phương.
- Ban Âm thanh, Ánh sáng, Projector: Anh Tạo, Cha Thượng.
- Ban Truyền thông: Cha Sơn, Cha Nghị.
- Ban Photos & Quay phim: Cha Thượng, Hoàng Dung, William Nguyễn.
BAN TIỆC MỪNG:
- Chương trình Tiệc Mừng Đại hội: Đức ông Tuấn, Cha Nghị, Cha Thượng.
- Ban Sinh hoạt và Văn Nghệ Đại hội: Cha Tạ Anh Kiệt, Cha Thành Tài, Cha Tân.
- Nhà Hàng: Cha Thượng & Bs Hoàng Lan
- Ban Ghi danh tham dự Tiệc: Ông Quyền, Ông Thế Lữ, Ông Thể, Ông Tuấn, Anh Kiệt,
Anh Khanh, Bs Hoàng Lan.
- Ban Tiêp Tân: Bs Hoàng Lan, Bs Thanh Tâm, Cô Sáu Hường, Cô Lang
Ngoài ra còn có các vị Ân Nhân và các Hội đoàn đóng góp tài chánh và công sức cho Đại hội, mà danh tính đã được đăng trong Sách Đại Hội Emmaus VIII, và sẽ bổ sung thêm trên Trang Web của Liên đoàn CGVNHK.
Thay mặt Ban Tổ Chức
Chân thành ghi ơn các Linh mục và Giáo dân đã đóng góp công sức trong Hành Trình Emmaus VIII.
Lm. Trần Công Nghị
Lễ tang Linh mục Bartolomeo Huỳnh San
Bài và Hình Nguyễn Hữu Thiện
09:57 18/10/2019
“Mục Tử và Chiến Sĩ Tự Do” (A Priest and a Freedom Fighter)
Tang lễ Linh mục Bartolomeo Huỳnh San đã được cử hành tại Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang, vùng Keysborough, tiểu bang Victoria, Úc-đại-lợi, sáng Thứ Sáu, 18/10/2019, với sự tham dự của trên 1000 người (giáo dân và người ngoài Công Giáo), dưới sự chủ tế của Đức Tổng Giám Mục Melbourne Peter Comensoli, hiệp cùng ba vị Giám Mục Phụ Tá trong đó có Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long, vị Giám mục gốc Việt đầu tiên tại Úc, và khoảng 50 vị Linh mục Việt, Úc, và các sắc tộc khác.
Xem hình
Vì ngôi thánh đường với sức chứa khoảng 1000 người - do Cha San và Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (sau lên Hồng Y) đặt viên đá đầu tiên - chưa hoàn tất, Thánh lễ An táng đã phải cử hành trong Nhà nguyện, vừa đủ chỗ cho Tang quyến, quan khách, và Ban tổ chức, còn giáo dân phải ở ngoài sân, dưới hầm đậu xe... hiệp dâng Thánh lễ qua màn ảnh video.
Theo di chúc, quan tài của Cha San được đặt dưới đất (noi gương khiêm tốn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị), và di ảnh của Cha là tấm hình mặc áo lễ có Cờ Vàng ba sọc đỏ.
Cuối Thánh Lễ, Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long đã cử hành nghi thức tôn giáo sau cùng, rồi quan tài được Đức Tổng Giám Mục Melbourne và đoàn người rước tới trước ngôi thánh đường sắp hoàn tất để cử hành nghi thức vĩnh biệt, và cũng để Cha nhìn lại công trình của mình lần cuối, trong đó trên cung thánh có hai cửa sổ kính màu “Chúa Cứu Thế” và “Con Thuyền Tỵ Nạn”.
Cũng theo di chức, chỉ có Tang quyến và một vị Linh mục tiễn đưa Cha tới nơi an nghỉ sau cùng.
Sống một cuộc đời giản dị, ra đi trong một tang lễ đơn sơ, không vòng hoa (trừ một vòng duy nhất của Tuyên Úy Đoàn - Úc Châu), không phúng điếu, không trống kèn, tất cả những gì Cha để lại chỉ là tấm gương phục vụ Giáo Hội Công Giáo, Tổ Quốc Việt Nam, cùng muôn vàn giọt lệ tiếc thương.
Người Công Giáo VN tại Victoria sẽ không bao giờ quên Cha, một trong hai vị Linh mục gốc Việt tiên khởi của tiểu bang, người đã có công đặt nền tảng cho Cộng Đoàn Công Giáo VN tại đây. Người Việt quốc gia tại Úc sẽ không bao giờ quên Cha, vị Chủ tịch sáng lập Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria, kiêm vị lãnh đạo tinh thần của tập thể đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ cho quê nhà.
Xin Cha hãy thanh thản về với Chúa, các thế hệ đi sau sẽ nối tiếp “Tinh thần HUỲNH SAN” bất diệt. R.I.P.
Tang lễ Linh mục Bartolomeo Huỳnh San đã được cử hành tại Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang, vùng Keysborough, tiểu bang Victoria, Úc-đại-lợi, sáng Thứ Sáu, 18/10/2019, với sự tham dự của trên 1000 người (giáo dân và người ngoài Công Giáo), dưới sự chủ tế của Đức Tổng Giám Mục Melbourne Peter Comensoli, hiệp cùng ba vị Giám Mục Phụ Tá trong đó có Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long, vị Giám mục gốc Việt đầu tiên tại Úc, và khoảng 50 vị Linh mục Việt, Úc, và các sắc tộc khác.
Di ảnh Cha cố Bart Huỳnh San |
Xem hình
Vì ngôi thánh đường với sức chứa khoảng 1000 người - do Cha San và Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (sau lên Hồng Y) đặt viên đá đầu tiên - chưa hoàn tất, Thánh lễ An táng đã phải cử hành trong Nhà nguyện, vừa đủ chỗ cho Tang quyến, quan khách, và Ban tổ chức, còn giáo dân phải ở ngoài sân, dưới hầm đậu xe... hiệp dâng Thánh lễ qua màn ảnh video.
Theo di chúc, quan tài của Cha San được đặt dưới đất (noi gương khiêm tốn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị), và di ảnh của Cha là tấm hình mặc áo lễ có Cờ Vàng ba sọc đỏ.
Cuối Thánh Lễ, Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long đã cử hành nghi thức tôn giáo sau cùng, rồi quan tài được Đức Tổng Giám Mục Melbourne và đoàn người rước tới trước ngôi thánh đường sắp hoàn tất để cử hành nghi thức vĩnh biệt, và cũng để Cha nhìn lại công trình của mình lần cuối, trong đó trên cung thánh có hai cửa sổ kính màu “Chúa Cứu Thế” và “Con Thuyền Tỵ Nạn”.
Cũng theo di chức, chỉ có Tang quyến và một vị Linh mục tiễn đưa Cha tới nơi an nghỉ sau cùng.
Sống một cuộc đời giản dị, ra đi trong một tang lễ đơn sơ, không vòng hoa (trừ một vòng duy nhất của Tuyên Úy Đoàn - Úc Châu), không phúng điếu, không trống kèn, tất cả những gì Cha để lại chỉ là tấm gương phục vụ Giáo Hội Công Giáo, Tổ Quốc Việt Nam, cùng muôn vàn giọt lệ tiếc thương.
Người Công Giáo VN tại Victoria sẽ không bao giờ quên Cha, một trong hai vị Linh mục gốc Việt tiên khởi của tiểu bang, người đã có công đặt nền tảng cho Cộng Đoàn Công Giáo VN tại đây. Người Việt quốc gia tại Úc sẽ không bao giờ quên Cha, vị Chủ tịch sáng lập Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria, kiêm vị lãnh đạo tinh thần của tập thể đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ cho quê nhà.
Xin Cha hãy thanh thản về với Chúa, các thế hệ đi sau sẽ nối tiếp “Tinh thần HUỲNH SAN” bất diệt. R.I.P.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Bé Thơ
Dominic Đức Nguyễn
22:57 18/10/2019
BÉ THƠ
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Thầy bảo thật anh em:
nếu anh em không trở lại
mà nên như trẻ nhỏ,
thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
(Mt 18, 3-4).
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Thầy bảo thật anh em:
nếu anh em không trở lại
mà nên như trẻ nhỏ,
thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
(Mt 18, 3-4).
VietCatholic TV
Sự thật hiển nhiên vừa được nêu ra tại Thượng Hội Đồng – Không cần viri probati
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
06:37 18/10/2019
Đức Hồng Y Claudio Hummes, người Brazil, Tổng Tường Trình Viên; và Đức Cha Erwin Kräutler, tác giả Tài Liệu Làm Việc của Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon, là những nhân vật chủ chốt hô hào việc phong chức linh mục cho người có gia đình, như một giải pháp duy nhất, không còn lựa chọn nào khác hơn.
Tuy nhiên, theo John Allen, ký giả kỳ cựu về Vatican, lý luận này càng ngày càng thiếu thuyết phục: Có các giải pháp khả thi khác không cần thiết phải thay đổi hay xóa bỏ luật độc thân linh mục. Càng không cần thiết phải phong chức linh mục cho phụ nữ như Đức Cha Erwin Kräutler cổ xúy.
Xin giới thiệu với quý vị và anh chị em bài viết sau đây của tác giả John Allen đăng trên tờ Crux ngày 17 tháng Mười, 2019.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt ngữ.
In synod’s married priests debate, somebody finally names elephant in the room
John L. Allen Jr.
Trong cuộc tranh luận về việc phong chức linh mục cho người có gia đình tại Thượng Hội Đồng, cuối cùng đã có người nói lên một sự thật hiển nhiên.
Trong một Thượng Hội Đồng Giám Mục nơi tình trạng thiếu linh mục đã dẫn đến việc thảo luận về khả thể phải phong chức linh mục cho những người có gia đình, điều đáng ngạc nhiên không phải là cuối cùng có ai đó nhận ra rằng có một giải pháp khác không cần đến việc thay đổi truyền thống độc thân linh mục.
Điều ngạc nhiên duy nhất, có lẽ là, tại sao phải mất nhiều thời gian như thế trước khi có ai đó nói to lên cho mọi người nghe.
Tuy nhiên, có Đức Giám Mục Johnny Eduardo Reyes, Giám Quản Tông Tòa của Puerto Ayacucho, Venezuela, vào tối thứ ba, đã nêu lên một sự thật hiển nhiên trong một cuộc họp có tiêu đề “Đồng hành cùng Thượng hội đồng, các chứng nhân và các vị tử đạo vì đức tin ở Amazon.”
Về cơ bản, Đức Cha Reyes đặt câu hỏi là tại sao các linh mục đang lang thang ở Rôma không nhiệt tình đi đến những cánh đồng truyền giáo, phục vụ những nơi như vùng Amazon, chẳng hạn.
“Tất cả những linh mục và tu sĩ mà chúng ta thấy trên TV ... Không thể nào tất cả các vị ấy đang du học tại Rôma,” ngài nói và nhấn mạnh rằng “Sự phân phối các linh mục và tu sĩ như thế không ổn.”
Xin trích dẫn câu nói cổ điển của thập niên 90: “Whoomp! Nó đây rồi”.
Chúng ta hãy nắm bắt tạo sao điều này quá hiển nhiên và để hiểu được chỉ cần đến một ít nền tảng căn bản toán học về số người Công Giáo trong thế kỷ 21 này. Có khoảng 1.3 tỷ người Công Giáo được rửa tội trên thế giới ngày nay, hơn hai phần ba trong số họ sống ở miền nam bán cầu, đặc biệt là tại Mỹ Châu Latinh, Phi Châu và Á Châu
Gần một nửa số người Công Giáo sống ở Mỹ Châu Latinh, bao gồm hai quốc gia Công Giáo lớn nhất thế giới là Brazil và Mễ Tây Cơ. Trong khi đó, khu vực hạ Sahara ở Phi Châu dễ dàng là khu vực tăng trưởng lớn nhất của Giáo Hội, với tổng dân số Công Giáo tăng gần 7,000 phần trăm từ năm 1975 đến năm 2000.
Để phục vụ dân số đó, Giáo Hội vào năm 2017 đã triển khai tổng cộng 414,582 linh mục, như thế có một linh mục cho mỗi 3,135 tín hữu. Nhưng, con số tổng thể đó che giấu sự khác biệt lớn theo khu vực.
Cũng theo con số chính thức của Vatican, có một linh mục cho mỗi 1,916 người Công Giáo ở Hoa Kỳ và Canada, nhưng chỉ có một linh mục cho mỗi 7,203 người Công Giáo ở Nam Mỹ. Đi sâu vào chi tiết, sự tương phản giữa Brazil và Mỹ đặc biệt đáng lo ngại. Hoa Kỳ có 37,000 linh mục cho khoảng 70 triệu người Công Giáo; Brazil, với dân số Công Giáo gấp đôi, có chưa đến 13,000 linh mục.
Một yếu tố duy nhất này đủ cho chúng ta thấy một bức tranh lớn hơn: Âu Châu ngày nay có 42 phần trăm tất cả các linh mục trên thế giới, nhưng chỉ có 23 phần trăm dân số Công Giáo toàn cầu.
Trong cuộc họp báo hôm thứ Tư tại Vatican, Đức Giám Mục Wellington Vieira de Queiroz của giáo phận Cristalândia, Brazil cho biết nhận xét này cũng đúng trong biên giới các quốc gia. Ngài nhấn mạnh rằng đôi khi xảy ra tình trạng “thiếu tinh thần truyền giáo, không sẵn sàng đi đến các khu vực ngoại biên hoặc các vùng khó khăn.”
Nếu Giáo Hội Công Giáo là Microsoft hoặc Walmart, Giáo Hội đã phải thực hiện từ lâu một kế hoạch điều động nhân sự đến những nơi thị trường đang tăng trưởng. Trái lại, Giáo Hội vô hình chung đã làm điều ngược lại khi các Giáo Hội giàu có ở miền Bắc ngày càng trở nên phụ thuộc vào việc nhập cảng các linh mục từ thế giới đang phát triển để bù vào những chỗ được xem là khoảng trống. Ở Mỹ, chẳng hạn, khoảng 30 phần trăm tất cả các linh mục ngày nay là người nước ngoài.
Như Philip Jenkins [giáo sư lịch sử tại Đại Học Baylor, Hoa Kỳ - chú thích của người dịch] đã đặt vấn đề gần hai thập niên qua “Khi xem xét ở góc độ toàn cầu, nói cho dễ nghe chính sách ấy thiển cận một cách đau đớn, nói khó nghe hơn đó là chính sách tự vẫn đối với vận mệnh Công Giáo.”
Đức Cha Reyes không phải là vị Giám Mục đầu tiên chú ý đến điều này. Vào năm 2005, trong một Thượng Hội Đồng Giám Mục về Bí tích Thánh Thể, Đức Cha Lucio Andrice Muandula Giám Mục giáo phận Xai-Xai ở Mozambique đã rút ra kết luận xem ra rất hiển nhiên: “Người ta phải nhấn mạnh đến sự tái phân phối một cách bình đẳng các linh mục trên thế giới.”
Thậm chí còn có cả một vị thánh tương lai bảo trợ cho điều này: đó là Hồng Y Jozef Tomko, người Slovakia, 95 tuổi, trước đây là tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc.
Năm 2001, các vị đã đưa ra một tài liệu mang tên “Hướng dẫn về việc gởi đi hay đưa ra nước ngoài tạm trú các linh mục triều từ các Miền Truyền Giáo.” Ý chính của chỉ thị này là việc hoán chuyển hàng giáo sĩ như thế gây tổn hại cho Giáo Hội ở miền Nam. Đức Hồng Y Tomko nêu ví dụ rằng Ấn Độ không có đủ linh mục để chăm sóc 17 triệu người Công Giáo, nhưng cùng lúc đó chỉ trong một giáo phận duy nhất của Ý đã có đến 39 linh mục từ Ấn Độ đang làm việc ở đó. Nhìn chung, Đức Hồng Y Tomko tuyên bố, có 1,800 linh mục nước ngoài đang sống ở Ý, với hơn 800 vị làm các công việc chăm sóc mục vụ trực tiếp.
Đức Hồng Y Tomko phàn nàn rằng: “Nhiều giáo phận mới có thể được tạo thành tại các Miền Truyền Giáo với một số đông đảo các linh mục triều như vậy!”
Tất nhiên, thường có các lý do chính đáng để các linh mục từ các nước đang phát triển ra nước ngoài, và Giáo Hội trong thế giới đang phát triển thường cảm thấy tự hào về những gì được gọi là “sứ mệnh ngược” này, khi gửi các linh mục của họ ngày hôm nay sang tái rao giảng Tin Mừng cho chính những nơi đã từng phái các nhà truyền giáo đến với họ.
Tuy nhiên, các Giám Mục ở miền nam bán cầu có thể ngăn chặn xu hướng này bằng cách thắt chặt việc cho phép các linh mục của mình ra đi. Có một lời giải thích đơn giản nhưng quá khủng khiếp về lý do tại sao các Giám Mục ấy đó thường không dám nói Không: Tiền.
Khi một linh mục từ một quốc gia đang phát triển xuất hiện ở Âu châu hoặc Bắc Mỹ, đôi khi giáo phận tiếp nhận sẽ đền bù trực tiếp cho vị Giám Mục bị thiệt hại. Đôi khi vị linh mục xuất ngoại chia sẻ một phần tiền lương của ngài với giáo phận quê nhà, và đôi khi vào mùa hè ngài đi một vòng quyên góp gởi chút quà về cho quê hương.
Bất kể, tình huống được hình thành như thế nào, thông thường vấn đề là nguồn tiền, mà các Giám Mục phải bươn chải với nguồn tài chính eo hẹp trong thế giới đang phát triển phải dựa vào. Hơn thế nữa, các linh mục này thường tìm thấy các cơ hội lớn hơn ở phương Tây và tuyệt nhiên không háo hức quay về cố hương chút nào.
Câu hỏi khó khăn mà Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon có lẽ phải đương đầu là thế này: Có thực sự thiếu linh mục không? Hay, vấn đề ít nhất là vì các linh mục, mà chúng ta hiện có, đã và đang được bố trí không đúng nơi đúng chỗ. Và, có cách nào tốt hơn để tài trợ cho các Giáo Hội ở các nước đang phát triển mà không cần đến một cuộc di cư kinh niên của hàng giáo sĩ?
Dĩ nhiên, tất cả những điều trên không trực tiếp bác bỏ cuộc tranh luận về việc phong chức linh mục cho những người có gia đình, và có thể có những lý lẽ tốt ủng hộ cho việc đi theo chiều hướng đó. Tuy nhiên, nếu vấn đề duy nhất là làm thế nào để đưa các linh mục đến với những người cần đến các ngài, thì lý luận của Đức Cha Reyes đúng một cách không thể phủ nhận được - một giáo sĩ đã kết hôn hầu như không phải là lựa chọn duy nhất mà các Giám Mục muốn thăm dò.
Source:CruxIn synod’s married priests debate, somebody finally names elephant in the room
Tuy nhiên, theo John Allen, ký giả kỳ cựu về Vatican, lý luận này càng ngày càng thiếu thuyết phục: Có các giải pháp khả thi khác không cần thiết phải thay đổi hay xóa bỏ luật độc thân linh mục. Càng không cần thiết phải phong chức linh mục cho phụ nữ như Đức Cha Erwin Kräutler cổ xúy.
Xin giới thiệu với quý vị và anh chị em bài viết sau đây của tác giả John Allen đăng trên tờ Crux ngày 17 tháng Mười, 2019.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt ngữ.
In synod’s married priests debate, somebody finally names elephant in the room
John L. Allen Jr.
Trong cuộc tranh luận về việc phong chức linh mục cho người có gia đình tại Thượng Hội Đồng, cuối cùng đã có người nói lên một sự thật hiển nhiên.
Trong một Thượng Hội Đồng Giám Mục nơi tình trạng thiếu linh mục đã dẫn đến việc thảo luận về khả thể phải phong chức linh mục cho những người có gia đình, điều đáng ngạc nhiên không phải là cuối cùng có ai đó nhận ra rằng có một giải pháp khác không cần đến việc thay đổi truyền thống độc thân linh mục.
Điều ngạc nhiên duy nhất, có lẽ là, tại sao phải mất nhiều thời gian như thế trước khi có ai đó nói to lên cho mọi người nghe.
Tuy nhiên, có Đức Giám Mục Johnny Eduardo Reyes, Giám Quản Tông Tòa của Puerto Ayacucho, Venezuela, vào tối thứ ba, đã nêu lên một sự thật hiển nhiên trong một cuộc họp có tiêu đề “Đồng hành cùng Thượng hội đồng, các chứng nhân và các vị tử đạo vì đức tin ở Amazon.”
Về cơ bản, Đức Cha Reyes đặt câu hỏi là tại sao các linh mục đang lang thang ở Rôma không nhiệt tình đi đến những cánh đồng truyền giáo, phục vụ những nơi như vùng Amazon, chẳng hạn.
“Tất cả những linh mục và tu sĩ mà chúng ta thấy trên TV ... Không thể nào tất cả các vị ấy đang du học tại Rôma,” ngài nói và nhấn mạnh rằng “Sự phân phối các linh mục và tu sĩ như thế không ổn.”
Xin trích dẫn câu nói cổ điển của thập niên 90: “Whoomp! Nó đây rồi”.
Chúng ta hãy nắm bắt tạo sao điều này quá hiển nhiên và để hiểu được chỉ cần đến một ít nền tảng căn bản toán học về số người Công Giáo trong thế kỷ 21 này. Có khoảng 1.3 tỷ người Công Giáo được rửa tội trên thế giới ngày nay, hơn hai phần ba trong số họ sống ở miền nam bán cầu, đặc biệt là tại Mỹ Châu Latinh, Phi Châu và Á Châu
Gần một nửa số người Công Giáo sống ở Mỹ Châu Latinh, bao gồm hai quốc gia Công Giáo lớn nhất thế giới là Brazil và Mễ Tây Cơ. Trong khi đó, khu vực hạ Sahara ở Phi Châu dễ dàng là khu vực tăng trưởng lớn nhất của Giáo Hội, với tổng dân số Công Giáo tăng gần 7,000 phần trăm từ năm 1975 đến năm 2000.
Để phục vụ dân số đó, Giáo Hội vào năm 2017 đã triển khai tổng cộng 414,582 linh mục, như thế có một linh mục cho mỗi 3,135 tín hữu. Nhưng, con số tổng thể đó che giấu sự khác biệt lớn theo khu vực.
Cũng theo con số chính thức của Vatican, có một linh mục cho mỗi 1,916 người Công Giáo ở Hoa Kỳ và Canada, nhưng chỉ có một linh mục cho mỗi 7,203 người Công Giáo ở Nam Mỹ. Đi sâu vào chi tiết, sự tương phản giữa Brazil và Mỹ đặc biệt đáng lo ngại. Hoa Kỳ có 37,000 linh mục cho khoảng 70 triệu người Công Giáo; Brazil, với dân số Công Giáo gấp đôi, có chưa đến 13,000 linh mục.
Một yếu tố duy nhất này đủ cho chúng ta thấy một bức tranh lớn hơn: Âu Châu ngày nay có 42 phần trăm tất cả các linh mục trên thế giới, nhưng chỉ có 23 phần trăm dân số Công Giáo toàn cầu.
Trong cuộc họp báo hôm thứ Tư tại Vatican, Đức Giám Mục Wellington Vieira de Queiroz của giáo phận Cristalândia, Brazil cho biết nhận xét này cũng đúng trong biên giới các quốc gia. Ngài nhấn mạnh rằng đôi khi xảy ra tình trạng “thiếu tinh thần truyền giáo, không sẵn sàng đi đến các khu vực ngoại biên hoặc các vùng khó khăn.”
Nếu Giáo Hội Công Giáo là Microsoft hoặc Walmart, Giáo Hội đã phải thực hiện từ lâu một kế hoạch điều động nhân sự đến những nơi thị trường đang tăng trưởng. Trái lại, Giáo Hội vô hình chung đã làm điều ngược lại khi các Giáo Hội giàu có ở miền Bắc ngày càng trở nên phụ thuộc vào việc nhập cảng các linh mục từ thế giới đang phát triển để bù vào những chỗ được xem là khoảng trống. Ở Mỹ, chẳng hạn, khoảng 30 phần trăm tất cả các linh mục ngày nay là người nước ngoài.
Như Philip Jenkins [giáo sư lịch sử tại Đại Học Baylor, Hoa Kỳ - chú thích của người dịch] đã đặt vấn đề gần hai thập niên qua “Khi xem xét ở góc độ toàn cầu, nói cho dễ nghe chính sách ấy thiển cận một cách đau đớn, nói khó nghe hơn đó là chính sách tự vẫn đối với vận mệnh Công Giáo.”
Đức Cha Reyes không phải là vị Giám Mục đầu tiên chú ý đến điều này. Vào năm 2005, trong một Thượng Hội Đồng Giám Mục về Bí tích Thánh Thể, Đức Cha Lucio Andrice Muandula Giám Mục giáo phận Xai-Xai ở Mozambique đã rút ra kết luận xem ra rất hiển nhiên: “Người ta phải nhấn mạnh đến sự tái phân phối một cách bình đẳng các linh mục trên thế giới.”
Thậm chí còn có cả một vị thánh tương lai bảo trợ cho điều này: đó là Hồng Y Jozef Tomko, người Slovakia, 95 tuổi, trước đây là tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc.
Năm 2001, các vị đã đưa ra một tài liệu mang tên “Hướng dẫn về việc gởi đi hay đưa ra nước ngoài tạm trú các linh mục triều từ các Miền Truyền Giáo.” Ý chính của chỉ thị này là việc hoán chuyển hàng giáo sĩ như thế gây tổn hại cho Giáo Hội ở miền Nam. Đức Hồng Y Tomko nêu ví dụ rằng Ấn Độ không có đủ linh mục để chăm sóc 17 triệu người Công Giáo, nhưng cùng lúc đó chỉ trong một giáo phận duy nhất của Ý đã có đến 39 linh mục từ Ấn Độ đang làm việc ở đó. Nhìn chung, Đức Hồng Y Tomko tuyên bố, có 1,800 linh mục nước ngoài đang sống ở Ý, với hơn 800 vị làm các công việc chăm sóc mục vụ trực tiếp.
Đức Hồng Y Tomko phàn nàn rằng: “Nhiều giáo phận mới có thể được tạo thành tại các Miền Truyền Giáo với một số đông đảo các linh mục triều như vậy!”
Tất nhiên, thường có các lý do chính đáng để các linh mục từ các nước đang phát triển ra nước ngoài, và Giáo Hội trong thế giới đang phát triển thường cảm thấy tự hào về những gì được gọi là “sứ mệnh ngược” này, khi gửi các linh mục của họ ngày hôm nay sang tái rao giảng Tin Mừng cho chính những nơi đã từng phái các nhà truyền giáo đến với họ.
Tuy nhiên, các Giám Mục ở miền nam bán cầu có thể ngăn chặn xu hướng này bằng cách thắt chặt việc cho phép các linh mục của mình ra đi. Có một lời giải thích đơn giản nhưng quá khủng khiếp về lý do tại sao các Giám Mục ấy đó thường không dám nói Không: Tiền.
Khi một linh mục từ một quốc gia đang phát triển xuất hiện ở Âu châu hoặc Bắc Mỹ, đôi khi giáo phận tiếp nhận sẽ đền bù trực tiếp cho vị Giám Mục bị thiệt hại. Đôi khi vị linh mục xuất ngoại chia sẻ một phần tiền lương của ngài với giáo phận quê nhà, và đôi khi vào mùa hè ngài đi một vòng quyên góp gởi chút quà về cho quê hương.
Bất kể, tình huống được hình thành như thế nào, thông thường vấn đề là nguồn tiền, mà các Giám Mục phải bươn chải với nguồn tài chính eo hẹp trong thế giới đang phát triển phải dựa vào. Hơn thế nữa, các linh mục này thường tìm thấy các cơ hội lớn hơn ở phương Tây và tuyệt nhiên không háo hức quay về cố hương chút nào.
Câu hỏi khó khăn mà Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon có lẽ phải đương đầu là thế này: Có thực sự thiếu linh mục không? Hay, vấn đề ít nhất là vì các linh mục, mà chúng ta hiện có, đã và đang được bố trí không đúng nơi đúng chỗ. Và, có cách nào tốt hơn để tài trợ cho các Giáo Hội ở các nước đang phát triển mà không cần đến một cuộc di cư kinh niên của hàng giáo sĩ?
Dĩ nhiên, tất cả những điều trên không trực tiếp bác bỏ cuộc tranh luận về việc phong chức linh mục cho những người có gia đình, và có thể có những lý lẽ tốt ủng hộ cho việc đi theo chiều hướng đó. Tuy nhiên, nếu vấn đề duy nhất là làm thế nào để đưa các linh mục đến với những người cần đến các ngài, thì lý luận của Đức Cha Reyes đúng một cách không thể phủ nhận được - một giáo sĩ đã kết hôn hầu như không phải là lựa chọn duy nhất mà các Giám Mục muốn thăm dò.
Source:Crux