Ngày 28-10-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:52 28/10/2019

69. Mỗi người nên kiểm thảo bản mình đối với đức khiêm tốn như thế nào, thì có thể biết được mình có tiến bộ hay không.

(Thánh nữ Terese of Lisieux)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")


-------------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:57 28/10/2019
49. TIỆN MỒM ỨNG ĐỐI

Văn Hoàng đã từng ứng đối với học sĩ Giải, nói:

- “Có người viết câu ‘sắc nản’’ rất là khó đối”.

học sĩ Giải lập tức trả lời:

- “Quá dễ”.

Đợi một lúc sau Văn Hoàng không thấy học sĩ Giải viết xuống câu đối, nói:

- “Mặc dù nói rất dễ, sao lại ứng đối chậm quá vậy ?”

Giải học sĩ trả lời:

- “Tôi vừa mới đối đó”.

Văn Hoàng mới sực tỉnh ngộ và cười ha ha.

(Cổ kim tiếu sử)

Suy tư 49:

Người thông minh thì ứng đối giỏi, người bình tĩnh thì luôn giải quyết tình huống cách tốt đẹp. Đem “quá dễ” đối với “quá khó” trong câu nói thông thường thì quả là người thông minh và bình tĩnh.

Cuộc đời là một câu đối đầy ẩn số mà chỉ những ai có tinh thần khiêm tốn của Phúc Âm mới có thể ứng đối được: thánh thiện đối với tội lỗi, khiêm tốn đối với kiêu ngạo, rộng rãi đối với ích kỷ, yêu thương đối với ghen ghét.v.v…

Đức Chúa Giê-su đã dùng đau khổ và sự chết của mình để đối lại với sự dữ đang hoành hành trên thế gian, để nhân loại nhờ ân sủng của Ngài để chiến thắng ma quỷ và những cám dỗ của nó.

Văn Hoàng phải ngẫm nghĩ rất lâu mới hiểu được câu đối của học sĩ Giải, cũng vậy, người Ki-tô hữu phải biết cầu nguyện liên lĩ để hiểu biết mầu nhiệm khổ đau và yêu thương của Đức Chúa Giê-su, để trong cuộc sống họ có đủ sức mạnh để đối đầu với những cám dỗ…

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-----------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giới Thiệu Văn Kiện: Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên
+ GM Giuse Đặng Đức Ngân
09:03 28/10/2019
Giới Thiệu Văn Kiện: Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên

“Anh em hãy đi đến cùng trời cuối đất, loan báo Tin Mừng cho mọi thụ tạo”(Mc 16,15). Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các anh em môn đệ. Thực tế khi rao giảng Tin Mừng ở nhiều nơi, vào những thời điểm cụ thể, anh em thường phải đối mặt với các thách thức cam go về phong tục, truyền thống hay văn hóa địa phương. Riêng tại Á Đông, việc tôn kính tổ tiên là một trong những vấn nạn lớn trong lịch sử truyền giáo. Thực sự, các thừa sai (hầu hết đến từ Tây phương) đã có những quan điểm khác nhau về truyền thống các dân tộc trong việc thờ kính tổ tiên, tôn kính các anh hùng liệt nữ và “các Thần Thánh” (như Đức Khổng Tử, các vị thành hoàng), và các nghi thức liên quan đến việc quan hôn tang tế. Suốt một thời gian dài, vấn đề tôn kính tổ tiên như vẫn còn bỏ ngỏ và được thích ứng tùy quan điểm và định hướng của các nhà truyền giáo tại mỗi nơi (Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam…). Mãi tới ngày Huấn thị Plane Compertum Est được Đức Hồng Y Phêrô Fumasoni Biondi, Bộ Trưởng Bộ Truyền Giáo công bố (08/12/1939), một đường hướng mới mẻ và nhất quán đã thực sự được khai mở cho cuộc hội nhập văn hóa về việc tôn kính tổ tiên.

Huấn thị Plane Compertum Est xác định ngay trong phần mở đầu: “Rõ ràng là tại Cực Đông xưa kia có một số nghi lễ gắn liền với nghi điển ngoại giáo, nay vì những biến đổi theo thời gian về các phong tục và ý tưởng, nên nó chỉ còn mang ý nghĩa dân sự, để tỏ lòng tôn kính tổ tiên, yêu mến tổ quốc và vì lịch sự trong các tương quan xã hội”. Sau khi phân tích các mặt thuận và nghịch của vấn đề dưới góc độ văn hóa cũng như tôn giáo, Huấn thị đã tuyên bố: “Người Công Giáo được phép tham dự các nghi lễ kính Đức Khổng, trước hình ảnh hoặc bài vị mang tên Ngài trong các văn miếu hay trường học”(số 1); và “phải coi là được phép và xứng hợp tất cả những (cử chỉ) cúi đầu và những biểu lộ khác có tính cách tôn trọng dân sự trước những người quá cố hay hình ảnh và bài vị mang tên họ”(số 4).

Tại Việt Nam, Giáo hội cũng đã có những nỗ lực thích nghi và hội nhập về văn hóa thờ kính tổ tiên theo từng giai đoạn cụ thể:

I/ Định hướng của Hội Đồng Giám Mục Nam Việt Nam (HĐGM/NVN) về Lòng Tôn Kính Tổ Tiên

Sau Huấn thị Plane Compertum Est, “Ngày 20.10.1964 Tòa Thánh, qua Bộ Truyền giáo đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng Huấn thị Plane Compertum Est (08/12/1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam” (Phần mở đầu của Thông cáo 14/6/1965). Theo Thông cáo này HĐGM/NVN đã khẳng định: “Giáo hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực”(Thông cáo 1965 phần II, số 2).

Chín năm sau, với Quyết nghị ngày 14/11/1974, HĐGM/NVN chấp thuận và yêu cầu phổ biến trên toàn quốc Thông cáo HĐGM/NVN năm 1965. Đồng thời nhấn mạnh lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên và nghi lễ tôn kính vị thành hoàng với những xác định cụ thể như sau: “Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm” (số 2); “Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần” (số 6).

Hôm nay qua Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên, chúng tôi định hướng lòng tôn kính tổ tiên theo Hiến Chế Vui Mừng Và Hy Vọng (GS 45), Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio), Huấn thị Plane Compertum Est và đề ra những áp dụng cụ thể theo nội dung của Thông cáo 1965 và Quyết nghị 1974 của HĐGM/NVN. Trong văn bản này có giới thiệu các nghi thức và những lời nguyện mẫu dành cho các dịp cưới hỏi và tang lễ, nhưng tất cả chỉ là gợi ý không mang tính bắt buộc như các văn bản Phụng Vụ chính thức.

II/ Tiến trình thảo luận Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên

Năm 2014, kỷ niệm 50 năm áp dụng Huấn thị Plane Compertum Est, HĐGMVN đã ủy nhiệm Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Chủ tịch Uỷ Ban Văn Hóa, tổ chức cuộc hội thảo về lòng tôn kính tổ tiên. Nhận thức được tầm sâu rộng của chủ đề, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống đã mời đặc biệt Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp cộng tác cùng kêu gọi các giáo phận, dòng tu và các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam góp ý với hội thảo.

Cuộc hội thảo do Đức cha Giuse Vũ Duy Thống chủ tọa với 4 vị thuyết trình viên: Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch UB Công Lý Hòa Bình; Linh mục Giáo sư Tiến sĩ Giuse Vũ Kim Chính (giảng dạy tại Đại học Thụ Nhân, Đài Loan); Linh mục Phanxicô X. Đào Trung Hiệu (giảng dạy tại nhiều đại chủng viện và học viện liên dòng), Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Đoàn (giảng dạy tại Đại học Thụ Nhân, Đài Loan), và 312 hội thảo viên, trong đó có các Đức Giám Mục Antôn Vũ Huy Chương, Micae Hoàng Đức Oanh, Phêrô Nguyễn Khảm và các Đức ông Phanxicô Trần Văn Khả, Barnabê Nguyễn Văn Phương, cùng với nhiều vị bề trên các dòng tu, linh mục từ các giáo phận như cha Gioan Phêrô Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh, Tôma Nguyễn Văn Thượng, Giuse Trần Sĩ Tín (CSsR), Đaminh Nguyễn Đức Thông (CSsR), Sr. Anna Kim Loan, ông Antôn Uông Đại Bằng, Giuse Nguyễn Minh Chiến, Augustinô Vương Đình Chữ, Giuse Nguyễn Minh Phú, bà Têrêsa Phaolô Nguyễn Hà Tường Anh… Tất cả đều nhiệt tình tham gia thảo luận các đề tài.

Sau hai ngày thảo luận, qua Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, các hội thảo viên đã trình lên HĐGMVN một thỉnh nguyện thư xin HĐGM thành lập một ủy ban để tiến hành xác lập và đề ra những áp dụng thực hành:

1/ Quy định các nghi thức và soạn thảo những lời cầu nguyện theo hướng hội nhập Kitô giáo vào nề nếp văn hóa Việt Nam trong cách bày tỏ lòng thảo hiếu với ông bà, tổ tiên.

2/ Cùng trong tinh thần hội nhập văn hóa, xin HĐGM xác định rõ ràng và cụ thể về nghi thức trong lễ cưới hỏi, lễ tang, lễ gia tiên và bàn thờ gia tiên.

3/ Xin sử dụng cờ ngũ hành làm dấu hiệu Kitô hữu hòa lòng với dân tộc.

Đáp ứng bức thỉnh nguyện thư này, HĐGM đã ủy cho Đức cha Chủ tịch UBVH cùng với các giám mục thuộc các Uỷ Ban liên hệ soạn thảo “Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên”. Ủy ban

Soạn Thảo bắt đầu làm việc từ năm 2014 và kết thúc vào năm 2019 qua 2 giai đoạn:

Giai đoạn I thảo luận Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên gồm các thành viên:

Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Chủ tịch UB Văn Hóa chủ tọa,

Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch UB Công Lý Hòa Bình

Đức cha Giuse Nguyễn Năng, Chủ tịch UB Giáo Lý Đức Tin

Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, Chủ tịch UB Phụng Tự

Lm Giuse Trịnh Tín Ý, Thư ký UB Văn Hóa kiêm Thư ký cuộc họp

Lm Đaminh Ngô Quang Tuyên, Thư ký UB Loan Báo Tin Mừng

Lm Phanxicô X. Bảo Lộc, văn phòng Đối Thoại Liên Tôn

và một số các chuyên viên nghiên cứu văn hóa Việt Nam:

Ông Antôn Uông Đại Bằng

Ông Đaminh Hồ Công Hưng

Ông Giuse Nguyễn Minh Phú

Đầu tháng 3/2017, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Chủ tịch UB Văn Hóa qua đời, “Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên” còn dở dang. Tháng 4/2017, trong Hội nghị Thường niên của HĐGMVN tại giáo phận Nha Trang, Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, giám mục giáo phận Đà Nẵng được HĐGM bầu làm tân Chủ tịch của Ủy Ban Văn Hóa thay Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, và được HĐGM ủy nhiệm mời các Đức Giám Mục đặc trách các Ủy Ban liên hệ tiếp tục hoàn thành “Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên”.

Giai đoạn II thảo luận Văn Bản Hướng dẫn việc Tôn Kính Tổ Tiên gồm các thành viên:

Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, Chủ tịch UB Văn Hóa, chủ tọa

Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch UB Công Lý Hòa Bình

Đức cha Gioan Đỗ Văn Ngân, Chủ tịch UB Giáo Lý Đức Tin

Đức cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Chủ tịch UB Phụng Tự

Đức cha Anphongxô Nguyễn Hữu Long Chủ tịch UB Loan Báo Tin Mừng

Đức Cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Chủ tịch UB Di Dân

Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Phụ tá Tổng Giáo phận Sài gòn, Tp Hồ Chí Minh

Lm Giuse Trịnh Tín Ý, Thư ký UB Văn Hóa kiêm Thư ký cuộc họp,

và một số các chuyên viên nghiên cứu văn hóa Việt Nam:

Ông Augustinô Vương Đình Chữ

Ông Antôn Uông Đại Bằng

Ông Giuse Nguyễn Minh Chiến

Ông Giuse Nguyễn Minh Phú

III/ Tiến trình chuẩn nhận:

Sau năm năm nỗ lực, ban Soạn Thảo đã hoàn tất “Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên”. Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, Chủ tịch UB Văn Hóa thay mặt ban Soạn Thảo đệ trình Văn Bản hoàn chỉnh lên HĐGMVN tại cuộc họp thường niên ở Mỹ Tho năm 2018; sau đó, Văn Bản được chuyển tới Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm, Tổng Thư ký HĐGMVN và được Đức cha Tổng Thư ký cho đăng trên tập san Hiệp Thông của HĐGMVN (số 110 tháng 1&2/2019 từ trang 74-93).

Trong Đại hội lần thứ XIV của HĐGMVN họp từ 30/9 đến 4/10/2019 tại Trung tâm Mục vụ giáo phận Hải Phòng, “Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên” đã được Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân trình bày trước Đại hội. Sau khi thảo luận về Văn Bản này, các Đức Giám Mục đã biểu quyết đồng thuận và Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch HĐGMVN đã công bố cho phép áp dụng thử nghiệm Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên trong thời gian 3 năm, từ ngày 04/10/2019.

Văn Bản Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên được HĐGMVN đổi tên thành VĂN KIỆN HƯỚNG DẪN VIỆC TÔN KÍNH TỔ TIÊN. Văn Kiện đã đánh dấu một khúc quanh lịch sử của Giáo hội Việt Nam về lòng tôn kính tổ tiên thuộc giới răn Thứ Tư trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời về “Thảo Kính Cha Mẹ”.

Đà Nẵng, ngày 07 tháng 10 năm 2019

TM/ UBVH/HĐGMVN

+ Giuse Đặng Đức Ngân

Giám Mục Giáo Phận Đà Nẵng

Chủ tịch UBVH/HĐGMVN
 
Viết Sau Hội Thảo : Bốn Trăm Năm Hình Thành Và Phát Triển Chữ Quốc Ngữ Trong Lịch Sử Loan Báo Tin Mừng Tại Viêt Nam
Lm. Giuse Trịnh Tín Ý
09:20 28/10/2019
VIẾT SAU HỘI THẢO

BỐN TRĂM NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

CHỮ QUỐC NGỮ

TRONG LỊCH SỬ LOAN BÁO TIN MỪNG TẠI VIÊT NAM

Bốn bài thuyết trình đều gợi nhớ câu chuyện cổ tích Việt Nam. Một gia đình nghèo, ông bà để lại gia sản cho con cháu vỏn vẹn cây khế ngọt. Cây khế thường thôi, chẳng sinh lợi, chẳng đẻ ra tiền của nên có vẻ con cháu hờ hững, chỉ chăm bón cho cây khế như một kỷ vật để nhớ ông bà! Nhưng lạ đời nhà chỉ có cây khế mà đủ loài chim chóc bốn phương bay đi bay về, rủ nhau tụ hội, líu lo thưởng thức những trái khế làm các con cháu trong nhà sốt cả ruột, rủ nhau xua đuổi cho đám chim bay đi. Bị xua đi, bầy chim ríu rít đáp lại, “Ăn một trái trả ngàn vàng, may túi ba gang đem đi mà đựng”. Thì ra cây khế là cây vàng, cây ngọc, cây sung túc ông bà để lại cho con cháu.

Có phải cũng như cây khế, chữ Quốc Ngữ là gia sản tổ tiên để lại chỉ là gia sản văn hóa không giữ làm kinh doanh, làm giàu nhưng Chữ Quốc Ngữ làm chúng ta nở mày, nở mặt với thế giới. Việt Nam chưa giàu, Việt Nam chưa bằng ai nhưng Việt Nam có chữ Việt, Việt Nam có nền văn hóa Việt lâu dài, sáng tỏ. Cuộc hội thảo Bốn Trăm Năm Hình Thành Và Phát Triển Chữ Quốc Ngữ đã để lại đôi cảm nhận khó quên.

Cảm nhận về thuyết trình viên

Các thuyết trình viên không phải ai xa lạ, đều là người Việt nói tiếng Việt, nói về chữ Việt, nên ai đó có thể ái ngại, biết đâu “mẹ hát con khen hay”, khen chữ Việt, khen người Việt và dễ hờ hững với các thừa sai nước ngoài đã cùng với người dân bản địa nỗ lực hình thành chữ Quốc Ngữ. Ts Kiều Ly là một trong bốn thuyết trình viên là người Việt không Công Giáo đã khẳng định trong một bài phỏng vấn của báo chí, Tiến sĩ chủ trương khách quan, không quá đề cao dân tộc, cũng không quá khích bài ngoại khi tìm hiểu cuộc hình thành chữ Quốc Ngữ.

Tất cả các thuyết trình viên được mời đều thuộc giới chuyên môn cao về sử học, ngôn ngữ học, văn hóa, truyền giáo học và cả bốn vị đều đầy kinh nghiệm trong nghiên cứu, và giảng dạy. Chỉ nhận lời thuyết trình với thời gian giới hạn nhưng mỗi thuyết trình viên đến với hội thảo đều nóng bỏng tâm huyết.

Từng vị đã cất công tìm bới cả rừng tài liệu, nghiên cứu sách vở và kêu gọi các đồng nghiệp cộng tác để viết và đã dốc cạn tâm trí công sức cho bài viết. Cách nào đó, các thuyết trình viên đã làm con tằm nhả tơ, những sợi tơ mong manh nhưng đã dệt nên nhiều góc cạnh của một tấm thảm lịch sử về Chữ Quốc Ngữ và quý báu hơn các thuyết trình viên đã làm lời mời gọi thế hệ hậu duệ tiếp tục phát triển và làm sáng tỏ nền văn hóa, văn chương Việt.

Về hội thảo viên

Chủ đề Bốn Trăm Năm Hình Thành và Phát Triển Chữ Quốc Ngữ như chẳng thiết thân, không cụ thể và cũng khó hấp dẫn với những ai lạnh nhạt với văn hóa. Chính ban tổ chức cũng băn khoăn mãi không biết gửi thiệp mời ai, đừng ai, mà ai ngờ các hội thảo viên lại rất thiết tha. con số 320 hội thảo viên có mặt là bằng chứng. Nhiều hội thảo viên còn phải vất vả mới theo kịp các thuyết trình viên khi trình bày các góc cạnh kỹ thuật của chữ Quốc Ngữ. Thực sự dù còn mải chèo chống với các vấn đề khó nuốt, các đề tài khô khan, mọi người vẫn nhiệt tình theo dõi từng vấn đề, lắng nghe từng thuyết trình viên. Rõ ràng không phải chỉ tò mò theo dõi chuyện mới, chuyện cũ mà mỗi người còn để lộ tâm tư buồn vui giống tâm tư những người con, người cháu có dịp về thăm quê cha đất tổ, ai cũng thích thú nghe kể về sản nghiệp tổ tiên. Sản nghiệp tổ tiên không chỉ là mảnh vườn tược, ruộng đất, nhưng còn là vùng trời, bờ cõi: Thanh Chiêm, Nước Mặn, đất Đàng Trong, đất Đàng Ngoài, Phú Xuân, Thăng Long. Chữ Quốc Ngữ còn là di sản văn hóa quý giá. Đó là Chữ Quốc Ngữ dành cho người Việt và do sáng kiến của các thừa sai nước ngoài cộng tác với người dân bản địa. Các hội thảo viên đã chăm chú lắng nghe, đâu như nghe để “để nhớ, để thương”, để biết ơn công ơn các tiền nhân.

Trong hội thảo nhiều chuyên viên ngành ngôn ngữ, nhiều nhà văn hóa, ngữ học, sử học là tín hữu đạo Chúa và có cả các thân hữu lương dân góp mặt trong hội thảo. Các vị có thể đã sẵn một công trình nghiên cứu đồ sộ, với các luận chứng, quan điểm riêng nhưng qua cuộc hội thảo này, mong quý vị tìm được vài ba mảnh ghép nào đó cho bức tranh toàn cảnh lịch sử vẫn còn nhiều mảng trống hoặc có dịp thu thập thêm luận chứng mới cho một quản điểm, một lập luận. Hay là giản dị, các vị có mặt chỉ để gặp gỡ, lắng nghe những người quen, người thân nói về tổ tiên mình. Dù với bất cứ lý do gì, cuộc góp mặt lắng nghe và chia sẻ của quý vị hôm nay đã thành lời khích lệ các con cháu ghi ơn các tổ tiên và tựa trên ngôn ngữ thống nhất này làm điểm mạnh cho cuộc phát triển văn hóa trên quê hương đất Việt.

Nhìn từ một góc độ nào, chính quý vị, từ nhiều lãnh vực chuyên môn đã và đang tiếp tục điểm tô, làm đẹp cho “nàng Việt Ngữ” khoe hương khoe sắc trong vườn hoa ngôn ngữ thế giới.

Về nội dung hội thảo

Lm Gs Ts Quốc Anh muốn chứng minh Kitô giáo đã được đón nhận vào vùng Á Đông, mảnh đất đã thấm nhuần từ lâu nền triết học và tôn giáo của tam giáo (Nho, Phật và Đạo giáo). Chính nền triết học và thần Kitô giáo đã giúp các giáo hữu Việt Nam ý thức họ thuộc về một tôn giáo phổ quát toàn cầu để giữ vững lòng tin qua nhiều cuộc bắt đạo thế kỷ 18 & 19. Những sách giáo lý thuở ban đầu đã định hình căn tính giáo hữu Việt Nam. Giúp họ ý thức, họ thuộc về một tôn giáo phổ quát, toàn cầu và giữ vững niềm tin qua nhiều cuộc bắt đạo.

Ngoài việc sử dụng khoa triết và thần học tự nhiên để lập luận cho việc thờ phượng một Thiên Chúa đích thực và đối thoại với các truyền thống ngoại giáo, cha Alexandre de Rhodes giới thiệu những hiểu biết cơ bản về giáo lý Công Giáo. Chẳng hạn với Phép Giảng Tám Ngày, cha dựa trên quan hệ quân-sư-phụ, thuyết Tam Phụ để trình bày, mỗi người phải có bổn phận trung hiếu với ba người cha của mình, theo thứ tự ưu tiên là Thiên Chúa, đến quốc vương, rồi mới đến cha mẹ. Là Đấng Tạo Hóa của trời đất muôn loài, Thiên Chúa giống như Cha chung của toàn thể nhân loại. Ngài là vị Thượng Phụ tối cao vượt xa vai trò của vị Trung Phụ, vua chúa cai trị một nước và vị Hạ Phụ là cha mẹ trong gia đình.

Theo cha Quốc Anh, bên cạnh thừa sai Alexandre de Rhodes còn có những khuôn mặt triết học, thần học lớn như Lm Girolamo Majorica, vị linh mục đã để lại nhiều công trình giáo lý do cha in ấn, phiên dịch hay soạn thảo như cuốn Thiên Chủ Thực Nghĩa (nguyên bản của Lm Matteo Ricci), cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông (viết theo Brevio doctrina Christiana của Roberto Bellarmino), Các Thánh Truyện gồm 12 tập và còn rất nhiều những tài liệu hộ giáo khác của Lm Francesco Buzomi đã được cha Majorica ấn loát.

Tiếp đó, 150 năm sau sách giáo lý của Majorica, cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ của giám mục thừa sai Pierre Pigneaux de Behaine, MEP đã ra đời, đánh dấu giai đoạn phát triển cận đại của chữ Quốc Ngữ.

Sau thời kỳ gian nan, được các thừa sai dòng Tên khai sáng, chữ Quốc Ngữ đã chuyển mình phát triển và lan rộng dần trên dất Việt, Ts Kiều Ly dẫn hội thảo viên vào giai đoạn chữ Quốc Ngữ nở hoa. Đáng chú ý là Ts Kiều Ly đã giới thiệu một từ ngữ mới “Ngôn ngữ Thừa Sai” trong bài Nhà Biên Soạn Thực Sự Sự Của Manuductio. Ts Kiều Ly đã có công: sử dụng từ chìa khóa này làm lời khẳng định chữ Quốc Ngữ luôn nhắm tới mục đích truyền giáo, không là phương tiện giao thương hay lợi thế chính trị. Nói khác, Việt Ngữ là ngôn ngữ hội nhập văn hóa không xâm thực văn hóa.

Ts Kiều Ly còn xác định, vào thời kỳ Chữ Quốc Ngữ đang trên đà phát triển, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, các thừa sai dòng Tên “nghỉ việc” và các Lm Hội Thừa Sai đã tiếp nối các thừa sai dòng tên tiếp tục phát triển thứ ngôn ngữ truyền giáo này tại Việt Nam và nhấn mạnh vai trò của các cộng tác viên người Việt như Lm Bentô Thiện và thày Igesio Văn Tín, nhưng chính yếu vẫn là các vị giám mục như Pierre Lambert de la Motte và François Pallu, Đức cha Laneau, Đức cha Bá Đa Lộc và Đức cha Adran, vị giám mục điều phối công trình soạn trừ điển Dictionarium Annamiticum-Latinum (cùng với tám công tác viên người Việt, Đàng Trong). Do nhu cầu giáo dục các chủng sinh, Đức cha Laneau đã quyết định dạy tiếng Việt, chữ tiền Quốc Ngữ cho các chủng sinh. Và chữ Quốc Ngữ đã thành chữ viết trung gian giữa các vị giám mục nước ngoài với các chủng sinh. Riêng Đức cha Deydier muốn các bí tích phải được viết bằng ngôn ngữ bản xứ để các linh mục có thể đọc được khi cử hành các nghi lễ.

Ts Kiều Ly cũng ghi nhận, việc tổ chức các chủng viện đóng góp rất quan trọng vào việc giảng dạy và gìn giữ chữ quốc ngữ trong vòng gần ba trăm năm giữa lòng Giáo hội và chính các linh mục, chủng sinh người Việt góp phần lớn cho việc gìn giữ, phát triển chữ quốc ngữ.

Riêng Lm Ts Nguyễn Đức Thông đã giới thiệu bức tranh toàn cảnh về chữ Quốc Ngữ và văn học Công Giáo từ những năm tháng ươm mầm tới giai đoạn triển nở rực rỡ. Mỗi giai đoạn chuyển mình của chữ quốc ngữ được đánh dấu bằng các tác phẩm Quốc Ngữ mới. Bắt đầu là công thức thánh tẩy của 35 giáo sĩ Dòng Tên bằng chữ Quốc Ngữ, công thức thanh tẩy đã xuất hiện ngay từ năm 1645, đã thành câu, viết rời và sử dụng dấu chính xác: “Tau rữa mài nhân danh Cha và Con và Spirito Sancto”. Sau công thức thanh tẩy là cuốn Phép Giảng Tám Ngày và từ điển Việt-Bồ La của Alexandre de Rhodes, rồi tới từ điển Tự điển Annam - Latin của Bá Đa Lộc, tiếp theo là tập lịch sử nước Annam và Từ điển Annam - Latin và Latin - Annam của Giám mục Taberd và tiếp tục tới văn học Việt Nam thời cận đại và hiện đại.

Theo cha, ba yếu tố thuận lợi của môi trường Việt Nam: con người sùng đạo, chủ trương hội nhập của các thừa sai và chữ Quốc Ngữ dễ học, dễ viết đã dẫn tới thành công tốt đẹp vể công trình truyền đạo và phát triển chữ Quốc Ngữ.

Cha Nguyễn Đức Thông coi chủ trương nâng đỡ chữ Quốc Ngữ của chính quyền Pháp thời Pháp thuộc và xu hướng tích cực phát triển chữ Quốc Ngữ của các trí thức Việt Nam thời cận đại là những yếu tố thuận lợi cho chữ Quốc Ngữ vươn lên. Có thể coi trình bày của cha như một tổng quan về văn học sử Công Giáo Việt Nam. Các đề tài tuy không được trình bày với chuyên môn sâu nhưng đủ cho con cháu hiểu biết công ơn trời biển của ông bà tổ tiên.

Ngược với Lm Ts Nguyễn Đức Thông, Lm Gs Đào Trung Hiệu đã dừng bước đưa hội thảo viên tới chiêm ngưỡng một nhân vật tài danh trong khu rừng văn hóa Công Giáo Việt Nam, thánh Philiiphê Phan Văn Minh, vị thánh đã rạng danh trong toàn Giáo hội Việt Nam do đã chết vì đạo Chúa năm1853, với án trảm quyết tại pháp trường Đình Khao, Vĩnh Long. Riêng ở đây Lm Gs Đào Trung Hiệu muốn giới thiệu cha thánh Minh như một chuyên viên ngữ học. Khi còn là chủng sinh Philipphê Minh đã cộng tác soạn thảo cuốn từ điển Dictionarium Anamitico-Latinum và Việt-Latinh. Trong cuốn này, chữ Quốc Ngữ không khác nhiều với tiếng Việt hom nay.

Và thánh Minh cũng được giới thiệu là nhà thơ. Hồi ấy tại Việt Nam đã hiện nhiều thi đàn như Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, Hồng Đức Quốc m Thi Tập, Gia Định Tam Gia Thi Tập. Thánh Philipphê cũng mở một thi đàn, những bài thơ trên thi đàn được ghi lại trong tập Phi Năng Thi Tập nhắm trình bày đạo lý Chúa và khuyến khích giáo dân can đảm sống đạo. Lời Phi lộ của Phi Năng Thi Tập là tâm tình rất sốt sắng do Thánh Philipphê Phan Văn Minh viết: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa là phần gia nghiệp đời đời của tôi. Tôi xin chọn Thánh Danh Chúa làm chủ tể trong hội thi xướng họa này để tỏ lòng tha thiết kính yêu, và cũng là việc giải trí tốt đẹp trong đời sống thường ngày của hàng văn gia đất nước Đại Nam.”

Kết luận

Các thừa sai đến đất việt không đi buôn bán, đi mua đất nhưng đi giảng đạo Chúa cho người Việt bằng ngôn ngữ Việt và may mắn thuở đó thế hệ các thừa sai ban đầu đã sáng nghĩ ra chữ Quốc Ngữ và cùng với những người dân bản xứ, tất cả cùng đổ mồ hôi sôi nước mắt định hình và phát triển chữ Quốc Ngữ làm ngôn ngữ rao giảng Tin Mừng và làm phương tiện tiếp cận thừa sai với các dân bản xứ.

Ước mong các thế hệ con cháu luôn trân trọng gìn giữ lấy chữ Quốc Ngữ như của gia bảo cũng là kho tàng văn hóa ông bà để lại. Ước mong các thế hệ con cháu biết chung lòng, góp sức phát triển lên mãi kho tàng văn hóa quý báu này.

Cuộc góp mặt hôm nay của các thuyết trình viên và các hội thảo viên đã thành lời biết ơn ngỏ với các tiền nhân vì món quà vô giá chúng ta đã nhận, Chữ Quốc Ngữ.



 
Niềm vui và tâm tình Tạ ơn Chúa của một sinh viên Piano gốc tốt nghiệp Đại học Nuremberg ở Đức
Nguyễn Quang Hồng Ân
09:40 28/10/2019
Tôi bước lên sân khấu trong niềm vinh dự là một sinh viên gốc Việt Nam tốt nghiệp loại giỏi tại Đại học Đức, trẻ và rất trẻ, mười chín tuổi; và đang học Master năm thứ nhất Khoa Piano trình diễn tại Đại học Âm nhạc hiện đại nhất của nước Đức. Đó là Đại học Nuremberg, Bang Bavaria.

Theo lịch sử của ngành piano trình diễn tại Đức, tôi là sinh viên tốt nghiệp sớm và nhỏ tuổi nhất. Thay vì tám học kỳ trong bốn năm, tôi hoàn tất chỉ trong ba năm với sáu học kỳ. Chính vì đặc biệt như vậy, tôi được vinh dự trình diễn khai mạc buổi lễ tốt nghiêp thật long trọng của nhà trường.

Tiếp theo chương trình là Diễn văn của Ông Chủ Tịch Đại Học Nuremberg, rồi xướng danh sinh viên tốt nghiệp để phát bằng. kết thúc với bài trình diễn đàn Guitar của Ông Phó Chủ tịch Trường.

Trước khi ra về, có buổi tiệc thân mật thật thịnh soạn, đúng hơn là môt buổi tiếp tân do nhà trường khoản đãi. Tất cả khách mời đều được chào đón giao lưu vui vẻ. Điểm đặc biệt trước buổi lễ, đó là Lễ Tạ Ơn kéo dài bốn mươi lăm phút. Tất cả trong sự im lặng, trang nghiêm, dưới sự hướng dẫn của Mục sư chủ sự, tạ ơn Chúa vì Ngài đã tạo dựng nên con người và ban cho chúng ta trí thông minh cùng sự khôn ngoan để mang lại hạnh phúc cho chính mình, cho tha nhân và làm sáng danh Người.

Vị Mục sư phát biểu “Hôm nay, chúng ta tập hợp nơi đây, tại giảng đường này để tạ ơn Thượng đế, sau nhiều năm chăm chỉ làm việc. Đại học đã mở ra cho chúng ta biết những phương pháp, những giá trị phổ quát để sáng tạo. Tự do và Sáng tạo, đó là yếu tính của con người, chúng ta phải bảo vệ nó. Chúng ta sẽ chia xa, mỗi người trên con đường mới, hãy trân trọng và yêu mến sứ mệnh của mình! Với tấm bằng trên tay, đó là một vinh dự, nhưng chúng ta hãy khiêm tốn vì khả năng tri thức của chúng ta là giới hạn, hãy luôn đến với Chúa Thánh Linh, chính Ngài mới vô hạn! Mục sư tiếp tục dâng lời cảm tạ Thượng Đế". Mọi người tham dự cùng xướng lên Amen! Tiếng Do Thái có nghĩa ƯỚC ĐƯỢC NHƯ VẬY!

Trên khuôn mặt của quý phụ huynh tham dự trông rạng rỡ vui mừng nhưng cũng không nén được những sự xúc động, tự hào. Văn bằng in ấn rất đẹp, trang trọng gồm hai bản là tiếng Đức và tiếng Anh để dùng trên phạm vi quốc tế. Bên cạnh đó là tờ chứng thực các thứ hạng sinh viên đã đậu, kèm theo bảng điểm nhiều trang gồm đầy đủ các môn mà sinh viên đã vượt qua với sự xếp loại cho từng môn rõ ràng.

Trong buổi giao lưu, tôi cũng giới thiệu về tác phẩm sắp xuất bản bằng ba thứ tiếng của mình, Anh, Đức, Việt, Mọi người rất hân hoan chúc mừng. Tác phẩm có tên là “HỒNG ÂN”, vì tôi tin sức lực con người là giới hạn chỉ có ơn Chúa là vô biên. Tác phẩm này ra đời để trả lời những câu hỏi mà các bạn trẻ cũng như quý vị phụ huynh đã dồn dập gởi đến tôi, nhân dịp tốt nghiệp Đại học, trúng tuyển vào Cao học năm 19 tuổi và nhận được hai học bổng lớn nổi tiếng nhất của nước Đức DAAD và Deutschlandstipendium.

Một tác phẩm hỗ trợ bước đường thành công cho các bạn trẻ trong thời đại mới và ngay bây giờ xin kính mời Quý vị thưởng thức tác phẩm nổi tiếng Love Dream của nhà soạn nhạc vĩ đại Franz Liszt do tôi trình diễn khai mạc Lễ tốt nghiệp Đại học và Cao học tại Đại học Âm nhạc Nuremberg.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Từ Cái Chết Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm Đến Sự Cáo Chung Của Việt-Nam Cộng-Hòa, Nghĩ Về Bài Học Chủ Quyền Của Đất Nước.
Nguyễn Đức Cung
08:44 28/10/2019
Trong lịch sử hiện đại Việt Nam, có hai ngày được gọi là Quốc hận, đó là ngày 21 tháng 7 năm 1954 do Việt Minh Cộng Sản cấu kết với thực dân Pháp chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17 (Bến Hải, Quảng Trị) khiến cho một triệu người phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả, thân thích đề vào miền Tự do, qua đó hình thành hai thực thể chính trị đối kháng nhau: Miền Bắc gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Miền Nam gọi là Việt Nam Cộng Hòa. Và ngày 30-4-1975 được gọi là ngày Quốc hận vì Hoa Kỳ đã cam tâm bỏ rơi người bạn đồng minh của họ, ném Việt Nam Cộng Hòa vào miệng chó sói Bắc Việt qua sự đạo diễn của Nixon và Kissinger khiến cả một Miền Nam điên đảo, điêu linh với hơn một triệu dân, quân, cán, chính VNCH vào tù CS, ba triệu người vượt biên, 500.000 người vùi xác dưới lòng biển cả hay trong rừng sâu núi thẳm và hệ quả khốc hại vẫn còn cho đến hôm nay. Tất cả đều có liên hệ ít nhiều đến một cái chết. Cái chết của Cố TT Ngô Đình Diệm qua vụ đảo chính quân sự ngày 1-11-1963 cũng do Mỹ đạo diễn với bàn tay Henry Cabot Lodge nằm trong tương quan mật thiết đến sự cáo chung của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-4-1975 qua mưu đồ độc hiểm của Henry Kissinger. Cái chết của Cố TT Ngô Đình Diệm liên hệ đến vấn đề chủ quyền của Việt Nam. Bài học chủ quyền của đất nước là bài học muôn thuở và cũng là lý tưởng đấu tranh của Cố TT Ngô Đình Diệm lãnh hội được từ huyết thống cha ông của dòng tộc và qua huấn giáo của những vị thầy trong lịch sử mà cố Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa từng được thừa hưởng. Một con người sống và chết vì lý tưởng (chủ quyền của đất nước) nghĩ rằng là đơn giản nhưng thật sự không đơn giản tí nào mà phải được trải nghiệm qua biết bao cuộc huấn luyện từ trong gia đình đến ngoài xã hội, trên chính trường cũng như trong va chạm với thực tế mà sự giáo dục của môi trường tôn giáo và văn hóa xã hội ảnh hưởng vào không ít. Cái chết của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-4-1975 tức tưởi, ngập tràn oan khiên nhưng cũng lại là một tất yếu của lịch sử bởi vì những người lãnh đạo của nền Đệ Nhị Cộng Hòa không học được và cũng không biết được giá trị của bài học chủ quyền đất nước qua bản thân và qua kinh nghiệm của lịch sử.

1.- Một số định nghĩa hai chữ “chủ quyền quốc gia” theo tư liệu và sách vở.

Theo từ nguyên học (etymology) chữ Hán, chữ chủ 主 gồm chữ vương 王 là vua, và một dấu chấm丶 ở trên thường gọi là bộ chủ mà Thiều Chửu gọi là: “Phàm vật gì cần có phân biệt, sự cần biết nên chăng, lòng đã có định, thì đánh dấu chữ chủ để nhớ lấy… Chủ là một tiếng phân biệt mình với người trong khi giao tế, phàm sự gì mình khởi lên thì mình là chủ nhân” (Thiều Chửu, Hán Việt Tự-Điển, nhà xuất bản Đại Nam, tái bản lần thứ hai, trang 6).

Theo Linh mục Tiến sĩ Léon Wieger, chữ chủ 主 viết theo lối tượng hình gồm phần dưới tượng trưng chữ đăng 燈 cái đèn, và dấu chấm 丶 tượng hỏa 火. Bây giờ có người viết bên trái bộ hỏa, bên phải chữ chủ để chỉ cây đèn, chữ chủ có nghĩa prince (đấng quân vương), master (ông chủ); bởi vì nói như các viên thông ngôn, 首 出 庶 物 , 萬 民 所 望 之 意 (thủ xuất thứ vật, vạn dân sở vọng chi ý) đấng quân vương nổi lên trên đám quần chúng và được mọi người trông thấy, cũng như ngọn lửa nổi lên và chiếu sáng trên cây đèn. “The inferior part represents a lamp, the flame of which 王 像 燈, 丶像 火( Dr. L. Wieger, S.J. Chine Characters, Their Origin, Etymology, History, Classification and Signification. A Thorough Study From Chinese Documents, bản in năm 1965, trang 30; bản in lần đầu năm 1915).

Chữ 王 vương, qua LM. Léon Wieger (S.J) cho biết theo người xưa, gồm một nét sổ từ trên xuống dưới (tượng trưng cho một người là vua) nối ba nét nằm ngang tượng trưng cho thiên, địa và nhân “According to the ancients the 王 king is ! the one, the man who connects together 三 heaven, earth and humanity”, See L. 83 C. – Phonetic series 87. ( Dr. L. Wieger, S.J. Chine Characters, Their Origin, Etymology, History, Classification and Signification. A Thorough Study From Chinese Documents, 1965, trang 29; Paragon Book Reprint Corp., New York, Dover Publications, Inc., New York). Chữ vương còn có thể đọc một âm khác là vượng mà theo Thiều Chửu có nghĩa “cai trị cả thiên hạ như dĩ đức hành nhân giả vượng 以 德 行 仁 者 王 (lấy đức làm nhân ấy được đến ngôi trị cả thiên hạ, Thiều Chửu, Sđd, trang 391).

Chữ quyền 權 có tám nghĩa: 1. Quả cân, 2. Cân lường, 3. Quyền biến, (trái đạo thường mà phải lẽ gọi là quyền, đối lại với chữ kinh, 4. Quyền bính, (quyền hạn, quyền thế), 5. Quyền nghi , sự gì hãy tạm làm thế gọi là quyền thả như thử 權 且 如 此, tạm thay việc của chức quan nào cũng gọi là quyền, 6. Xương gò má (Thiều Chửu, Sđd, trang 317). 7. Họ Quyền. 8. Lực lượng và lợi ích. Ở đây nên dùng nghĩa số 4.

Tuy vậy, nhìn vào tự dạng, theo thiển ý của tác giả bài viết này có thể thấy chữ quyền 權 được viết theo lối hội ý: chữ mộc 木 là cây, chỉ cán cân (hệ thống đo lường Trung Hoa và VN dùng cái cân có cán gỗ, bộ thảo đầu ở trên, dưới có hai chữ khẩu 口, chỉ người mua và người bán. bộ phận chữ chuy 隹 ở dưới chỉ hai bàn cân. Quyền là sự thỏa thuận giữa hai người, là sự công bình của cán cân, và sự đồng thuận mới tạo nên vui vẻ, hòa bình, trong thương thảo.

Khi nói tới vấn đề chủ quyền, thông thường người ta hay liên tưởng đến chính trị, mà như Aristote có nói: “Con người là một con vật biết làm chính trị” (Man is a political animal). Với Tôn Dật Tiên, ông cho rằng: “chánh là việc của chúng nhơn, tức là việc của mọi người, trị là quản lý, và chánh trị là quản lý của tất cả mọi người." (Hùng Nguyên, Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn, chủ nghĩa quốc gia khoa học, quyển 2, 1964, trang 9).

Chủ quyền của một cá nhân trên một vật sở hữu, trên bản thân mình hay có liên hệ tới gia đình, vợ con, thân bằng đã là một điều cao quý mà chủ quyền của một quốc gia lại càng quý trọng gấp bội.

Tự điển Larousse của Pháp có định nghĩa về chữ souveraineté nationale (chủ quyền quốc gia) như sau: “Souveraineté nationale, principe du droit public francais selon lequel la souveraineté, jadis exercée par le roi, l’est aujourd’hui par l’ensemble des citoyens.” (Tạm dịch: Chủ quyền quốc gia, nguyên tắc công pháp Pháp quốc theo đó chủ quyền, ngày xưa do vua điều hành, ngày nay nó là quyền của tập thể những công dân.” (Petit Larousse illustré, 1987, trang 950).

Tác giả Jay M. Shafritz trong Dictionary of American Government and Politics có đề cập đến chủ quyền (sovereignty) rằng “The quality of being supreme in power, rank, or authority. In the United States, the people are sovereign and government is considered their agent. The sovereignty of the sovereign states of the United States is largely a myth. However, because so much power on most crucial issues now lies with the federal government. The literature on sovereignty is immense and freighted with philosophy.” (Tạm dịch: Chủ quyền là tính cách cao nhất trong quyền lực, ngôi vị hoặc quyền thế. Ở Hoa Kỳ, người dân là chủ và chính quyền là đại diện. Chủ quyền của các tiểu bang Hoa Kỳ xem ra là một huyền thoại, tuy nhiên có biết bao quyền trong nhiều vấn đề then chốt lại nằm trong chính quyền liên bang. Tính cách văn chương về vấn đề chủ quyền thật là bao la và được chuyển tải trong phạm trù triết học.)

Trong tác phẩm Dân Tộc Sinh Tồn, chủ nghĩa quốc gia khoa học, Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy cho biết John Locke (1632-1704) triết gia Anh và Rousseau (1689-1755), triết gia Pháp đặt nền tảng quốc gia trên một bản dân ước theo đó mọi người cùng vui lòng chấp nhận nhường quyền thiên nhiên của mình cho xã hội, để bù lại, xã hội bảo đảm quyền lợi mình. Dựa vào ý này, họ nêu ra thuyết chủ quyền phải thuộc về toàn thể dân chúng. (Quyển I, 1964, trang 135). Tuy nhiên để bù đắp vào sự khiếm khuyết của chủ trương này người ta nêu ra sự phân quyền của Montesquieu kể cả của Locke để bảo đảm thêm quyền lợi của cá nhân của con người trong xã hội.

Chủ quyền của một quốc gia ngoài ngoài tam quyền (hành pháp, lập pháp và tư pháp) còn là một hệ thống tư tưởng chính trị, văn hóa được thừa hưởng từ các triều đại đi trước hay do chế độ hiện tại đưa ra. Khả năng và tư cách của vị lãnh tụ của đất nước không phải một sớm một chiều mà có nhưng được tích lũy theo thời gian và kinh nghiệm cá nhân cũng như gia đình. Nói như vậy để thấy rằng giữa nền Đệ I và Đệ II Cộng Hòa có những cái tương phản trong tư cách của những người lãnh đạo, đường lối xử trí công việc quốc gia biểu lộ qua khả năng, trình độ và phong thái nhân vật nói rõ hơn tư cách của vị lãnh tụ và tác phong của những kẻ tự nguyện đóng vai trò bù nhìn của ngoại bang.

2.- Bài học về “chủ quyền quốc gia” qua một số biến cố lịch sử.

Trong dòng lịch sử dân tộc, chủ quyền đất nước thể hiện qua nhiều biến cố với mỗi phong cách khác nhau. Truyền thống dân tộc thề hiện qua huyết thống, văn hóa và tôn giáo sẽ được khái quát phân tích qua một vài sự kiện lịch sử.

Trước hết có lẽ theo truyền thuyết người ta phải nhắc đến cuộc khởi nghĩa của bà Triệu Thị Trinh chống nhà Ngô năm 248 khi bà hiệu triệu nhân dân quận Cửu Chân (Thanh Hóa) nổi dậy khi bày tỏ ý chí kiên cường muốn nắm lấy chủ quyền đất nước và quyết định số mệnh của mình bằng câu nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người khác.” Cưỡi voi trận, mặc áo giáp vàng, bà đã cầm cự với quân Trung Quốc hàng sáu tháng nhưng cuối cùng lực lượng của bà bị đánh tan, bà tuẫn tiết khi ở tuổi hai mươi ba. Nếu câu nói trên (thực sự được kiểm chứng do phương pháp sử học) là của bà Triệu thì trong thế kỷ thứ ba của giai đọan Bắc thuộc, tư tưởng về chủ quyền đất nước nơi người dân cổ Việt đã xuất hiện đặt nền móng cho các cuộc khởi nghĩa giành độc lập về sau. Câu nói của bà Triệu, xem ra là một thổ dân ở quận Cửu Chân (Thanh Hóa) sao lại giống câu nói của Tông Xác, viên tướng được vua Tống phong chức Chấn Võ tướng quân, cử theo Đàn Hòa Chi đi đánh Lâm Ấp năm 436. Tác phẩm Tư Trị Thông Giám mà Tư Mã Quang đã bỏ ra trên 30 năm để hoàn thành, có ghi lại câu nói mà, thuở còn hàn vi, khi được người chú hỏi về chí bình sinh của mình, Tông Xác thường nói: “Nguyện thừa trường phong phá vạn lý lãng”, 願 乘 長 風 破 萬 里 浪 nghĩa là ‘ước gì được cưỡi ngọn gió dài để xông pha làn sóng muôn dặm’. (Nguyễn Đức Cung, Lịch sử vùng cao qua Vũ Man Tạp Lục Thư, Nhà xb. Nhật-Lệ, 1998, trang 116). Ngô Sĩ Liên khi viết Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đã lấy câu nói này của Tông Xác có trong Tư Trị Thông Giám, thêm thắt một số ý kiến và biến thành lời bà Triệu. Đây phải chăng còn là một nghi vấn lịch sử?

Rồi bài thơ của Lý Thường Kiệt làm năm 1077 trên chiến tuyến sông Như Nguyệt để khích lệ quân Lý đánh nhau có thêm hùng khí đối với giặc Tống được một số sách báo CS xưng tụng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, nhưng thực tế phải nhường bước cho câu nói của bà Triệu. Bài thơ được nói là của thần nhân cho, từ trong đền Trương Hát, vọng tới ba quân của Lý Thường Kiệt như sau:

南 國 山 河 南 帝 居

截 然 定 分 在 天 書

如 何 逆 虜 來 侵 犯

汝 等 行 看 守 敗 虛.

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!



(Sông núi nước Nam, vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời !)

“Trong đêm tối, nghe vang lên từ trong miếu mấy câu thơ bí hiểm này, quân lính ai nấy đều nức lòng. Quân nhà Tống hoảng sợ tháo chạy trước khi bị tấn công.”

Năm 1283, khi giặc Nguyên Mông chuẩn bị sang xâm lăng nước ta lần thứ hai, Trần Hưng Đạo đã soạn xong cuốn Binh thư yếu lược trong đó có bài Hịch tướng sĩ, viết những câu tha thiết với sự tồn vong của đất nước như : “ Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười… Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức” (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, bản in lần thứ VII, Tân Việt xb, 1964, trang 138). Trần Hưng Đạo đã lồng chủ quyền đất nước vào chủ quyền của nhà Trần qua đó nói lên mối liên hệ hữu cơ giữa dòng tộc cầm quyền với thuộc hạ và quần chúng ở dưới. Trần Hưng Đạo đã thiết thực nói đến hệ quả tương ứng một khi kẻ thù bị đẩy lui “chẳng những là thái ấp của ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc,, chẳng những là gia quyến của ta được yên ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con…” Tư liệu được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên qua bản dịch của Trần Trọng Kim diễn tả rõ chủ quyền của một đất nước tiên vàn xuất phát từ trách nhiệm của nhà lãnh đạo đối với sự sống còn chẳng những của triều đại mà còn với tương lai của bá tánh nhân dân nữa.

Trong cuộc chiến tranh Nguyên Mông, chính nghĩa và chủ quyền của Đại Việt bộc lộ rõ nhất trong biến cố hội nghị Diên Hồng khi Toàn Thư chép rằng : “Tháng chạp… Thượng hoàng (tức Trần Thánh tông) triệu tập những người lớn tuổi trong nước lại ở trước điện Diên hồng, cho ăn tiệc để hỏi kế. Tất cả đều nói: Đánh. Muôn người rập một tiếng như thốt ra bởi một miệng vậy.” (Toàn Thư bản kỷ, q.5, tờ 44a). Qua sự kiện này rõ ràng chủ quyền nằm ở trong tay quần chúng.

Trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” Nguyễn Trãi đã nói rõ chủ quyền, phương vị của đất nước Đại Việt như sau:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.”

Nếu chủ quyền vốn đã được hành sử trong tay của giới quý tộc nhà Trần và họ đang cố giữ cho khỏi mất đã là một vấn đề khó khăn thì đến giai đoạn kháng Minh của Lê Lợi thế kỷ XV, chủ quyền đất nước đã mất hẳn vào tay ngoại bang nên việc lấy lại quyền làm chủ non sông Đại Việt càng khó khăn gấp vạn lần, bởi lẽ Lê Lợi xuất thân chỉ là một nạn nhân như muôn nghìn nạn nhân khác dưới nền đô hộ của quân Minh. Qua 10 năm kháng chiến Lê Lợi đã thành công và lấy lại được chủ quyền bởi vì ông có một lòng kiên quyết, biết nhận định tình hình, mưu lược, biết tiến, biết thoái, biết sử dụng nhân lực, tài lực v.v… Nói như sử gia Nguyễn Phương : “Sự xuất hiện của Lê Lợi trên chiến trường Việt Nam là sự xuất hiện của một vị cứu tinh kiên gan, khôn khéo, và can đảm, mưu lược. Nhờ kiên gan, khôn khéo, ông đã kích động và quy tụ được tiềm lực kháng chiến của nhân dân, nhờ can đảm, mưu lược ông đã toàn thắng được giặc mạnh. Nhưng sự xuất hiện của Lê Lợi không phải nói lên chỉ có thế. Nó còn chứng minh tính cách tự tồn cố hữu của quốc gia Việt Nam.” (Nguyễn Phương, Đà lịch sử…Tập san Sử Địa số 1, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1966, trang 32).

Một biến cố trọng đại trong lịch sử Việt Nam nữa đó là việc Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh năm 1789 có liên quan mật thiết đến chủ quyền Việt Nam. Tháng mười năm Mậu Ngọ (1788), Tôn Sĩ Nghị lấy quân bốn trấn Quảng đông, Quảng tây, Quí châu, Vân nam khoảng 20 vạn người để tiến vào Đại Việt. Phản ứng của Nguyễn Huệ là nổi giận xung thiên không ngần ngại chửi bới: “Quân Ngô, đồ chó ấy, sang đây để mà chết.”

Trong lời hiệu dụ trước ba quân, Nguyễn Huệ đã làm sáng tỏ chân lý về chủ quyền đất nước và ý đồ tham hiểm của giặc phương Bắc như sau:

“Quân Thanh sang lấn nước ta, hiện chúng đã đóng ở thành Thăng long các người có biết hay không? Trong khoảng trời đất phận sao đã được định rõ phương nam phương bắc, nước nào cai trị nước ấy. Người Tàu không phải nòi giống nước ta, bụng họ ắt là khác hẳn. Từ đời nhà Hán đến nay họ đã mấy phen chiếm cướp đất cát, giết hại nhân dân, vơ vét của cải. Người nước ta không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi (…) Ngày nay quân Thanh lại sang, định lấy nước ta đặt làm đất quận huyện của chúng, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đuổi. Các người đều đủ lương tri, lương năng nên phải dốc lòng hết sức với ta để dựng công lớn, chớ quen thói cũ mang lòng nhị tâm. Nếu như phát giác, ta sẽ tức khắc giết chết, không tha một người nào. Đừng trách ta không bảo trước”. (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, từ 1771 đến 1802, Văn Sử Học, 1973, trang 169).

Cũng trong lời hiệu dụ đó, Nguyễn Huệ khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền của đất nước: “

…Đánh cho nó chích luân bất phát;

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn;

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.”

Và với lực lượng của ông hơn 10 vạn, Nguyễn Huệ đã viết lịch sử chiến thắng một cách vẻ vang trước bọn Thanh xâm lược.

Tuy nhiên tác giả Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) trong “Chính Đề Việt Nam” đã viết về “tâm lý thuộc quốc” từng ghi rằng: “Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong một một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc. Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc cũng phải khuất phục trước thực tế.” (Tùng Phong Ngô Đình Nhu, Sách đã dẫn, trang 77)

Cũng trong tác phẩm nổi tiếng đó, Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) còn viết về tâm lý thuộc quốc một lần nữa và đưa ra một kiến giải mới như sau: “Tâm lý thuộc quốc bắt đầu từ hai sự kiện. Tương quan lãnh thổ và dân số giữa hai quốc gia là một nguyên nhân tự ty mặc cảm. Sự lệ thuộc của Việt Nam đối với văn hóa Tàu là một lý do khác. Tương quan lãnh thổ và dân số là hai điều kiện vật chất hiển nhiên khó thay đổi được. Tuy nhiên, trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày nay, sự bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa không còn nằm trong khuôn khổ xưa nữa và không còn là một sự kiện chỉ liên quan đến hai quốc gia.

Trong lĩnh vực văn hóa, một dân tộc lớn hay nhỏ, do sự góp phần nhiều hay ít của dân tộc ấy vào di sản của văn minh nhân loại. Trong lịch sử cổ Hy Lạp, thành Athen nhỏ bé được tôn sùng là người hướng đạo của dân tộc hy Lạp, vì sự góp phần to tát vào di sản văn minh Hy Lạp. Điều kiện văn hóa này, chúng ta có thể chủ động được, miễn là công cuộc phát triển của dân tộc thực hiện được. Và thế hệ của chúng ta có thể có đủ điều kiện và hoàn cảnh để thực hiện ý chí của Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, tiêu diệt tâm lý thuộc quốc đã mấy ngàn năm bao trùm dân tộc và ám ảnh các thế hệ lãnh đạo của chúng ta. Xem thế, chúng ta càng ý thức tính cách quan trọng của công cuộc phát triển dân tộc trong giai đoạn này.” (Tùng Phong-Ngô Đình Nhu, Sách đã dẫn, trang 110).

Trong lịch sử cận đại, chủ quyền đất nước giai đoạn Pháp thuộc nằm gọn trong tay người Pháp và đã có biết bao phong trào đấu tranh, tổ chức cách mạng, nhân vật lịch sử dấn thân tranh đấu để giành lại trong gần một thế kỷ. Những người muốn vinh thân phì gia hay cốt tìm miếng đỉnh chung thì dù hoạt động trong môi trường chính trị họ chỉ nhìn chủ quyền đất nước như là một chiêu bài để hoàn thành công việc của một đầy tớ với một ông chủ, còn những người có tâm huyết thực sự sống chết đối với đất nước, họ nhìn chủ quyền quốc gia là một lý tưởng phải tôn thờ, trân quý và xả thân phục vụ. Công cuộc phát triển dưới thời TT Ngô Đình Diệm cho thấy nỗ lực phá bỏ tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa hay đối với Hoa Kỳ bộc lộ qua đoạn văn nói trên dưới ngòi bút của Ngô Đình Nhu vẫn còn giá trị hiện thực đối với đất nước VN ngày nay.

3.- Sự cần thiết trong rèn luyện kỹ năng chính trị và dấu ấn của những người đi trước…

Trong cuốn Tam Tự Kinh, một cuốn sách mà Tiến sĩ Phùng Hữu Lan (Fung Yulan 1895-1990) cho là căn bản của triết lý đạo học Trung Quốc, chúng ta đọc thấy câu “Nhân bất học, bất tri lý” để nói lên rằng sự học là rất cần thiết. Nghề nghiệp tay chân cũng phải học, phải rèn luyện huống chi là việc dấn thân vào con đường chính trị lại càng phải học nhiều hơn nữa, học nữa, học mãi.

Ở Hy Lạp, một nhà hiền triết, Plato (428-347 trước Công Nguyên) đã từng đề nghị đào tạo một lớp chuyên viên lãnh đạo chính trị, những người không phải chỉ được huấn luyện về nghệ thuật chỉ huy mà còn phải được huấn luyện và có một truyền thống về một triết lý sống tốt đẹp. (Barbara W. Tuchman, The March of Folly: From Troy to Vietnam (1984), Trần Bình Nam, Con đường tự diệt, Trang web Thông-Luận, 24-04-2006).

Một triết gia lừng danh thời cổ Hy-Lạp, học trò của Plato, Aristote (384-323) từng nói “Con người là một con vật biết làm chính trị” (Man is a political animal) và nhà cách mạng Tôn Dật Tiên của Trung Hoa (Sun Yat-sen 1866-1925) cũng có phát biểu : “Chánh là việc của chúng nhơn, trị là quản lý, và chánh trị là quản lý của tất cả mọi người.” (Hùng Nguyên, Chủ nghĩa Dân tộc Sinh tồn, chủ nghĩa quốc gia khoa học, Quyển II, 1964, trang 9).

Như vậy chính trị là việc ai cũng làm được vì đó là điều “sinh nhi tri chi” và là bổn phận của mọi người, trong khi đó một nhà đại hiền triết Á Đông, Khổng Tử, tuy không phản đối các quan niệm nói trên, nhưng lại nhấn mạnh rằng những người làm chính trị cần phải có khả năng và được huấn luyện nghĩa là : “Phải học trước rồi mới làm chính sự. “ Trong thiên Tiên Tiến của cuốn Luận Ngữ, có ghi lại câu chuyện như sau: “Tử Lộ sử Tử Cao vi Phí tể. Tử viết: “Tặc phù nhân chi tử”. Tử Lộ viết: “Hữu dân nhân yên, hữu xã tắc yên, hà tất độc thư nhiên hậu vi học?” Tử viết: “Thị cố ố phù nịnh giả”. 子 路 使 子 羔 爲 費 宰 . 子 曰 : 賊 夫 人 之 子. 子 路 曰, 有 民 人 焉 , 有 社 稷 焉 , 何 必 讀 書 , 然 後 爲 學.子 曰, 是 故 惡 夫 侫 者 .

Dịch : Tử Lộ (làm gia thần họ Quý), tiến cử Tử Cao làm quan tể đất Phí. Khổng tử trách: “Như vậy là làm hại con người ta” (vì Tử Cao chưa học được bao, chưa làm quan được). Tử Lộ bảo: “(Làm chức tể thì) có nhân dân để trị, có thần xã (đất đai), tắc (mùa màng) để thờ (đó là học), hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là có học?”Khổng tử nói: “Vì thế mà ta ghét những lời lợi khẩu (cưỡng lý để tự biện hộ)”. (Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử & Luận Ngữ, Nhà xb Văn Học, 2003, trang 404).

Linh mục Tiến sĩ Séraphin Couvreur, S.J. trong bản dịch bộ Tứ Thư tái bản ở Paris năm 1981 (Les Quatre Livres de Confucius), đã bổ túc một vài chữ giải thích trong đoạn trích trên như sau: “Tzeu Iou avait nommé Tzeu kao gouverneur de la ville de Pi. Le Maitre dit: “C’est faire grand tort à ce jeune et à son père.”… (trang 193). Linh mục Couvreur là một nhà Trung Hoa học nổi tiếng trong thế kỷ trước, đã cho biết con người ta mà cụ Nguyễn Hiến Lê nói không rõ lắm đó là “người trẻ đó và cha anh ta” (ce jeune et son père).

Về sau người ta lại có thể hiểu đoạn văn đó là : Khổng tử chủ trương rằng ”phải học trước đã rồi mới làm chính sự được. Nếu kẻ vô học cai trị dân thì theo Khổng Tử, thế là “làm hại con người ta” (Tiên Tiến, XI/24). (Hoàng Văn Lân, 7 luận điểm về kẻ sĩ trong học thuyết Khổng Tử, Trang điện tử Talawas, 10-3-2007). Con người ta ở đây là bàn dân thiên hạ, là các thế hệ tương lai, khắp nơi, khắp chốn.

Lời nói của Khổng Tử thật là sâu sắc, tuy ngắn nhưng có nhiều gợi ý và điều này cũng nói lên giá trị ngàn đời của cuốn Luận Ngữ, và ngài được vua Khang Hi (1654-1722) phong bốn chữ “Vạn Thế Sư Biểu” cũng là đúng thôi.

Ngày nay trong các trường đại học trên thế giới nhất là Hoa Kỳ đều có dạy môn chính trị học, và chính trị được coi là một môn khoa học (Political Science). Alexis Tocqueville (1805-1859) một văn sĩ và chính khách người Pháp, một trong những nhà kinh điển hàng đầu của khoa chính trị học và từng được coi là “Montesquieu của thế kỷ XIX”, trong cuốn sách danh tiếng (De la Démocratie en Amérique) đã có nói: “Cần có một khoa học chính trị mới mẻ cho một thế giới hoàn toàn mới.” (Il faut une science politique nouvelle à un monde tout nouveau).

Đối với một quốc gia nhược tiểu như đất nước VN, người Pháp luôn luôn thẳng tay đàn áp các phong trào nổi dậy mà không thực tâm khai hóa để giúp dân tộc chúng ta tiến lên, vì thế không như Ấn Độ là nơi mà người Anh không nặng tay lắm nên Ấn Độ có một tầng lớp chính trị gia bản xứ đông đảo thuộc tầng lớp trung lưu, Việt Nam trái lại không được như vậy. Nhận định sau đây của sử gia Nguyễn Thế Anh cho thấy rõ hơn tình trạng khiếm khuyết về lãnh đạo khi dân tộc chúng ta có cơ hội giành được độc lập: “Chính sách của chính phủ bảo hộ có một hậu quả không mấy tốt đẹp là nó khiến những phần tử ôn hòa từ bỏ hoạt động chính trị vì không muốn bị khó khăn với chính quyền; trái lại, những người không bị ràng buộc bởi những liên hệ hay quyền lợi xã hội lại hướng tới các phương pháp bạo động của sự đấu tranh bí mật nhiều hơn trước. Tình trạng này làm cho nước Việt Nam có nhiều cán bộ cách mạng hơn là chính trị gia, nghĩa là thiếu những nhân vật có khả năng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề hành chánh quốc gia, một khi giành được độc lập.” (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, Tủ sách Sử-Địa học, Lửa Thiêng xb., 1970, trang 432).

TT Ngô Đình Diệm vốn xuất thân từ một gia đình có thân nhân làm quan triều Nguyễn, được huấn luyện kỹ càng trong lãnh vực quản trị hành chánh, tư cách đạo đức của người cầm quyền và đời sống gương mẫu của một tín đồ Công Giáo. Trong cuốn The Two Vietnams, sử gia Pháp Bernard B. Fall (Frederick A. Praeger, USA, 1967, trang 240) viết: “Ông Hồ vốn biết ông Diệm có thiên tài về hành chính và quản trị, và cũng thấy rõ sự kém khủng khiếp của đàn em mình trong lãnh vực khó khăn đó, nên đã cho mời vị quan này đứng về phe mình và đề nghị trao ông chính cái công việc mà ông đã làm dưới quyền Bảo Đại: Bộ Nội Vụ.”

Có ba người đã để lại dấu ấn trong chính sách và đường lối của TT Ngô Đình Diệm đó là cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài và cụ Phan Bội Châu.

Một sử gia nổi tiếng của Hoa Kỳ, Mark Moyar, trong tác phẩm Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, đã viết về dòng tộc của Cố TT Ngô Đình Diệm như sau : “The son of the famous mandarin Ngo Dinh Kha, Diem could trace his roots all the way back through Ngô Quyen, the first king of Vietnam.” (Cambridge University Press, 2006, trang 10). Dịch: “Là con trai của vị đại thần danh tiếng Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm có thể vạch lại toàn bộ nguồn gốc của mình lên tới Ngô Quyền, vị vua tiên khởi của Việt Nam.”

Theo Lữ Giang, một tài liệu nói dòng họ Ngô Đình Diệm trước sinh sống ở Sơn Tây, một tỉnh ở phía tây bắc Hà Nội, cách Hà Nội khoảng 42 cây số. Dòng họ này đã di cư vào Quảng Bình khoảng thế kỷ 15 dưới thời Lê Tháng Tông, lúc đầu cư ngụ ở thôn Xuân Dục, xã Xuân Ninh, phủ Quảng Ninh, bên bờ sông Long Đại… Nhưng ông Ngô Vui, Chủ tịch Hội đồng Ngô tộc Việt Nam, cho biết hiện nay đã liên kết được 208 chi họ nhà Ngô có gia phả ở 29 tỉnh thành trong cả nước và được biết gia tộc giòng họ Ngô Đình Diệm phát xuất từ ông Ngô Trừng, Tham Đốc Nghị Quốc Công, hậu duệ là họ Ngô Lạc Nghiệp ở Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định. Họ Lạc Nghiệp phân chi đi nhiều nơi, trong đó có họ Ngô Vạn Xuân đi vào xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Gia tộc của TT VNCH Ngô Đình Diệm phát xuất từ nhánh đó. Trong họ Ngô Vạn Xuân cũng có một nhánh đổi sang họ Vũ. (Lữ Giang, Đài RFA của Mỹ trúng kế Việt Cộng? Hãy nhìn lại số phận mình, Bài trên mạng, ngày 10-11-2015. Một vài người được cho là có nghiên cứu sử học đưa ra luận điệu sai lạc về dòng tộc Ngô Đình với mục đích “bần cùng hóa” và “cô độc hóa” gia thế cụ Diệm dần dần đã không che dấu nổi sự thật về việc làm và chủ đích của họ.

Trong cuốn La République du Việt-Nam et les Ngô-Đình, các tác giả Ngô-Đình Quỳnh, Ngô-Đình Lệ-Quyên (mất năm 2012), Jacqueline Willemetz đã ghi về cụ Ngô Đình Khả như sau: “ Homme de belle intelligence, de vaste culture et de grande probité, Ngô Đình Khả fonde une école privée avant d’entrer à la cour de Huế comme précepteur. Puis il devient ministre des cultes et enfin conseiller de l’empereur Thanh Thai à qui il restera toujours fidèle. En Asie, le rôle du maitre est tellement respecté qu’il précède même celui du père dans l‘échelle hiérarchique.” (Nhà xb. L’Harmattan, 2013, trang 13). Dịch: “Là một người rất thông minh, kiến thức văn hóa rộng, và rất mực thanh liêm, cụ Ngô Đình Khả đã xây dựng một tư thục làm quản giáo trước khi vào trong triều Huế. Cụ đảm nhận chức Thượng thư bộ Lễ và sau cùng thành cố vấn của vua Thành Thái người mà cụ trung thành cho đến suốt đời. Ở Á châu, vai trò của bậc thầy được coi trọng và kể theo thứ bậc thì còn đứng trước cả bậc cha mẹ.”

Ngôi trường nói ở đây thật sự không phải là trường tư mà là một trường công do nghị định của vua Thành Thái ban hành đó là Trường Quốc Học ở Huế rất nổi tiếng, nơi đào tạo biết bao nhân tài của đất nước. (Nguyễn Đức Cung, Diên-Lộc Quận Công NGUYỄN THÂN, Nhà xb. Nhật-Lệ, 2002, trang 380-387).

Trong cuốn sách Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam, Edward Miller có viết về cụ Ngô Đình Khả như sau: “ Suốt thời thơ ấu của Diệm, cha ông là người có ảnh hưởng nhất trong gia đình họ Ngô ở Huế. Ngô Đình Khả là hiện thân của tất cả những trào lưu tôn giáo, văn hóa và chính trị định hình nên cuộc sống thời trẻ của Diệm. Ngoài việc là một tín đồ Công Giáo sùng đạo, ông Khả còn có một sự nghiệp thành công trong bộ máy chính quyền bảo hộ và sau lại trở thành quan đại thần trong triều nhà Nguyễn. Là người thông thạo cả chữ Latinh lẫn chữ Hán cổ, ông Khả quyết tâm bảo đảm cho các con trai mình được học cả kinh Công Giáo lẫn các tác phẩm kinh điển của Nho giáo. Nhưng ông Khả không phải là một “vị quan Công Giáo” nệ cổ cứng nhắc.” (Bản dịch Việt ngữ, nhóm Minh Thu-Trọng Minh-Kim Thoa, Nhà xb Chính Trị Quốc Gia - Sự Thật, Hà Nội, 2016, trang 34).

Cũng trong tác phẩm đó, Edward Miller viết tiếp: “Ngô Đình Khả là một người cha khắt khe và tác động của ông đối với thời trẻ của Diệm rất sâu sắc. Hồi còn bé, Diệm mắc chứng dị ứng với món cá. Thật không may, cái lệ Công Giáo ăn cá vào những ngày thứ Sáu được gia đình họ Ngô tuân thủ nghiêm ngặt, và ông Khả bắt Diệm ăn bằng hết những gì được bưng ra, dù rằng sau đó Diệm thường nôn mửa. Ngoài việc thực thi gắt gao chế độ ăn của gia đình, ông Khả còn kỳ vọng rất nhiều vào việc học hành của con trai mình. Trước yêu cầu cương quyết của ông Khả, Diệm buộc phải đăng ký vào học tại Trường dòng Bình Linh (cũng gọi Trường dòng Pellerin), một trường tiểu học Công Giáo ở Huế. Giống như Trường Quốc học, trường Bình Linh có chương trình học Pháp-Việt kết hợp và được giảng dạy bằng cả tiếng Pháp, tiếng Latinh lẫn tiếng Hán cổ. Diệm nhanh chóng thông thạo ba thứ tiếng này và sau này có người còn cho rằng ông học chăm chỉ đến mức gần như bị ám ảnh. Sự nỗ lực của ông xuất phát một phần từ tư tưởng ganh đua dữ dội của người một nhà với hai anh ruột của ông là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục. Khôi lớn hơn Diệm 10 tuổi, quyết tâm theo nghiệp ông Khả, theo học quản lý hành chính để sau này tham gia vào bộ máy công chức, quan lại. Thục hơn Diệm bốn tuổi, lựa chọn con đường sự nghiệp mà ông Khả đã từ bỏ và trở thành một học sinh trường đạo.” (Edward Miller, Sách đã dẫn, trang 36).

Năm 1907, cụ Ngô Đình Khả quyết liệt phản đối việc người Pháp truất quyền và đày vua Thành Thái vì cho rằng nhà vua mắc chứng tâm thần. Sử gia Edward Miller viết: “Thất vọng vì những kế hoạch cải cách của mình bị phá hỏng, ông Khả từ quan và xin rút khỏi triều đình. Khi tin tức về những hành động của ông Khả lan rộng, các nhân vật chống thực dân trên toàn Đông Dương ngợi khen ông là nhà yêu nước. Trong số những người từng bày tỏ sự khâm phục dành cho ông Khả có người thanh niên mà sau này được thế giới biết đến với tên Hồ Chí Minh. Nhiều thập niên về sau sự phản kháng của vị quan già này vẫn được nhớ tới và tán dương trong một câu truyền miệng dân gian như sau: “Đày vua không Khả/ Đào mả không Bài.” (Edward Millers, Sách đã dẫn, trang 36).

Một người như Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi được Cụ Nguyễn Hữu Bài tiến cử với vua Bảo Đại để ra làm Thượng thư Bộ Lại và chủ tịch Hội Đồng Cải Cách năm 1933, vốn đã học hỏi rất nhiều và có lắm kinh nghiệm về vấn đề chính trị và quản trị hành chánh. Điều này dĩ nhiên ông phải học từ những vị được giao tiếp thường ngày như cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài, rồi cụ Phan Bội Châu, và các vị giám mục, linh mục trong hàng ngũ chức sắc Công Giáo ngoại quốc cũng như Việt Nam, các vị bề trên dòng tu, các tu sĩ và giáo dân v.v… Ngoài việc học được những kinh nghiệm xử thế, kiến thức, chữ nghĩa, có lẽ ông cũng học được nơi các bậc tiền bối và nhiều người các đức tính khác của một nhà lãnh đạo một đất nước. Việc giới thiệu này chắc chắn đã được cân nhắc rất kỹ càng giữa người tiến cử và người được tiến cử. Hơn nữa, TT Ngô Đình Diệm đã chứng tỏ khả năng và tinh thần làm việc của mình từ thời gian làm công tác phiên dịch một số tài liệu Pháp Văn, Hán Văn (thời gian là học viên Trường Hậu Bổ ở Huế) cho Tòa báo Bulletin Des Amis Du Vieux Hué (Đô Thành Hiếu Cổ), mà đối với giới nghiên cứu sử học đó là những tư liệu rất quý. rồi đảm nhận chức vụ tri huyện Hải-Lăng (Quảng Trị), Quản đạo Ninh Thuận rồi Tuần phủ Bình-Thuận…

Theo gia phả của cụ Nguyễn Hữu Bài, thủy tổ của cụ là Nguyễn Trãi (1380-1442) tức Nhị Khê Hầu, đệ nhất công thần đời Hậu Lê. (Nguyễn Thúc, Thơ Nôm Phước Môn, Bảng Thế-hệ Họ NGUYỄN-HỮU, bản in lần thứ nhất, 1959, trang 26-30). Trong dòng tộc của cụ Nguyễn Hữu Bài, người ta đọc thấy các danh nhân như Nguyễn Triều Văn tước Triều-Văn Hầu thời Lê. Ông Nguyễn Triều Văn sinh ra tướng Nguyễn Hữu Dật giúp triều Nguyễn có công đánh Trịnh lấy được Nghệ An, Quảng Bình. Con ông Dật là Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Cảnh có công đánh Chiêm Thành, Chân Lạp. Nguyễn Hữu Cảnh xây dựng sự nghiệp lớn của mình trong cuộc Nam Tiến. Ông Nguyễn Hữu Cảnh (Lễ Thành Hầu) sinh ra Nguyễn Hữu Tứ (tính từ Nguyễn Trãi xuống ông nầy là 12 đời). Ông Tứ sinh ông Hiệp. Ông Hiệp sinh ra ba ông Nguyễn Hữu Hoãn, Nguyễn Hữu Ba, Nguyễn Hữu Quỳnh. Ông Nguyễn Hữu Quỳnh theo Công Giáo được chức Vệ-Úy dưới thời Gia Long, có nhiều công trạng nhưng vì trung thành với Đức tin Công Giáo, ông chịu bỏ đạo nên ông bị vua Minh Mạng xử giảo (thắt cổ) ngày 10-7-1840, được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm Hiển Thánh ngày 19-6-1988. Ông Hoãn sinh ra ông Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Hữu Huệ. Ông Trí sinh ra ông Nguyễn Hữu Tín đi tu làm linh mục.

Ông Nguyễn Hữu Ba sinh ra ông Đài. Ông Nguyễn Hữu Đài sinh ra ông Các. Ông Nguyễn Hữu Các sinh ra ông Nguyễn Hữu Bài. Theo cụ Nguyễn Hữu Bài cho biết dòng tộc chuyên nghề làm thuốc.

Ông Nguyễn Hữu Bài sinh ngày rằm tháng 8 năm quý hợi tức 28-9-1863 tại làng Cao-xá, tổng Xuân-hòa, phủ Vĩnh-linh, tỉnh Quảng-Trị, gia đình theo Công Giáo, cháu của Linh mục Nguyễn Hữu Thơ. Được bà mẹ hết lòng dạy dỗ và khi ông Bài lên 10 tuổi mẹ ông cho đi tu tại Tiểu chủng viện An Ninh. Trong thời gian 10 năm tu học ở đây, ông học rất thông minh, luôn luôn đứng đầu lớp và theo Nguyễn Thúc, biên giả cuốn Thơ Nôm Phước Môn chính Giám Mục Caspar “khen ông là một thanh niên anh tuấn, tương lai thành tài đạt đức, sẽ nên đại dụng.” Sau hòa ước Patenôtre, triều đình Huế cần sử dụng một số người biết tiếng Pháp để giúp việc tại Nha Thương bạc Huế, ông cùng nhiều tu sĩ khác (như các linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Cư) quyết tâm ra đảm đương việc nước. Lúc đầu ông làm thừa phái ở Thương Bạc Ty, rồi qua Ký lục và Thông sự tại Tòa Khâm Sứ. Năm 1886, Triều đình cử ông đi với phái bộ quan binh Pháp để phân định biên giới Bắc kỳ, tiếp giáp nước Tàu. Năm 1887, Nguyễn Hữu Bài đi quân thứ đánh dẹp thổ phỉ quấy nhiễu miền thượng du Bắc kỳ. Năm 1897 ông làm Ngự Tiền Thông Sự, hộ giá vua Thành Thái đi Sài gòn. Năm 1898 ông làm Bố chánh Thanh Hóa và chính tại đây ông gặp ông Ngô Đình Khả và được ông Ngô Đình Khả vận động cho về làm việc tại Huế chức Thị lang bộ Lại rồi Tham tri bộ Hình. Năm 1902 ông ở trong phái bộ của ông Nguyễn Thân sang chính thức viếng thăm nước Pháp. Ông Nguyễn Hữu Bài là người có cùng một lập trường với ông Ngô Đình Khả trong việc chống lại người Pháp phế bỏ vua Thành Thái. Ngày 17-01-1913, Khâm sứ Georges Mahé cho đào lăng vua Tự Đức để tìm vàng nhưng bị ông Nguyễn Hữu Bài phản đối quyết liệt nên người Pháp bỏ chiến dịch này. Dân gian có câu : “Đày vua không Khả, Đào mả không Bài” là đề khen cụ Ngô Đình Khả và cụ Nguyễn Hữu Bài”. Các đức tính liêm khiết, chính trực, “uy vũ bất năng khuất” của các bậc tiền bối chắc chắn có ảnh hưởng trên chính sách của TT Ngô Đình Diệm về sau.

Đối với một người ảnh hưởng phần nào trên chính sách của TT Ngô Đình Diệm có lẽ là cụ Phan Bội Châu, khi Bernard Fall cho biết sau vụ từ chức năm 1907, cụ Ngô Đình Khả đã bắt đầu vận động giúp đỡ cho Phan Bội Châu lúc bấy giờ hoạt động dưới ảnh hưởng của Tôn Dật Tiên qua các đồng chí của ông ở Hà Nội. (Fall, The Two Vietnams, trang 235 và chú thích trang 479). Năm 1925, người Pháp đưa cụ Phan Bội Châu về giam lỏng ở Bến Ngự, Huế và trong thời gian từ 1925-40, cụ Ngô Đình Diệm đã có nhiều dịp tiếp xúc với cụ Phan Bội Châu.

Edward Miller ghi nhận rằng: “Diệm thần tượng Phan Bội Châu về những gì ông đã làm được với tư cách là một nhà cách mạng, vậy nên không có gì ngạc nhiên khi hai người trở nên thân thiết kể từ khi Diệm từ chức vào năm 1933 đến khi Phan Bội Châu qua đời vào năm 1940. Diệm cũng rất kính trọng Phan Bội Châu về kiến thức Nho giáo, nhất la 2những bình luận thong thái của Phan Bội Châu về những bản văn Nho giáo kinh điển vào những năm tranh tối tranh sáng đó.” Ở một đoạn khác, sử gia này còn cho biết Phan Bội Châu “quả quyết rằng, Nho giáo, khi được gạn lọc về nội dung cốt lõi, có thể trở nên rất linh hoạt và có thể trả lời cho rất nhiều câu hỏi và vấn đề hiện thời.” Đối với tư tưởng này của “ông già Bến Ngự”, “Diệm hoàn toàn tán thành quan điểm của Phan Bội Châu về Nho giáo như một dạng triết lý xã hội linh hoạt, có thể áp dụng vào các vấn đề đương đại của Việt Nam. Sau năm 1954, người ta sẽ nhận thấy sự rập khuôn theo quan điểm của Phan Bội Châu trong quan điểm về chế độ dân chủ và các nỗ lực của Diệm nhằm đưa ngôn ngữ và những khái niệm Nho giáo vào các chương trình xây dựng quốc gia của mình.” (Edward Miller, Sđd, trang 42).

Một số tác giả Hoa Kỳ coi TT Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa Khổng tử cuối cùng (The Last Confucean) nhưng họ không hiểu con người Ngô Đình Diệm, nhất là những nhà báo trẻ trẻ tuổi ít kiến thức về Á châu học như David Halberstam, Neil Sheenan chẳng hạn.

4.- Tổng Thống Ngô Đình Diệm và vấn đề chủ quyền đất nước.

Trong cuốn Chính Đề Việt Nam, tác giả Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) cho biết :“Thi hành đúng theo chủ nghĩa Đế quốc của họ chủ trương, người Pháp không bao giờ muốn, và cũng không bao giờ thực hiện việc đào tạo những người bản xứ có đủ khả năng để làm những công việc mà người Pháp đang làm và để, trong tương lai thay thế họ. Thoảng như có những người bản xứ, nhờ những nỗ lực riêng, mà thâu thập được một sự đào tạo lý thuyết ngang hàng với những nhân viên cao cấp của họ, thì không bao giờ người Pháp lại giúp cho những người ấy những hoàn cảnh thuận lợi để họ có thể thâu thập những kinh nghiệm lãnh đạo cần thiết.”(Tùng Phong, Nhà xb. Hùng Vương, trang 26, dựa theo bản in của Nhà xb Đồng-Nai).

Cụ Ngô Đình Diệm chính là điển hình của một người Việt Nam mà đoạn văn trên vừa mô tả. Là người đã thừa hưởng một nền giáo dục nghiêm túc trong gia đình, đã trải nghiệm nhiều năm trong vấn đề quản trị hành chánh, tiếp xúc nhiều với đủ hạng người trong xã hội, thu tập được nhiều kinh nghiệm với giới trí thức ngoại quốc cũng như quốc nội, đã được huấn luyện để có đủ khả năng điều hành một quốc gia và điều này trái ngược với chủ trương cố hữu của người Pháp như đã thấy ở trên, Cụ đã tự rèn luyện, tự học hỏi để trở thành một bậc xuất chúng, đã khiến cho nhiều sử gia ngoại quốc, nhiều chính khách phải đi từ ngạc nhiên đến thán phục.

Qua cuốn sách chính luận nói trên, tác giả Tùng Phong đã viết rằng: “Những nhà lãnh đạo xứng danh bao giờ cũng hành động theo một triết lý chính trị mà họ đã nghiền ngẫm lâu ngày, trước khi mang ra thực hành.” Vấn đề chủ quyền đất nước đối với TT Ngô Đình Diệm là một chủ đề đã được suy tư, biện giải, nghiền ngẫm để trở nên một lý tưởng, và bao lâu chưa làm hết sức mình để đạt cho được lý tưởng đó Cụ vẫn còn nhất quyết đấu tranh từ khởi thủy cho đến chung cuộc. Ý thức rằng chủ quyền nằm tản mạn trong dân chúng cho nên để có sức mạnh huy động được dân chúng, người lãnh đạo phải làm việc vì dân, sống chết vì dân, đi sát vào cuộc sống của người dân nhất là ở nông thôn.

Thời cụ trấn nhậm vùng Phan Rang là một thời bất an, vì bấy giờ Cộng sản bắt đầu bạo hành trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng càng gặp khó khăn, cụ Diệm càng tỏ ra tài cán. Thay vì đục nước béo cò, nước càng đục phèn càng quý. Đang khi phòng Nhì Pháp bắt bớ dân chúng vì tình nghi Cộng sản, cụ lại càng ra tay bênh vực dân lành. Một tác giả không mấy tử tế với họ Ngô (Denis Warner, The Last Confucean, New York, MacMillan, 1963, tr. 70) đã phải nói tóm tắt về Cụ trong thời đó như sau: “Đối với Pháp, Ông là một công chức gương mẫu, đối với người Việt, Ông là một nhà cầm quyền trẻ tuổi mà tài cán, hết mực cần cù, làm tròn phận sự mà bàn tay không bị vấy bẩn.” (Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 14).

Trong cương vị là quản đạo hay tuần phủ ở một tỉnh nhỏ hay tỉnh lớn, cụ được cấp phương tiện xe kéo, lính hầu nhưng cụ dùng ngựa, vừa nhanh và có thể đi sâu vào các vùng xa xôi, hẻo lánh, thấy rõ được dân tình.

Đồng liêu với cụ Ngô Đình Diệm vào giai đoạn này có cụ Tôn Thất Hoàn làm tri huyện Nghi Lộc, Nghệ An, đã bị Cộng Sản huy động dân quê trong Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh giết vào ngày 2-01-1931 khi cụ Hoàn tới hiểu dụ đám đông giải tán mặc dù có đem theo hộ vệ. Cuộc đời liêm chính của cụ Tôn Thất Hoàn và sự hiến thân vì lý tưởng đất nước của cụ cũng không khác gì tinh thần làm việc của cụ Ngô Đình Diệm; bởi vậy mà sau cái chết của cụ Hoàn, Thượng Thư Bộ Binh Phạm Liệu, người Quảng Nam, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1898) có đôi câu đối khắc treo ở miếu thờ cụ Tôn Thất Hoàn tại Nghi Lộc, Nghệ An đã được nhân dân lưu truyền như sau:

爲 國 亡 軀 勇 敢 一 身 行 獨 馬

出 家 化 佛 英 雄 千 古 塟 雙 魚

Phiên âm:

Vị quốc vong khu, dũng cảm nhất thân hành độc mã,

Xuất gia hóa Phật, anh hùng thiên cổ táng Song ngư.

Dịch nghĩa:

Vì nước quên thân, dũng cảm một mình lên đường với một ngựa.

Xuất gia hóa Phật, anh hùng muôn thuở vùi thây tại Song ngư (Cửa Lò).

Tinh thần làm việc vì quốc gia, vì dân tộc của các bậc tiền nhân dưới triều nhà Nguyễn thật đáng khâm phục, không như ‘cán bộ’ đảng Cộng sản Việt nam ngày nay chỉ biết tham nhũng mà thôi.

Nhìn vào mối liên hệ giữa Ngô Đình Diệm với cụ Nguyễn Hữu Bài rất mật thiết sau khi cụ Ngô Đình Khả mất (1923) người ta thấy được lý tưởng trong sáng đó. Theo Edward Miller, mặc dầu cụ Nguyễn Hữu Bài bị mất chức trong cuộc cải tổ nội các của Bảo Đại năm 1933, nhưng để xoa dịu vị quan già này, người Pháp đã đưa đệ tử ruột của cụ là Ngô Đình Diệm vào vị trí Thượng thư bộ Lại, nhưng chưa đầy hai tháng sau khi được đề bạt vào nội các, ông Diệm từ chức. “Trong một bức thư gửi vua nhà Nguyễn - một thiếu niên được gọi là Bảo Đại, người sẽ có nhiều mối tiếp xúc khác với Diệm vào những năm sau này - Diệm dẫn ra những lời phàn nàn về sự hà hiếp của Pháp đối với chủ quyền Việt Nam mà ông Bài đã dâng thưa trước đó…” (Edward Miller, Sđd, trang 39). Hành động từ quan, mà là một chức quan lớn đầu triều của cụ Ngô Đình Diệm, khi mới 32 tuổi, không chỉ khiến cho nhiều người trong triều Nguyễn và khắp nước thán phục mà còn làm một nhà cách mạng đã một đời dấn thân vì đất nước, cụ Phan Bội Châu cũng phải kính trọng với những lời như sau: “Ông Ngô Đình Diệm, con người có tâm huyết, biết thương giống nòi, biết nhục vong quốc, nên ông mới dám chống lại cường quyền, lui về ẩn tích, đợi thời tuyết sỉ. Đó mới là đáng bậc CHÍ SĨ, VĨ NHÂN, tất sau này cuộc Phục Hưng chỉ có hạng người ông Diệm mới làm nổi… Ta muốn tặng ông Diệm một bài thơ để tỏ lòng kính trọng bậc thiếu niên hiền triết… Ông Diệm bây giờ mới là ông lớn thật sự.” (Minh Võ, Ngô Đình Diệm: Lời khen tiếng chê, Thông Vũ tái bản lần thứ nhất, California, tháng 10-1998, trang 42). Biết rằng người Pháp còn quyết liệt nắm lấy chủ quyền đất nước và mình sẽ không làm được gì nên cụ Diệm đã từ chức.

Tháng 2 năm 1946, khi bị Hồ Chí Minh bắt và đưa về gặp họ Hồ ở Bắc Bộ phủ, cụ Ngô Đình Diệm lúc đó đang bị bệnh sốt rét nặng, đã từng tỏ khí phách can trường trong một cuộc đối thoại căng thẳng, giữa hai người qua đó cụ Ngô đã từ chối đề nghị cộng tác với Hồ Chí Minh qua chức vụ Bộ trưởng Nội vụ:

-“Không thể được, ông có chính sách cứu nước của ông, và tôi có chính sách cứu nước của tôi. Ông có cam đoan được rằng ông sẽ bỏ thuyết vô sản chuyên chính không? Khắp nơi, cán bộ ông đang thi hành thuyết đó. Họ giết hết các nhà quốc gia chân chính. Họ giết cả anh em tôi.”

Đến đây Hồ Chí Minh cảm thấy phải chữa mình. Ông nói:

-“Vậy mà tôi không hay biết gì cả. Nước đang lâm cảnh loạn ly. Xin ông ở lại với tôi để cùng nhau chống Pháp.” Dường như cả hai người đều hiểu rằng chỉ có vì sợ cụ Diệm mới chấp nhận. Cụ lên tiếng: “Ông biết tôi là ai không? Tôi không phải hạng hèn nhát”. Hồ Chí Minh vội vàng nói đỡ: “Không, ông không hề hèn nhát”. Cụ Diệm tiếp: “Vậy thì để cho tôi đi”. Và Hồ Chí Minh để cụ Diệm ra đi. (Trúc Long Nguyễn Phương, Sơ lược về thân thế & sự nghiệp của Cố TT Ngô Đình Diệm, Trích Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, số 118).

Edward Miller trong bài viết được Hoài Phi và Vy Huyền dịch ra Việt ngữ có tên “Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Đình Diệm, 1945-1954” (Talawas 9.8.2007) đã có viết: “Không có lý do gì để nghi ngờ việc Ngô Đình Diệm tuyên bố ông dùng những lời lẽ sắc bén và chua chát trong cuộc gặp đó, vì ông biết rằng quân Việt Minh bắt và xử tử người anh cả Ngô Đình Khôi của mình mấy tháng trước đó. Mặt khác, khi câu chuyện được Ngô Đình Diệm kể lại về cuộc gặp này vào sau năm 1954 lược bỏ sự thực rằng ông đã sẵn lòng tham gia một chính phủ Việt Minh nếu như Hồ Chí Minh chỉ cần đồng ý với yêu cầu để ông nắm giữ một số mặt trong chính sách.”

Trong chú thích số 13 ở dưới Edward Miller có viết : “Ngô Đình Diệm trước đó đã từng công nhận rằng mình hẳn đã tham gia chính phủ của Hồ Chí Minh để đổi lấy việc được nắm quyền trong chính sách an ninh của Việt Minh; xem Ellen J. Hammer, The Struggle for Indochina, 1940-1955 (Stanford: Stanford University Press, 1966), trang 149-150; và Memorandum of Conversation, Edmund S. Gullion, 8 May 1953, Foreign Relations of the United States [FRUS] 1952-1954, vol. 13 (Washington: Government Printing Office, 1982), trang 553-554.”

Một nhà nghiên cứu sử, Minh Võ cung cấp thêm một chi tiết cần được kiểm chứng là trong biến cố gặp gỡ này “Ông đòi quyền thay đổi, chi phối chính sách của ông Hồ, như một điều kiện để hợp tác.” (Minh Võ, Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc, Hồng Đức xb. 2008, trang 122). Thật sự thì cụ Ngô đã thẳng thừng (carrément) bác bỏ đề nghị hợp tác của Hồ Chí Minh ngay trong vài phút của cuộc gặp gỡ đầu tiên và cũng là cuối cùng.

Đây là trận đánh cân não giữa một bên là chủ quyền dân tộc và một bên là chủ quyền của vô sản quốc tế. Cụ Ngô Đình Diệm thừa biết Hồ Chí Minh là tay sai của Cộng sản Quốc tế không hề có ý thức về chủ quyền mà chỉ làm việc theo lệnh của Liên Xô và Trung Cộng nên cụ đã không sợ chết một khi cần bảo vệ và công khai hóa lý tưởng và con đường đấu tranh của mình.

Lý tưởng bênh vực chủ quyền của đất nước vẫn luôn là điểm quy chiếu trong lịch trình hoạt động của TT Ngô Đình Diệm trong các giai đoạn tranh đấu trước khi nắm được chính quyền. Sử gia Edward Miller trong bài báo trích dẫn bên trên cho biết: “Vào tháng Hai năm 1948, Ngô Đình Diệm và các lãnh đạo khác thuộc phe quốc gia gặp tại Sài Gòn để thảo ra một khung đàm phán với Pháp về vấn đề độc lập của Việt Nam. Sau đó Ngô Đình Diệm quay trở lại Hồng Kông vào tháng Ba để cố gắng thuyết phục Bảo Đại ủng hộ kế hoạch này; ông cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt Nam…”

Ba năm sau, vấn đề chủ quyền đất nước cũng được chính khách Ngô Đình Diệm tỏ rõ một lần nữa. Theo tác giả Minh Võ, qua tờ Écho du Vietnam đăng lời tuyên bố của Ngô Đình Diệm ngày 16-6-1949 “ nhận định một cách chính xác rằng chỉ có dành được độc lập hoàn toàn và giữ đúng cương vị của một quốc gia có chủ quyền mới có thể thi đua với Việt Minh, và đánh thắng Việt Minh.” (Minh Võ, Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc, Hồng Đức xb, 2008, trang 37).

Trong bản tuyên bố đó, cụ Diệm cho biết thêm: “Nên biết rằng cuộc tranh đấu hiện tại không chỉ là một cuộc chiến đấu cho độc lập Tổ quốc về phương diện chính trị, mà còn là một cuộc cách mạng xã hội để khôi phục độc lập cho nông dân và thợ thuyền Việt Nam. Để tất cả mọi người ở Việt Nam có đủ phương tiện sống xứng đáng với phẩm cách con người, con người tự do thực sự, tôi chủ trương những cải cách xã hội hết sức tân tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách con người luôn được tôn trọng và tự do nảy nở.” (Lời tuyên bố của Chí-sĩ Ngô-đình-Diệm ngày 16 tháng 6 năm 1949”, trong CĐCN, 1:221-222, dẫn theo Edward Miller, Sđd, trang 54).

Ngày 16 tháng sáu năm 1954, ở Ba-Lê, khi nhận lập chính phủ, cụ tuyên bố “một nền hòa bình lâu dài và trù phú, đặt trên một nền tảng độc lập của quốc gia và tự do của dân tộc, đưa ra một vấn đề có một tính cách đáng quan ngại. Chỉ có một cuộc chuyển hướng chính trị mới mẻ, mới có thể đưa đến mục đích đó.” (Nguyễn Phương, Ánh sáng dân chủ, 1957, trang 121). Chỉ hơn một tuần sau, ngày 25 tháng sáu, khi đặt chân xuống Sài-gòn, cụ liền tuyên bố cụ về là để “cứu vãn tình thế, thực hiện hòa bình với sự thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, hoàn bị một nền hòa bình trong tự do, trong sự tôn trọng nhân phẩm và gia đình. Vì chỉ nền hòa bình ấy mới phù hợp với nguyện vọng đồng bào là an cư lạc nghiệp trong một xã hội công bình dân chủ.” (Nguyễn Phương, Sđd, trang 122).

Trong bản Hiến pháp của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, công bố ngày 26-10-1956, ở Thiên Thứ Nhất, mục Điều Khoản Căn Bản, Điều 2 có ghi: “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Muốn hiểu rõ xin đọc đoạn văn trích dẫn sau đây của sử gia Nguyễn Phương đã làm sáng tỏ tinh thần “tôn trọng chủ quyền của dân” của TT Ngô Đình Diệm như sau:

“Như mọi người đều biết, Ông Ngô Đình Diệm đã đảm đương nhiệm vụ cứu nước trong những trường hợp độc nhất của lịch sử Việt Nam. Ở Bắc, Cộng-sản đang nắm chặt một nửa giang sơn, và như con hùm dữ, đang há miệng sặc nồng mùi máu đợi thời gian đem cả miền Nam dâng tiến cho. Và bấy giờ miền Nam lại là một con mồi như càng ngày càng hấp dẫn. Thực dân đang cố tiêu hủy những lực lượng quốc gia còn lại. Quân chủ phong kiến trước khi tàn tạ đang bộc lộ tất cả phần thối tha mục nát của mình ra. Thật là một mớ bong bong, nhìn vào đã đủ chóng mặt, không nói gì đến chuyện gỡ ra và xây dựng lại. Nhưng, lo ngại như một người ý thức rõ rệt tất cả sự quan trọng của tình hình, và đồng thời quả cảm như một kẻ đã nắm bí quyết của thành công trong tay, Ông Ngô Đình Diệm đã hiên ngang đương đầu với trở ngại một cách mạnh dạn và sáng suốt. Ngày 16 tháng sáu, 1954, ở Ba Lê, khi nhận lập chính phủ, Ông nói: ‘Giờ phút nầy là giờ phút quyết định. Cố nhiên, tôi quan tâm đến một tình hình quân sự rất nghiêm trọng; nhưng ta có thể và rất cần gỡ lại tình thế ấy, bởi vì nó chỉ là hậu quả dĩ nhiên của một chuỗi dài những sự không hiểu biết và lầm lỗi. Nền hòa bình, một nền hòa bình lâu dài và trù phú, đặt trên một nền tảng độc lập của quốc gia và tự do của dân tộc, đưa ra một vấn đề có một tính cách khác đáng quan ngại. Chỉ có một cuộc chuyển hướng chính trị mới mẻ, mới có thể đi đến mục đích đó.’

Thế rồi, Ông không để dân Việt Nam phải đợi lâu mới cho biết hướng chính trị mới mẻ Ông vừa đề xướng đó. Chỉ hơn một tuần sau, ngày 25 tháng sáu, khi đặt chân xuống Sài gòn, Ông liền tuyên bố Ông về là để “cứu vãn tình thế, thực hiện hòa bình với sự thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, hoàn bị một nền hòa bình trong tự do, trong sự tôn trọng nhân phẩm và gia đình. Vì chỉ nền hòa bình ấy mới phù hợp với nguyện vọng đồng bào là an cư lạc nghiệp trong một xã hội công bình dân chủ.”

Khi lập nội các xong, ngày mồng 7 tháng 7, Ông còn cho quốc dân biết rõ hơn rằng : “Quốc dân mong mỏi công lý và an ninh. Quốc dân có thể tin cậy ở chính phủ tôi để tổ chức một nền hành chánh và tư pháp công minh và liêm chính. Quốc dân khát vọng những tự do và dân chủ. Chính phủ sẽ xây dựng một Quốc gia dân chủ có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với dân chúng.” (Nguyễn Phương, Sđd, trang 122).

Còn có lời nào tha thiết hơn, chí tình hơn những lời nói của một vị nguyên thủ trong một chế độ dân chủ, tự do thấu hiểu khát vọng ngàn đời của người dân?

.” Điều 8 (cũng trong Thiên Thứ Nhất) của Hiến Pháp có ghi: “Nước Việt-Nam Cộng-Hòa chấp thuận những nguyên tắc quốc tế pháp không trái với sự thực hiện chủ quyền Quốc-Gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.”

Đây là một trong những nguyên tắc hành sử bất biến của TT Ngô Đình Diệm kể từ khi dấn thân vào con đường tranh đấu với các thế lực thù nghịch với chính nghĩa quốc gia, thí dụ thực dân Pháp, cộng sản và ngay cả sau này đối với ngoại bang khác như Hoa Kỳ. Cụ Diệm không chỉ thể hiện nỗ lực bảo vệ chủ quyền đất nước qua tư tưởng, suy nghĩ, nhận thức hay quan điểm mà còn bằng các hành động cụ thể của mình. Người Mỹ khi đổ tiền bạc vào giúp cụ Diệm, họ nghĩ rằng họ có quyền đưa ra những quyết định trong chính sách của Miền Nam nhưng với cụ Diệm việc đó không thể được vì chạm vào một nguyên tắc tối kỵ, và vì thế Hoa Kỳ bắt đầu nói xấu cụ bằng dư luận, bằng báo chí sau hết là bằng hành động. Họ sử dụng Phật giáo làm công cụ đánh phá chế độ qua những cuộc tự thiêu được dàn dựng trước để vu cho chế độ của TT Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo. Người Mỹ dùng báo chí làm công cụ đổi trắng thay đen chẳng hạn từ tình hình chống Cộng rất khả quan tháng 10-1963 trở thành trạng huống nguy ngập về một cuộc chiến tranh không thể thắng được nếu còn chế độ của Cụ Diệm. Một vị Bộ Trưởng của Cụ Diệm kể lại chuyện cụ với một nhà báo Mỹ: “Hình như cả thế giới nổi dậy chống chúng tôi. Không phải chỉ báo chí Mỹ, mà ngay đến cả Tiếng Nói Hoa Kỳ là cơ quan chính thức của chính phủ Mỹ cũng không ngớt nhã ra toàn là những lời tố cáo chúng tôi như là những kẻ dở, làm gì cũng là làm bậy hết. Tưởng như đài BBC trong Đệ Nhị Thế Chiến bỗng nhiên nổi dậy tố cáo Mỹ và hô hào lật đổ Roosevelt…” Tất cả chỉ vì vấn đề chủ quyền, nghĩa là cố vấn Mỹ phải ở khắp nơi, quân đội Mỹ phải vào Việt Nam, Cam Ranh phải được nhường, Cao nguyên phải được nhường. Nói cách khác, Việt Nam không còn chủ quyền nữa.

Trong cuộc đảo chính long trời lở đất dồn vào Dinh Gia Long ngày 1-11-1963, đã xảy ra cuộc đối thoại sau đây giữa TT Ngô Đình Diệm và Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge. Sau đây là báo cáo của Lodge gửi về Hoa Thịnh Đốn:

Ông Diệm: Vài đơn vị đã nổi loạn và tôi muốn biết thái độ của Hoa Kỳ.

Ông Lodge: Tôi cảm thấy không biết khá đủ để có thể nói cho ông hay. Tôi nghe tiếng súng nổ, nhưng không biết tất cả các dữ kiện. Bây giờ là 4 giờ 40 sáng tại Hoa Thịnh Đốn và chính phủ Mỹ không thể có một nhận định được.

Ông Diệm: Nhưng ông phải có một vài ý niệm tổng quát. Sau hết, tôi là quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm bổn phận của tôi. Bây giờ tôi muốn làm cái gì mà bổn phận và thiện ý đòi hỏi. Tôi tin tưởng vào bổn phận trên hết.

Ông Lodge: Chắc là ông đã làm bổn phận của ông. Như tôi đã nói với ông sáng nay, tôi thán phục lòng can đảm và sự đóng góp lớn lao của ông cho xứ sở. Không ai có thể lấy đi được danh tiếng về những gì ông đã làm. Bây giờ tôi lo âu về sự an ninh của ông. Tôi được báo cáo rằng những kẻ phụ trách vụ bạo động đang tiến hành đồng ý để hai anh em ông ra khỏi nước an toàn nếu ông từ chức. Ông đã nghe điều này chưa?

Ông Diệm: Không (rồi sau khi ngưng một chốc). Ông có số điện thoại của tôi?

Ông Lodge: Vâng. Vậy nếu tôi có thể làm gì được cho sự an toàn của ông, ông cứ điện thoại cho tôi.

Ông Diệm: Tôi đang cố gắng tái lập trật tự.

(The Pentagon Papers, Key Documents, văn kiện số 59, trang 232, dẫn theo bản dịch Việt ngữ của Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu xuất bản, in lần ba 1999, trang 432).

Lúc bấy giờ cũng như trước đây, chủ quyền đất nước là điều tối thượng đối với cụ Ngô Đình Diệm chứ không phải là sinh mạng của chính Cụ và Cụ tìm cách tái lập trật tự tức là tái lập chủ quyền đất nước đang bị ngoại nhân dùng bọn ngoại nô để phá hoại, chiếm đoạt.

Ngày 7 tháng 4 năm 1985, mười năm sau cái chết của Việt Nam Cộng Hòa, đài truyền thanh KFWB/98 thông báo nhiều lần kết qua thăm dò dư luận của hãng Gallup cho biết 63% dân chúng Mỹ đã công nhận rằng việc Mỹ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam là một lầm lẫn. Dưới ngòi bút Trúc Long, sử gia Nguyễn Phương nhận định rằng: “”Mỹ đã lầm lẫn ngay từ nguyên nhân. Khi can thiệp vào Nam Việt Nam, họ đã tuyên bố là giúp Nam Việt Nam để đánh Cộng sản. Nhưng họ đã giúp Nam Việt Nam thật hay không? Tổng thống Nam việt Nam lúc bấy giờ là Cụ Ngô Đình Diệm đã dựa vào những lời tuyên bố như thế để xử sự. Cụ Diệm nghĩ rằng Mỹ giúp, tất nhiên Mỹ phải đóng vai phụ vì phụ là giúp, và Nam Việt Nam đóng vai chính, cả về chính trị, cả về quân sự. Với quan niệm đường đường chính chính như thế, Cụ đã không nhường một tấc đất cho Mỹ để làm căn cứ, cũng không để cho Mỹ nắm một quyền chủ động nào trong vùng đất nhỏ bé mà Cụ có bổn phận nắm giữ chủ quyền. Đang khi Cụ Diệm đinh ninh xử sự như vậy mới là làm xong phận sự thì Mỹ lại không cho rằng phận sự đó là đúng. Thế là Cụ Diệm bị tố là quan liêu lỗi thời, là cục bộ, là lạc hậu…Ở Hoa Thịnh Đốn, một Tổng Thống John được hoan nghinh vì dùng bào đệ Robert làm cố vấn nhưng ở Sài Gòn bào đệ Nhu bị coi như một ác quỷ nhất thiết phải trục xuất ra khỏi chính quyền chỉ vì lý do là làm cố vấn cho đại huynh Diệm. Và điều kiện dứt khoát của Hoa Thịnh Đốn là Cố vấn Nhu phải ra đi, nếu không Mỹ sẽ cắt đứt hết mọi viện trợ vừa kinh tế vừa quân sự cho Nam Việt Nam. Cuối cùng, chỉ vì không thể chịu được cái ức của kỳ thị mà Cụ Diệm đã bị đảo chánh và bị giết. Không may, Cụ Diệm chết thì chủ quyền của Nam Việt Nam cũng hết sống. Kể từ ngày 1-11-1963, cho đến ngày 30-4-1975, Nam Việt Nam chỉ còn là một cái xác không hồn…” (Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, số 224, bài Một lầm lẫn được thú nhận).

Mục đích Hoa Kỳ lật đổ chế độ hợp pháp của TT Ngô Đình Diệm là đổ quân vào Nam Việt Nam, dành toàn bộ công cuộc chống Cộng vào tay quân đội Mỹ, dưới tác động của nhóm siêu quyền lực để tiêu thụ số vũ khí còn lại trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Theo cụ Diệm như vậy là Miền Nam sẽ mất chính nghĩa và Cộng Sản Bắc Việt sẽ khai thác nhược điểm này để tuyên truyền trước mặt quốc tế. Với TT Ngô Đình Diệm, khi cần, VNCH sẽ thông qua quốc hội ký một thỏa ước kêu gọi Hoa Kỳ tham dự vào cuộc chiến ở VN và quân đội Hoa Kỳ sẽ chỉ đóng ở vùng biên giới thuộc vĩ tuyến 17.

Quả thật, sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chủ quyền đất nước đã không còn và Hoa Kỳ đã không hiểu rằng vì vấn đề chủ quyền của đất nước mà Việt Nam đã phải chống Tàu hơn một nghìn năm, chống thực dân Pháp trong một trăm năm, và đang long đong lận đận chống lại bọn Cộng Sản Việt Nam đang làm đầy tớ cho Trung Cộng, để giành lại chủ quyền của người dân.

Sau Tổng Thống Ngô Đình Diệm, những người do Hoa Kỳ đưa lên lãnh đạo VNCH không có đạo đức và khả năng cho nên việc mất nước vào tay Cộng Sản chỉ còn là vấn đề thời gian. Sau đây là nhận xét của Giáo sư Hoàng Ngọc Thành dựa trên sự phân tích của cơ quan tình báo Hoa Kỳ:

“Nhưng phân tích và tìm hiểu đến tận cùng, như cơ quan CIA đã làm về các tướng lãnh và nhân vật tại Nam Việt Nam, các ông Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Ngọc Lễ và một số khác nữa chỉ là về căn bản những người đánh thuê cho thực dân Pháp rồi vì thức thời nên đã theo ủng hộ ông Diệm. Họ đã được đổi đời nhưng tận đáy lòng họ, căn bản vẫn thế. Điều này không có nghĩa là họ không muốn trở thành người tốt, người “yêu nước”đúng nghĩa của danh từ. Nay ông Diệm gặp khó khăn vừa trong nội bộ và nhất là đối với đồng minh khổng lồ Hoa Kỳ, họ cũng lăm le muốn làm “cách mạng”, làm người yêu nước yêu nòi như ai. Nhưng như sự diễn tiến tình hình cho thấy, họ đâu có tầm vóc, đức tính và khả năng để làm đúng theo tham vọng của họ được. Nên họ cũng trở lại làm tay sai. Một số sách và báo chí ngoại quốc có chỉ trích tổng thống Diệm về sự thiếu cương quyết và cứng rắn trong cách đối xử với một số tướng tá. Điều nhận xét này có thể xem là đúng.” (Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, Sách đã dẫn, trang 392).

Có ba nhân vật phải được thêm vào đây để mọi người nhớ đến, kể về quá trình có mặt trong lực lượng quân sự Pháp và chịu sự chỉ đạo của Tòa Đại sứ Mỹ cùng với các nhân vật nói trên đó là Nguyễn Văn Thiệu, Tôn Thất Đính và Đổ Mậu là ba nhân vật chủ chốt trong vụ đảo chính 1-11-1963.

Trong thực tế, TT Ngô Đình Diệm không kỳ vọng gì vào các lớp sĩ quan trong Quân lực VNCH ở chung quanh đã một thời phục vụ cho Pháp, mà Cụ chỉ nhắm và hy vọng nhiều vào thế hệ thanh niên trẻ đang được đào luyện ở Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Trường Võ Khoa Thủ Đức. Rủi cho Cụ và cũng là cho đất nước khi các thế hệ trẻ này chưa có cơ hội cầm nắm giềng mối trong Quân đội, thì đã nổ ra vụ đảo chính 1-11-63, đưa đất nước ngày càng chìm xuống vực thẳm.

Dưới ngòi bút cẩn trọng, nhà biên khảo Minh Võ, khi trích dẫn đoạn văn sau đây của Giáo sư Hoàng Ngọc Thành, cho rằng “ông Thành đã so sánh một cách hết sức tế nhị và kín đáo người yêu nước Ngô Đình Diệm với những người lãnh đạo quốc gia sau ông như sau : ‘Lằn ranh giới giữa người yêu nước thực sự và tên tay sai là người yêu nước tìm đủ mọi cách để bảo vệ chủ quyền của xứ sở, đến tận cùng, dù phải hy sinh tính mạng, phú quý của cá nhân và dòng họ, còn tên tay sai dù có phản đối nhưng rút cục cũng buông xuôi theo thực dân để khỏi tổn thương đến tính mạng, phú quý của cá nhân và gia đình. Dù lỗi lầm gì đi nữa, người yêu nước thực sự NGÔ ĐÌNH DIỆM CÓ THÁI ĐỘ QUYẾT LIỆT TRONG SỰ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.. Thái độ này làm chính quyền Mỹ John F. Kennedy mưu đồ đảo chính và sát hại ông. Và biến miền Nam thành một “xứ bảo hộ” của Hoa Kỳ.’ ” (Minh Võ, Sđd, trang 257).

Trong cuốn sách Ngô Đình Diệm, Lời khen tiếng chê, nhà biên khảo Minh Võ đã cho biết sự liên hệ rất mật thiết bộ ba Rufus Philip - Lê Văn Kim - Bùi Diễm (nhân viên CIA), mà Kim là người phụ trách vấn đề chính trị của cuộc đảo chính 1-11-1963 tất nhiên Bùi Diễm cũng là một trong những người quyết định số mạng của TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu (trang 54). Và đó cũng là những người đã góp công sức biến Nam Việt Nam trở thành “xứ bảo hộ” của Mỹ sau ngày TT Ngô Đình Diệm bị thảm sát cũng là ngày chủ quyền VN lâm vòng cáo chung.

Trong cuốn sách viết bằng Anh ngữ có tên A Parade of American Puppets, A story of South Vietnam from 1954 to 1975, (Cuộc diễn hành của những tên bù nhìn Mỹ, Câu chuyện Miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975), sách dày 399 trang khổ 8/11, in ronéo năm 1978, gồm có một bài tựa, một bài dẫn nhập, mười bốn chương, và lời bạt.Trong phần Dẫn nhập ở trang XVIII, sử gia linh mục Nguyễn Phương có viết : “…But the man who resented most the partition of Vietnam was Ngo Dinh Diem who viewed the fate of his fatherland more important than his own” (…Nhưng người oán hận nhất về sự phân chia đất nước là cụ Ngô Đình Diệm vốn đã coi số phận của tổ quốc còn quan trọng hơn sinh mệnh của mình).

Ở trang 101, sử gia Nguyễn Phương viết tiếp: “Ngo Dinh Diem, on the other hand, was a mandarin proud of his career. He loved his country above anything else and tried his best to make it independent and unified. In his pursuit of national liberation, he was not alone, but his team did not count many. He had with him a handful of friends and especially his brother Ngo Dinh Nhu. He wielded, however, a great political power just because of his immense popularity. Man of integrity and righteousness, of heroic patriotism and thorough dedication, he was de eply loved and widely respected by his fellow countrymen.” (Ngô Đình Diệm, trái lại, là một vị quan tự hào về nghiệp vụ của mình. Ông yêu mến quê hương hơn bất cứ một cái gì khác và nỗ lực hết sức mình để làm cho đất nước được độc lập và thống nhất. Trong khi theo đuổi công cuộc giải phóng quốc gia, ông không cô đơn nhưng nhóm của ông cũng không mấy đông đảo. Ông có một ít bạn hữu và đặc biệt có em của ông, ông Ngô Đình Nhu. Tuy nhiên, ông vẫn tạo ra được quyền hành chính trị lớn bởi lẽ ông có uy tín trong quảng đại quần chúng. Là con người liêm khiết chính trực và với tấm lòng yêu nước nồng nàn, hoàn toàn tận hiến, ông được đồng bào yêu mến và kính trọng). (Nguyễn Phương, A parade of American Puppets, trang 249.)

Viết về người Mỹ tại Việt Nam, linh mục Nguyễn Phương có lúc bộc lộ tinh thần phẫn nộ và niềm uất ức của ngòi bút sử học như sau: “The work of the US in South Vietnam was, in summary, a work of destruction, systematic and thorough. There was the destruction of patriotism and nationalism in the case of Diem’s overthrow and assassination. There was the destruction of Vietnamese sovereignty by the establishment of a regime of American puppets by way of aid and advice. There was the destruction of the Vietnamese society by testing the ‘search and destroy’ strategy which was the cornerstone of the Kennedy’s counterinsurgency tactics, and which, as Barry Weisberg remarked, ‘has given way to the incentive to simply destroy.’ Finally, there was the destruction of all human rights by engineerring a total surrender of South Vietnam to the Communists.’ “I am uniting Vietnam”, had boasted Kissinger since 1972.”(Thành tích của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, tóm lại, là thành tích phá hủy có hệ thống và toàn diện. Đó là sự phá hủy lòng ái quốc và tinh thần quốc gia qua việc lật đổ và ám sát cụ Diệm. Đó là sự phá hủy chủ quyền của Việt Nam bằng cách dựng lên một chế độ gồm toàn những tay bù nhìn Mỹ qua viện trợ và cố vấn. Đó là sự phá hủy xã hội Việt Nam bằng cách thí nhiệm chiến lược “lùng và diệt” vốn là viên đá gốc trong chiến thuật phản nổi dậy của chính quyền Kennedy, và điều đó, như Barry Weisberg lưu ý, đã nhường bước cho sự kích hứng nhằm chỉ để diệt gọn mà thôi. Cuối cùng, đó là sự phá hủy mọi quyền con người bằng cách bố trí một cuộc đầu hàng của toàn bộ Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Từ năm 1972, chính Kissinger từng khoác lác khoe: “Tôi đang thống nhất Việt Nam.” ( Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 350)

Sau đây chúng ta đọc một đoạn tiếp về Cựu Trung Tướng cũng là Cựu TT của VNCH Nguyễn Văn Thiệu, dưới ngòi bút của sử gia Nguyễn Phương để thấy sự tương phản trong tư cách của TT Ngô Đình Diệm, vị sáng lập nền Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam và Tướng N.V. Thiệu (của nền Đệ II Cộng Hòa) : “Thieu was malleable by nature. Extremely ambitious and perfidious, he was no devotee of any ideological or nationalistic cause… He was corrupt, but this did not bother the United States when corruption became a means to widen the American fre edom of action in another country.”(Bản chất Thiệu vốn dễ bảo. Rất đỗi tham vọng và hay lừa đảo, ông ta không phải là người có thể tận hiến bản thân cho một ý thức hệ hay chính nghĩa quốc gia… Ông ta tham nhũng nhưng điều đó không làm bận tâm người Mỹ khi vấn đề tham nhũng đã trở thành một phương thế giúp cho họ được tha hồ tự do hành động ở một quốc gia khác.)

Tướng Thiệu không phải là nhà chính trị vì ông không được học tập, rèn luyện có bài bản trong môi trường chính trị như TT Ngô Đình Diệm và các bào đệ của Cụ. Theo sự tiết lộ của Bác sĩ Hồ Văn Châm với báo chí vào năm 1973 (?) khi ông làm Tổng Trưởng Bộ Chiêu Hồi, là vào năm 1946, ông Nguyễn Văn Thiệu đã tham gia Mặt Trận Việt Minh với chức vụ Huyện Ủy Viên huyện Tri Thủy, Phan Rang. Vì sự tiết lộ này mà ông Châm bị thất sủng một thời gian. Mới đây ông Nguyễn Quang Duy ở Úc Đại Lợi có nhắc lại chuyện “ông Thiệu là huyện ủy” trên một số trang mạng trong đó có Web BBC tiếng Việt nhưng không nói rõ xuất xứ, vả lại câu chuyện cũng không phải mới mẻ gì với những người hiểu biết. Trong thời gian ở tù Cộng Sản tại trại Nam Hà (1976-1988, tỉnh Hà Nam Ninh, Bắc Việt), tôi có đọc một cuốn sách nhan đề Books Changed The World (lâu ngày nên quên tên tác giả) trong đó có một bài viết liên quan đến Đô đốc Hải quân Hoa Kỳ Charles Turner Joy vốn là Trưởng phái đoàn đàm phán của Liên Hiệp Quốc tại Hội Nghị Bàn Môn Điếm (trong chiến tranh Cao Ly). Đô đốc này về sau có viết một cuốn hồi ký ghi lại kinh nghiệm của ông đối với người Cộng sản, có lẽ trong đó có câu được trích dẫn như sau : “Do not believe in Communist words but look at Communist deeds”. Lúc bấy giờ khoảng 1985 khi đọc thấy câu nói này, tôi chợt liên tưởng đến câu khẩu hiệu mà Bộ Thông Tin Dân Vận Chiêu Hồi của ông Hoàng Đức Nhã ngày nào cũng phát trên hệ thống truyền thanh và truyền hình ở Nam Việt Nam: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”. Tôi tự hỏi không lẽ Bộ của ông Hoàng Đức Nhã lại “cầm nhầm” câu nói đó của Đô Đốc C. Turner Joy để biến ra làm câu danh ngôn cho ông Tướng Thiệu? Hồ Chí Minh từng ăn cắp câu nói của Quản Trọng, nhà chính trị có tài nhất thời Xuân Thu (722-479) : Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, thập niên chi kế mạc như thụ mộc, bách niên chi kế mạc như thụ nhân . 一 年 之 計 莫 如 樹 穀 , 十 年 之 計 莫 如 樹 木 , 百 年 之 計 莫 如 樹 人 nghĩa là: Vì kế hoạch một năm thì trồng lúa, vì kế hoạch mười năm thì trồng cây, vì kế hoạch trăm năm thì trồng người. Hồ Chí Minh đã lấy nhiều câu nói của kẻ khác làm của mình, và việc này đã được nhiều học giả phanh phui. Không lẽ người quốc gia cũng bắt chước việc làm của người CS sao?

Tôi viết lại chuyện này trong tinh thần học hỏi và muốn làm sáng tỏ một câu nói lịch sử nên cũng rất mong đón nhận được kiến giải của giới trách nhiệm ngành truyền thông của VNCH trước năm 1975.

Một vị tướng khác, Nguyễn Cao Kỳ cũng nhảy vào chính trường Việt Nam với hai bàn tay trắng đến đổi Tổng Thống Pháp de Gaulle phải hỏi “Qui est Ky?” thì thật là xấu hổ cho nhân dân Miền Nam như thế nào!

Trong cuốn hồi ký chính trị Gọng Kìm Lịch Sử, (trang 222) Bùi Diễm từng cọng tác với Phan Huy Quát và thuộc nhóm “Đại Việt Quan Lại” ở Bắc Việt giai đoạn 1945-1954, bào chữa cho Cựu Thủ tướng Phan Huy Quát cho biết khi Hoa Kỳ đổ bộ quân vào Đà Nẵng ngày 8 tháng 3 năm 1965, Phan Huy Quát có thái độ không bằng lòng nên chỉ được sứ thần Manfull thông báo chứ không hề được Hoa Kỳ bàn thảo trước và như vậy có nghĩa rằng chủ quyền Nam Việt Nam đã chết, sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, như nhận định ở trên của sử gia Nguyễn Phương, hay là vĩnh viễn thống thuộc vào chủ quyền của Hoa Kỳ qua thực tế chứng minh. Với việc đổ quân lên bãi biển Đà Nẵng. Hoa Kỳ đặt chính phủ của Phan huy Quát trước sự đã rồi mặc dù trong hồi ký của Bùi Diễm tác giả này cho biết ông Quát phần nào chưng hửng và bối rối vì sự việc xảy ra quá đột ngột làm cho ông Quát có giọng nói hơi gắt gỏng, thiếu bình tĩnh (trang 223).

Trong cuốn hồi ký Bên Giòng Lịch Sử, hồi ký 1940-1965 của LM Cao Văn Luận (1908-1986) có đoạn kể cuối năm 1947, Cha Luận vào Huế gặp Ngô Đình Cẩn, Trần Điền (khuynh hướng Đại Việt), được Trần Văn Lý đề nghị làm Giám đốc Nha Văn hóa Miền Trung, rồi từ Huế đi ra Đồng Hới (ngụ tại Giáo xứ Tam Tòa) rồi từ đây đi ca-nô ra Quảng Khê lên Ba Đồn và về xứ Đan Sa trông coi giáo xứ này. Lúc bấy giờ một số giáo xứ đã liên lạc với người Pháp xin súng để rào làng chống Việt Minh. Từ tháng tư 1948 nghe nói Bảo Đại về nước. Linh mục Cao Văn Luận từ Quảng Khê vào Đồng Hới và mua vé máy bay vào Huế. Bửu Lộc đánh điện mời Linh mục Cao Văn Luận lên Đà Lạt ý chừng nhờ ngài thuyết phục ông Ngô Đình Diệm lúc đó đang ở Đà Lạt ra thành lập một chính phủ nhưng khi gặp, ông Diệm lắc đầu.

Trong lần gặp đầu tiên, ông Ngô Đình Diệm đã tỏ ra có những nhận định chính trị rất chính xác và sắc bén:

-Vùng Cao nguyên này có một tầm quan trọng lớn về chiến lược và kinh tế. Về chiến lược, nó nằm ở giữa ba quốc gia Việt Miên Lào. Ai chiếm giữ được cao nguyên này có thề gây áp lực được đối với cả ba quốc gia đó. Người Pháp gọi vùng Cao nguyên là Hoàng Triều Cương Thổ chỉ là một lối trá hình trên thực thể, chủ tâm của họ là biến vùng này thành thuộc địa Pháp. Về mặt kinh tế, thì vùng Cao nguyên hết sức quan trọng đối với Việt Nam trong tương lai. Ở đó chắc chắn có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhiều khoáng sản chưa được khám phá và khai thác, nhưng chúng ta cần phải bảo vệ cho Việt Nam. Rồi còn vấn đề thể diện quốc gia, chủ quyền nữa. Không thể bỗng dưng nhường cho Pháp một vùng đất quan trọng như thế, nằm ngay giữa lãnh thổ quốc gia, người Việt Nam nào muốn lên lại phải xin thông hành!

Linh mục Cao Văn Luận tiếp lời:

-Cụ nói đúng. Tôi có đọc một cuốn sách đại ý rằng Pháp muốn ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam về phía Tây, muốn để dân tộc Việt Nam dừng lại ở các miền duyên hải, còn Pháp thì phải giữ vững vùng Cao Nguyên Trường Sơn, vừa để ngăn chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam, vừa canh phòng phía Lào. Như vậy khi lập Hoàng Triều Cương Thổ, đặt trực thuộc Pháp, thì Pháp đã bắt đầu thi hành đúng cái chính sách đó rồi.

Trong cuộc chiến tranh 55 ngày giữa Nam Việt Nam và CS Bắc Việt, Hà Nội đã chiếm được Ban Mê Thuột ngày 10-3-1975 và sau đó không lâu đã làm chủ Cao Nguyên. Nhiều tư liệu cho biết Tướng Thiệu làm mình làm mẩy với Hoa Kỳ khi bỏ Cao nguyên và với chiến thuật “đầu to đít teo” mặc cả với người Mỹ về số tiền viện trợ. Ông Thiệu đã hoàn toàn chối bỏ cương vị là Tổng Thống VNCH, phủ nhận chủ quyền của dân tộc để biến thành tên ngoại nô, hay tay sai của một cường quốc, bày đặt mặc cả này nọ với Hoa Kỳ vốn là “boss” của Thiệu từ khuya. “Khẳng khái tòng vương dị, thung dung tựu nghĩa nan 肯 慨 從 王 易 , 慵 容 就 義 難 “ (Theo vua đi kháng chiến thì dễ, Thong thả bước lên đoạn đầu đài thì thật là khó). Câu nói này trong sách Trung Dung của Khổng Tử vẫn là lời nhắc nhở và cũng là lời thẩm định giá trị của nhiều người trong lãnh vực chính trị.

Nhưng làm sao có thể buộc những người như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Nguyễn Khánh, Đỗ Mậu v. v… và v… v. không biết chính trị là gì, nhưng lại muốn làm chính trị để được ăn trên ngồi trốc – làm sao khiến họ tỏ bày được khí phách can trường, coi thường cái chết như TT Ngô Đình Diệm không chỉ một lần mà nhiều lần, thí dụ cuộc đối đầu với Hồ Chí Minh năm 1946, vụ Hà Minh Trí ám sát cụ Diệm ở hội chợ Ban Mê Thuột 1957, cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi ngày 11-11-1960, cuộc dội bom của Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc năm 1962, và nhất là tinh thần quốc gia coi thường cái chết của mình, bảo vệ cuộc sống của dân lành, quân đội mà nhất quyết không phí phạm xương máu của người lính dưới quyền? Bọn cầm đầu đảo chính theo lệnh Mỹ đã khinh rẻ xương máu của những chiến hữu của họ như Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Đại Tá Lê Quang Tung, Thiếu Tá Lê Quang Triệu, thì họ ngại gì mà không giết TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Ngay cả những người như Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông vốn là những người đã tiêu diệt hầu hết cơ sở hạ tằng của CS đến nỗi Nguyễn Văn Linh đã phải thú nhận rằng từ 50,000 cán bộ CS chỉ còn khoảng 6,000 năm 1963. Công lao như vậy của Ông Ngô Đình Cẩn chỉ để bị Nguyễn Khánh theo lệnh của Thích Trí Quang là phải trả bằng cái chết mà thôi. Tài năng và khí phách như Phan Quang Đông từng làm cho hệ thống tình báo Bắc Việt phải nhiều phen xiểng liểng suốt từ 1954-1963 để rồi bị tử hình ở sân vận động Huế sau cuộc đảo chính bỉ ổi do Hoa Kỳ giật dây ngày 1-11-1963. Là một người chứng kiến được những việc làm vương đạo và cũng đầy bá đạo của Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Trung Đông, do bị ám ảnh bởi cái chết của TT Ngô Đình Diệm, Tổng thống Pakistan Ayub Khan đã nói thẳng với TT Nixon năm 1964 câu nói chí lý sau đây: “that it is dangerous to be a friend of the United States; that it pays to be neutral; and that sometimes it helps to be an enemy.” nghĩa là: “thật là nguy hiểm khi làm bạn với Hoa Kỳ; đứng trung lập thì phải trả giá; và đôi khi làm kẻ thù mà hay hơn”. (Richard Nixon, In the arena, A memoir of victory, defeat and renewal, Simon and Schuster, New York, 1990, trang 71).

Cuối cùng, cái chết của TT Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu chính là cái chết có tính toán như lời ghi nhận của sử gia Nguyễn Phương. Trong cuốn A parade of American puppets, vị giáo sư sử học nhận định rằng: “He refused to ask asylum in a foreign country. He did not want to confide his fate into the hands of another, whosoever he could be. Lodge had tried hard to bring him to safety. The American ambassador had even asked the Apostolic Delegation to intervene for Diem to change his mind. But in vain. Diem kept his own counsel, until death and in spite of death, because by this gesture he meant to keep alive the sovereignty of his nation. That’s why he was assassinated in South Vietnam on November 2, 1963.” (Ông ta từ chối xin một chỗ tị nạn ở một nước ngoài. Ông không muốn giao phó số mệnh của mình vào tay người khác dù bất cứ là ai. Lodge đã cố thử để đem ông tới chỗ an toàn, kể cả việc viên đại sứ Mỹ này đã xin Tòa Khâm Mạng Tòa Thánh can thiệp để ông Diệm thay đổi ý kiến nhưng vô hiệu. Ông Diệm vẫn giữ ý định của mình cho đến chết và bất chấp cái chết, bởi vì với phong thái đó ông muốn giữa cho chủ quyền quốc gia của ông được sống. Đó chính là lý do vì sao ông bị ám sát chết ở Nam Việt Nam vào ngày 2 tháng 11, 1963.”46 (Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 149).

Sau đoạn văn nêu trên, chúng ta có dịp đọc vào chú thích số 46 dẫn lời chú của sử gia Marguerite Higgins tác giả cuốn Our Vietnam Nightmare ( New York, Harper and Row, 1965) về một quan điểm có liên hệ đến vấn đề chủ quyền và cái chết của TT Ngô Đình Diệm: “Marguerite Higgins quoted a Vietnamese philosophy professor as saying about the reason why President Ngo Dinh Diem opted to be killed. “If Diem had sought help of a foreign power, he would have undermined everything he stood for. It would have destroyed the faith of the people in his integrity and character. It would have been craven and cowardly for Diem to seek help from the Americans; more so, because they had betrayed him. He kept faith with his principles concerning Vietnam’s national sovereignty. He surrended to the Vietnamese generals, not foreigners. History will applaud this. It may be that the Americans would have treated Diem more gently than the generals. But as a Vietnamese, it would have been wrong for Diem to put his trust publicly in outsiders. As a Vietnamese, he surrended to Vietnamese. The generals killed him and the onus is on them.” (Marguerite Higgins trích dẫn lời của một giáo sư triết học khi nói về lý do tại sao Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chọn việc sẽ bị giết. “Nếu ông Diệm tìm sự giúp đỡ của một cường quốc bên ngoài thì như thế ông đã đạp đổ hết mọi cái mà ông từng tranh đấu. Điều đó cũng phá hủy niềm tin mà người dân đặt vào sự chính trực và cá tính của ông. Điều đó cũng nói lên sự hèn nhát của ông Diệm khi ông tìm sự giúp đỡ nơi người Mỹ, hơn nữa vì họ đã phản bội ông. Ông giữ vững sự tin tưởng vào những nguyên tắc của ông liên quan đến chủ quyền dân tộc Việt Nam. Ông đã đầu hàng các tướng lãnh Việt Nam chứ không đầu hàng người ngoại quốc. Lịch sử sẽ ca tụng điều đó. Cũng có thể rằng người Mỹ sẽ đối xử với ông nhã nhặn hơn các tướng lãnh. Nhưng là một người Việt Nam, ông Diệm cho rằng sẽ là một sai lầm khi đặt hết niềm tin vào người ngoại quốc một cách công khai. Là người Việt Nam, ông đầu hàng người Việt Nam. Các tướng lãnh đã giết ông và trách nhiệm lớn cho điều sai lầm trầm trọng này sẽ đổ xuống trên đầu họ.” (Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 372).

Đây là lời giải đáp cho thắc mắc của cá nhân kẻ viết bài này vốn canh cánh từ lâu, và có lẽ cũng cho nhiều người khi có những bậc vĩ nhân, như TT Ngô Đình Diệm đã xem cái chết nhẹ tựa lông hồng vì trong con mắt họ lý tưởng ôm ấp mới là điều cao cả nhất, và bài học chủ quyền của đất nước cần phải là bài học suy tư, nghiền ngẫm đối với tất cả mọi người, nhất là những người nắm nhiệm vụ trọng yếu là lãnh đạo đất nước.

LỜI KẾT

Xét cho cùng, bài học chủ quyền không chỉ có tác động trong lãnh vực chính trị mà còn là tác nhân trong phạm trù luân lý nữa thí dụ tương quan giữa vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bằng hữu rộng ra là người trong một nước tức là tương quan giữa nhà với nước, hay gia với quốc. Bài học chủ quyền không chỉ có trên sách vở mà còn biểu lộ qua cách sống; nó không chỉ là một hữu thể nhưng phải thể hiện một tương quan. Có nhiều sắc thái trong tương quan của người này với kẻ khác, thí dụ như Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh của TT Nixon thể hiện mối tương quan hận thù, trù dập giữa y với nhân dân Miền Nam Việt Nam, năm 1975 sau ngày di tản Đà Nẵng, đã thốt lên: “Sao chúng không chết phứt cho rồi” (Why don’t these people die fast ?) (Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh tháo chạy, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2005, trang 20). TT Ngô Đình Diệm đã thể hiện mối tương quan lo lắng, thương yêu giữa Cụ đối với đất nước trong thời khắc cuối đời Cụ, năm 1963, trong đó có hàng chục triệu sinh linh, đồng bào, đồng chí, chiến sĩ quốc gia, hàng chục vạn quân cán chính, những người mà Cụ đặt hạnh phúc của họ trong nồi cơm của chính họ qua câu hỏi thể hiện mối tương quan não lòng của Cụ được Đại Úy Đỗ Thọ, tùy viên của Tổng Thống ghi lại trong nhật ký của mình như sau: Khi rời bỏ Dinh Độc Lập, cũng lối 5 giờ chiều ngày 1-11-1963, “từ Dinh đi ra xe để đến nhà Mã Tuyên, cùng với Cụ Ngô Đình Diệm đi trước, có Cố vấn Nhu và ông Cao Xuân Vỹ. Theo ông Vỹ, Cụ vẫn không tỏ dấu lo lắng gì. Dọc hành lang, Cụ bỗng xé bầu im lặng, tự nhiên thốt ra: “Phận tui sao cũng được, nhưng đất nước này sẽ ra thế nào đây?” (Nguyễn Phương tự Trúc Long, Tưởng niệm một cái chết, Văn Nghệ Tiền Phong số 285).

Những người như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, v.v… khi lên máy bay của Hoa Kỳ ra khỏi VN những ngày trước khi VNCH sụp đổ, đã nghĩ gì về số phận của một đất nước còn lại sau một thời gian dài hưởng thụ đã chán chê ?

Sau cái chết của TT Ngô Đình Diệm, giới sử học Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới đứng vào phía phe chiến thắng tha hồ chê trách, mạt sát, mạ lị, dèm pha chế độ của nền Đệ I Cộng Hòa, đạp xuống tận bùn đen trong khi đó cũng có rất nhiều cây bút có công tâm, cố gắng biện minh cho chế độ của Cụ Diệm trong đó phải kể đến Marguerite Higgins, Ellen Hammer, Suzanne Labin, Tướng Thomas A. Lane, nhất là các tài liệu được giải mật của Ngũ Giác Đài tức The Pentagon Papers… Càng ngày số tác giả truy tầm sự thật về chiến tranh Việt Nam đã đóng góp rất nhiều cho việc phục hồi sự thật và danh dự cho chế độ của Cụ Diệm, gần đây như tác phẩm của Mark Moyar, Geoffrey Shaw thuộc về trường phái phi chính thống để chống lại trường phái chính thống sau năm 1963. Sử gia Mark Moyar, trong tác phẩm Triumph Forsaken (Chiến thắng dang dỡ) 512 trang, đã công bình khi đặt lại giá trị của TT Ngô Đình Diệm và cuốn sách này đã gây chấn động lớn trong giới sử học Hoa Kỳ cũng như thế giới.

Gần đây, tác giả Geoffrey Shaw đã dành tất cả sự kính trọng để nói về cái chết của TT Ngô Đình Diệm như là một cuộc tử đạo (martyrdom) trong cuốn sách có tên The Lost mandate of Heaven, The American Betrayal of Ngo Dinh Diem, President of Vietnam (Ignatius Press, San Francisco, 2015, trang 23-24).

Một số sử gia ngoại quốc khi gọi TT Ngô Đình Diệm là “Nhà Khổng Học cuối cùng” (The Last Confucean) hay là “Vị quan cuối cùng” (The Last of The Mandarians) đã có vài hậu ý… nhưng một học giả Trung Hoa, Tiến Sĩ Phùng Hữu Lan (Fung-Yulan) (1895-1990) là người có quyền uy nhất trong việc trình bày và lý giải triết học Trung quốc chừng 50 năm trở lại đây, tác giả những bộ sách lớn về triết học Trung Quốc như Trung quốc Triết học sử, Triết học sử chính, Trung quốc triết học sử bổ, Tân lý học, Tân nguyên đạo, Tân thế huấn, Tân sự luận v.v… đã đưa ra một mẫu hình tượng về một bậc minh quân thánh chúa, có thể như Cụ Diệm, mà ông gọi tên là “nội thánh ngoại vương” 內 聖 外 王 . Giáo sư Phùng Hữu Lan viết : “Người ta thường bảo rằng nhân cách của thánh nhân là “nội thánh ngoại vương”. Tức là trong đức tính nội thánh, thánh nhân hoàn bị sự tu dưỡng tinh thần của mình, và trong địa vị ngoại vương, thánh nhân cải tạo xã hội. Thánh nhân không nhất thiết phải là một lãnh tụ chính trị. Trong thực tế, ít có cơ hội cho thánh nhân lên cầm quyền. Câu “nội thánh ngoại vương” chỉ có ý nghĩa trên mặt lý thuyết: người đạo đức nhất thì đáng làm vua. Còn trong thực tế người ấy có được làm vua hay không, cái đó không quan hệ.” (His character is described as one of “sageliness within and kingliness without.” That is to say, in his inner sageliness, he accomplishes spiritual cultivation; in his kingliness without, he functions in society. It is not necessary that the sage should be the actual head of the government in his society. From the standpoint of practical politics, for the most part, the sage certainly has no chance of being the head of the state. The saying “sageliness within and kingliness without” means only that he who has the noblest spirit should, theoretically, be king. As to whether he actually has or has not the chance of being king, that is immaterial.” (Fung Yu-lan, A Short History of Chinese Philosophy, A systematic account of Chinese thought from its origins to the present day, Edited by Derk Bodde, The Free Press, 1966, page 8).

TT Ngô Đình Diệm đã từ bỏ quyết định tiên khởi là sống đời tu hành làm linh mục để dấn thân vào việc nước, rất sùng đạo, tham dự thánh lễ hằng ngày, và trong chiếc cặp Đỗ Thọ mang theo cho Cụ chiều ngày 1-11 chỉ có một bộ y phục đàng hoàng nhất của Cụ để dùng vào cái nghi lễ trọng vọng nhất đối với Cụ: Lễ Các Đẳng Linh Hồn (La Fête Des Morts) vào ngày mai qua dự Lễ và chịu Lễ ở nhà thờ Cha Tam. Theo Đại úy Thọ, tâm hồn Cụ dường như tất cả để vào cuộc Lễ đó. Phong cách hành sử của Cụ khi ngồi uống trà ở nhà Mã Tuyên được ghi nhận: “Dáng diệu bệ vệ thường nhật, không thay đổi tí nào” rõ là cung cách của một thánh nhân hay một đấng quân tử nên việc xưng tụng TT Ngô Đình Diệm là một bậc “nội thánh ngoại vương” tưởng cũng rất hợp lý vậy.

NGUYỄN ĐỨC CUNG,

Philadelphia, ngày 19 tháng 5 năm 2017.





 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tài liệu năm 2014 về Linh Hứng của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, Phần Ba, 3. Thách thức thứ hai: các vấn đề đạo đức và xã hội
Vũ Văn An
21:17 28/10/2019
3. Thách thức thứ hai: các vấn đề đạo đức và xã hội

124. Các bản văn Kinh Thánh liên quan đến tác phong rõ ràng vô luân, những tác phong phát biểu các cảm quan thù hận và bạo lực, hoặc cổ vũ các điều kiện xã hội mà ngày nay bị coi là bất công, cũng tạo nên một thách thức cần giải thích. Những bản văn này có thể gây gương mù cho các Kitô hữu hoặc làm họ mất phương hướng; những người này đôi khi bị những người ngoài Kitô giáo buộc tội, trong sách thánh của họ, có chứa các yếu tố dẫn đến một tôn giáo dạy sự vô luân và bạo lực. Trong khuôn khổ câu hỏi khó khăn này, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra một giải thích, trong Cựu Ước, về bạo lực vốn gán cho các luật "tru hiến" (hủy diệt) và các Thánh vịnh đòi trả thù; trong Tân Ước, chúng ta sẽ đề cập tới vấn đề về địa vị xã hội của phụ nữ trong các thư của Thánh Phaolô.

3.1 Bạo lực trong Kinh thánh

125. Sự hiện diện trong Kinh thánh, và đặc biệt trong Cựu Ước, của nhiều trình thuật về bạo lực và sự tàn ác tạo nên một trong những trở ngại lớn đối với việc tiếp nhận nó như một bản văn linh hứng. Và điều này càng như thế hơn nữa vì, thông thường, bạo lực và sự tàn ác được Thiên Chúa truyền lệnh, hoặc hiện diện trong các lời cầu nguyện ngỏ cùng Thiên Chúa, đôi khi chúng được các tác giả thánh trực tiếp qui cho chính Người.

Không nên tối thiểu hóa sự khó chịu của các độc giả đương thời. Thực thế, nó đã xui khiến một số người bác bỏ các bản văn Cựu Ước, bị coi là lỗi thời và không thể nuôi dưỡng đức tin. Chính phẩm trật Công Giáo cũng đã tri nhận các rủi ro mục vụ (enjeux pastorales) của vấn đề, nên đã đưa ra quyết định rằng, trong phụng vụ công cộng, không nên đọc toàn bộ các đoạn văn, và nên bỏ qua một cách có hệ thống những câu thơ tỏ ra gây ngỡ ngàng đối với sự nhạy cảm của Kitô hữu. Người ta có thể diễn dịch một cách sai lầm rằng một phần của Kinh thánh không được hưởng đặc sủng linh hứng, không tự biểu lộ là "có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính" (2 Tm 3:16).

Do đó, dường như không thể không chỉ ra một số trục giải thích cho phép một phương thức chính đáng hơn của truyền thống Kinh Thánh, đặc biệt các bản văn gây ra vấn đề, dù sao, cần phải được giải thích trong bối cảnh toàn diện của Kinh thánh, nghĩa là, dưới ánh sáng của thông điệp tình yêu của tin mừng, kể cả đối với các kẻ thù (xem Mt 5:38-48).

3.1.1 Bạo lực và các phương thuốc pháp lý của nó

126. Ngay từ những trang đầu tiên, Kinh thánh đã cho thấy sự đột nhập của bạo lực vào xã hội loài người (xem St 4:8, 23-24; 6:11,13), mà nguồn gốc nằm trong sự bác bỏ Thiên Chúa dưới hình thức thờ ngẫu tượng (xem Rm 1:18-3e). Kinh thánh tố cáo và lên án tất cả các hình thức lạm dụng, nô lệ, chiến tranh huynh đệ tương tàn, gây hấn con người, hệ thống áp bức, bất luận giữa các quốc gia hay ngay trong chính Israel (xem Am 1: 3-2,16). Bằng cách trình bày cho loài người các hậu quả khủng khiếp của sự đồi trụy tâm hồn (xem St 6:5, Grm 17:1), Lời Chúa có vai trò tiên tri: nó mời gọi chúng ta nhận ra điều ác để tránh và chống lại nó. Để hiểu biết điều thiện cần được chu toàn (Rm 3:20), và tạo điều kiện dễ dàng cho diễn trình hoán cải, Kinh thánh tuyên bố Luật của Thiên Chúa, một luật tạo nên chiếc thắng (frein) ngăn chặn việc lan tràn bất công. Kinh Tôra của Chúa không những chỉ cho ta con đường công chính mà mọi người được kêu gọi tuân theo một cách trung thành, mà nó còn quy định tác phong phải giữ khi giáp mặt với kẻ có tội để cái ác bị diệt trừ (xem Đnl 17:12; 22:21,22,24, v.v.), các nạn nhân được bồi thường, và hòa bình được thiết lập. Một bố trí như vậy không thể bị lên án là bạo lực. Sự trừng phạt được xác nhận là cần thiết, không những để làm nổi bật sự đồi bại và tính nguy hiểm của tội ác, mà ngoài việc đặt để một thưởng phạt chính đáng, nó còn nhằm mục đích tu sửa thủ phạm, và, khi xui khiến người ta sợ đau, nó giúp xã hội và cá nhân tránh được sự ác. Xóa bỏ hoàn toàn hình phạt là tương đương với việc dung túng cho những hành vi sai trái, và trở thành đồng phạm của chúng. Hệ thống hình sự, được quy định bởi điều thường gọi là "luật trả thù" ("mắt đền mắt, răng đền răng": Xh 21:24, Lv 24:20; Đnl 19:21), đại diện cho một cách cổ vũ hợp lý lợi ích chung.

Dù không hoàn hảo do các khía cạnh cưỡng chế, và phương thức của một số biện pháp trừng phạt của nó, một hệ thống như vậy, với các điều chỉnh hợp thời, đã được giả định bởi các hệ thống tư pháp của mọi thời đại và mọi quốc gia, vì nó đặt căn bản đầy lý tưởng, trên tính cân xứng giữa tội phạm và hình phạt, giữa tác hại gây ra và tác hại phải chịu. Trái ngược với một sự trả thù võ đoán, biện pháp phản ứng công bằng đối với một hành động sai trái đã được ấn định ở đó.

Người ta có thể phản bác rằng một số quy tắc trừng phạt được dự liệu bởi các quy luật trong Cựu Ước có thể xem ra tàn nhẫn không thể chịu đựng được (như đánh đòn - xem Đnl 25:1-3 - hoặc chặt tay - Đnl 25:11-12); cũng thế, hình phạt tử hình, dự liệu cho các tội nghiêm trọng nhất, ngày nay đang bị tranh cãi. Người đọc Kinh thánh, khi đối diện với các bản văn này, một mặt, phải nhận ra đặc điểm lịch sử của luật pháp Kinh thánh, ngày nay đã lỗi thời bởi sự hiểu biết tốt hơn về quyền bất khả nhượng của con người, trong khuôn khổ thi hành công lý; mặt khác, các lệnh truyền xưa được ghi lại trong Kinh Thánh cũng có chức năng cảnh báo mức độ nghiêm trọng của một số tội ác, đòi phải có một phản ứng thích hợp để ngăn chặn sự lan tràn của sự ác.

Khi Kinh Thánh gán cho Thiên Chúa và thẩm phán nhân bản một thái độ tức giận khi thi hành công lý trừng phạt, đó không phải là một tác phong không thích hợp: không được để sự ác không bị trừng phạt, và điều quan trọng là các nạn nhân được giải cứu và bồi thường. Trên một bình diện khác, Kinh thánh liên kết viễn tượng một Thiên Chúa kiên nhẫn với viễn tượng một Thiên Chúa bảo đảm công lý (x. Xh 34:6; Ds 14:18: Tv 103:8, v.v.), và trên hết cởi mở đối với sự tha thứ cho người có tội (cf Is 1:18; St 4:11), sự tha thứ thuận tình cho những người bày tỏ sự ăn năn bằng lời nói và hành động của họ (cf St 3:10; Edk 18:23). Kinh thánh đề xuất với con người, vốn có trách nhiệm đối với công lý và hòa hợp xã hội, mô hình thần thiêng, một mô hình liên kết sự nghiêm khắc và kỷ luật cần thiết với viễn ảnh tha thứ, để họ có thể bắt chước mô hình này.

3.1.2 Các luật "tru hiến" (hủy diệt)

127. Ở Đệ nhị luật, trong số nhiều điều khác, chúng ta đọc thấy: Thiên Chúa ra lệnh cho Israel lật đổ các quốc gia Canaan và buộc họ phải bị tru hiến (xem Đnl 7:1-2; 20:16-18). Lệnh này đã được Giosuê thi hành một cách trung thành (xem Ds 6-12) và cũng được thực hiện trong thời kỳ quân chủ đầu tiên (xem 1 S 15). Những bản văn này tự cho thấy có vấn đề, thậm chí còn hơn thế nữa nơi tất cả các cuộc chiến tranh và tàn sát được Cựu Ước thuật lại. Người ta không thể chấp nhận được việc dựa vào chúng để hợp pháp hóa chương trình chính trị duy dân tộc, biện minh cho bạo lực chống lại các dân tộc khác: điều này thực sự làm sai lệch ý nghĩa của các trang kinh thánh.

Để khởi đầu, cần phải lưu ý rằng các bản văn này không được trình bầy như các câu truyện lịch sử: trong một cuộc chiến thực sự, các bức tường của một thành phố không sụp đổ vì tiếng kèn (xem Gs 6:20), và người ta không thấy việc làm thế nào sự phân phối đất đai lại có thể diễn ra một cách thực sự hòa bình bằng cách rút thăm (xem Gs 14:2). Mặt khác, luật pháp của Đệ nhị luật, là luật ra lệnh việc tận diệt người Canaan, làm sao có thể mang được hình thức viết ở một thời kỳ trong đó các giống dân này không còn hiện hữu trên đất Israel. Do đó, cần phải xác định lại một cách cẩn thận thể loại văn học của những câu truyện này. Như những nhà giải thích tốt nhất trong truyền thống giáo phụ đã đề xuất, câu chuyện sử thi về cuộc chinh phục có thể được hiểu như một loại dụ ngôn, miêu tả các nhân vật có giá trị biểu tượng. Mặt khác, luật nói về "tru diệt" đòi một giải thích phi nghĩa đen, giống như cách lệnh của Chúa đòi ta phải tự chặt tay hoặc móc mắt nếu chúng là dịp gây gương mù (xem Mt 5:29; 18:9).

Do đó, chúng ta cần xác định phải định hướng việc đọc các trang khó khăn này ra sao. Khía cạnh gây tranh cãi đầu tiên của truyền thống văn học vừa được đề cập là khía cạnh chinh phục, hiểu như sự hủy diệt các cư dân của nơi ấy, cho phép mình định cư ở đó thay thế họ. Ở đây điều không thuyết phục là nại tới khái niệm "quyền của Thiên Chúa" trong việc phân phối đất đai bằng cách dành ưu tiên cho những kẻ Người chọn (xem Đnl 7:6-11; 32:8-9), vì điều này không công nhận quyền hợp pháp của các dân tộc tự trị này được đòi lại nó. Các bản văn Kinh thánh cho ta các hướng giải thích có tính thuyết phục khác. Nơi đầu tiên là bài tường thuật mô tả cuộc xung đột giữa hai nhóm, có trạng thái kinh tế và quân sự khác nhau: trạng thái của người Canaan, rất mạnh mẽ (xem Đnl 7:1; xem thêm Ds 13:33, Đnl 1:28). Am 2:9, v.v.) và trạng thái của người Israel, yếu ớt và không được chống đỡ. Do đó, để làm gương, câu truyện không kể lại cuộc chiến thắng của kẻ mạnh nhất, nhưng trái lại, là chiến thắng của kẻ nhỏ bé, phù hợp với một "hình tượng" đã được chứng thực suốt bộ Kinh thánh, cho đến tận Tân Ước (Lc 1:52; 1Cr 1:27). Điều này tương ứng với việc đọc lịch sử theo lối tiên tri, một lối đọc diễn giải cuộc chiến thắng của những "người hiền lành", trong một cuộc thánh chiến, như việc thiết lập ra Nước Chúa trên trái đất. Ngoài ra, theo lời chứng Kinh Thánh, Thiên Chúa coi người Canaan phạm những tội rất nghiêm trọng (xem St 15:16; Lv 18:3, 24-30; 20:23; Đnl 9:4-5, v.v.), trong đó, có việc giết con trai của họ trong các nghi thức đồi trụy (cf Đnl 12:31; 18:10-12). Câu truyện do đó trình bày việc thi hành công lý thần thiêng trong lịch sử. Và Giosuê hành xử như "đầy tớ của Chúa" (Gs 24:29; Tl 2:8) theo cách ông đảm nhận việc thi hành công lý này: các chiến thắng của ông liên tục được gán cho Chúa và sức mạnh siêu phàm của Người. Đề tài văn học xuyên suốt về công lý mà các quốc gia phải đương đầu đã có từ những câu truyện Kinh thánh đầu tiên, sau đó, nhờ được chứng thực nơi các tiên tri và trong các trước tác khải huyền, nó sẽ được áp dụng cho nhiều dân tộc khác, bất cứ khi nào Chúa phán xét rằng một quốc gia đáng bị xử phạt– đây là trường hợp Israel.

Về phương diện này, các tín hữu của Chúa cần phải hiểu luật tru hiến và việc áp dụng nó một cách có ý thức. Một luật pháp như vậy dựa trên định nghĩa về dân giao ước như một dân thánh (x. Đnl 7:6), một điều, theo quan điểm cực đoan, có thể có nghĩa sự hiện hữu của một khác biệt triệt để khiến học trở thành tách biệt khỏi các dân tộc khác. Thiên Chúa chắc chắn không đưa ra mệnh lệnh phải tiến hành các lạm dụng được biện minh bởi động cơ tôn giáo, nhưng Người yêu cầu phải vâng phục một nghĩa vụ công lý, tương tự như việc theo đuổi, lên án và giết chết thủ phạm của một tội ác hàng đầu – bất luận đó là một cá nhân hay một cộng đồng. Thương hại một phạm nhân, bằng cách tha cho anh ta, bị coi như một hành động bất tuân và bất công (xem Đnl 13:9-10; 19:13,21: 25:12, 1Sm 15:18-19; 1V 20:42). Trong trường hợp này, hành vi rõ ràng là bạo lực được coi là nhiệt tình để loại bỏ cái ác, và do đó bảo vệ lợi ích chung. Dòng văn học và thần học này được cân bằng bởi những dòng văn học khác - trong đó có trước tác tư tế - loại trước tác, đứng trước các sự kiện y hệt như thế, ngược lại, lại gợi ý một định hướng hòa bình rõ ràng. Vì lý do này, điều thích đáng là hiểu toàn bộ biến cố chinh phục như một loại biểu tượng, tương tự như những gì chúng ta đọc trong một số dụ ngôn tin mừng bàn đến công lý (xem Mt 13:30, 41-43,50; 25:30,41; v.v...). Câu chuyện về chinh phạt này cần được liên kết với các trang khác của Kinh thánh vốn phát biểu lòng cảm thương thần thiêng và sự tha thứ của Người – những điều vốn tạo nên chân trời và cùng đích của tất cả các hành động lịch sử của Chúa Tể cả trái đất, và mẫu mực của hành động công chính của con người.

3.1.3 Lời cầu nguyện xin trả thù

128. Biểu thức bạo lực xem ra đặc biệt lạc điệu khi nó bước vào lời cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta thấy trong các Thánh vịnh, nhiều biểu thức thù ghét và ước muốn trả thù, trái ngược hoàn toàn với các tâm tình yêu thương kẻ thù được Chúa Giêsu giảng dạy cho các môn đệ của Người (xem Mt 6:44; Lc 6:27,35). Mặc dù vẫn tôn trọng quyết định khôn ngoan của phụng vụ trong việc bỏ qua những điều có thể gây gương mù, ta vẫn cần phải cung cấp một số giải thích giúp các tín hữu ngày nay, giống như ngày xưa, sở đắc được toàn bộ di sản cầu nguyện của Israel.

Cách chính giúp giải thích và tiếp nhận những biểu thức khó khăn của các Thánh vịnh hệ ở việc hiểu thể loại văn học. Điều này có nghĩa: các biểu thức chúng ta đọc ở đó không nên được hiểu theo nghĩa đen. Trong một lời cầu nguyện khẩn nài và than thở, được một người bị bách hại kêu van, động cơ "nguyền rủa" xuất hiện thường xuyên: đó là một lời cầu khẩn say sưa ngỏ cùng Thiên Chúa, để Người hiện thực hóa sự cứu rỗi bằng cách tận diệt các kẻ thù. Trong một số Thánh vịnh, chiều kích trả thù này rất được nhấn mạnh hoặc thậm chí trổi vượt (xem Tv 109 chẳng hạn). Nếu các thành ngữ văn học do Thánh Vịnh gia sử dụng được điều chỉnh vừa phải (như kiểu: "Chớ gì những ai tìm hại mạng sống con phải xấu hổ thẹn thùng, kẻ tính kế hại con phải tháo lui nhục nhã!” - Tv 35:4), thì chúng chắc chắn sẽ dễ dàng được hòa nhập vào lời cầu nguyện. Các hình ảnh tàn bạo là các hình ảnh gây ra nhiều vấn đề nhất (Thí dụ: " Vì Ngài vẫn một lòng thương mến, xin tiêu diệt những kẻ thù con” - Tv 143:12 hoặc " Gái Ba-by-lon hỡi, đồ trời tru đất diệt! Phúc thay người xử lại với mi, như mi đã xử với ta! Phúc thay người bắt những con thơ của mi mà đem đập vào đá” - Tv 137:89). Ở đây, có ba khía cạnh xứng đáng được nghiên cứu.

a. Chủ thể cầu nguyện: người đau khổ

129. Thể văn than thở sử dụng các biểu thức cường điệu và tức tối, hoặc trong mô tả đau khổ, luôn có tính cực đoan ("chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài" [Tv 22:17- 18]; "Kẻ vô cớ ghét con nhiều hơn tóc trên đầu, bọn thù con vô lý lại mạnh thế hơn con" [Tv 69:5]), hoặc trong lời xin được phương thuốc, rõ ràng phải nhanh chóng và dứt khoát. Điều này được giải thích bằng sự kiện những lời cầu nguyện này phát biểu quan điểm xúc cảm của một người thấy mình trong tình huống bi đát. Các xúc cảm của họ, do đó, không thể phản ánh sự bình tĩnh, và lời nói của họ giống như một tiếng gầm (xem Tv 22:14). Dù sao, hình ảnh được sử dụng chỉ là các ẩn dụ: "bẻ gẫy răng kẻ ác" (Tv 3:8; 58:7) có nghĩa là làm họ chấm dứt sự dối trá và lòng tham của kẻ mạnh; "bắt những con thơ của mi mà đem đập vào đá” (Tv 137:8-9) có nghĩa là tận diệt để các thế lực tà ác hủy diệt sự sống không xảy ra một lần nữa trong tương lai; và vân vân. Ngoài ra, người cầu nguyện sách Thánh Vịnh sử dụng những lời được một người khác viết ra, trong những hoàn cảnh khác. Do đó, họ phải luôn luôn thực hiện một sự chuyển vị để áp dụng chúng vào cuộc sống bản thân của mình: sự hiện thực hóa này sẽ thành công hơn khi lời cầu nguyện than thở sẽ không những chỉ được hiểu như nói lên tình huống bản thân của người cầu nguyện, mà còn như tiếng nói đau đớn của tất cả các nạn nhân của lịch sử, như tiếng khóc của các vị tử đạo (xem Kh 6:10), những vị vốn cầu xin Thiên Chúa rằng "con thú" hung bạo biến mất mãi mãi.

b. Người cầu nguyện xin gì? : "Giải thoát chúng con khỏi sự ác"

130. Lời cầu nguyện nguyền rủa (imprécation) không thực hiện một hành động ma thuật có hiệu quả trực tiếp đối với kẻ thù. Trái lại, người cầu nguyện phó thác cho Thiên Chúa sứ mệnh thể hiện công lý, một nền công lý mà không ai khác ngoài Người có thể thiết lập trên trái đất. Lời cầu nguyện này ngụ ý từ bỏ sự báo thù cá nhân (xem Rm 12:19; Dt 10:30), và bày tỏ sự tin tưởng vào hành động của Chúa có thể được thích ứng với tính nghiêm trọng của tình thế và hoàn toàn phù hợp với bản chất của chính Thiên Chúa. Những kiểu nói do những người cầu nguyện sử dụng dường như ra lệnh cho Thiên Chúa cách Người phải hành động; nhưng nếu được hiểu chính xác, chúng chỉ bày tỏ mong muốn là cái ác bị tận diệt, và những người bị sỉ nhục đạt được sự sống. Lời cầu nguyện ngỏ cùng Thiên Chúa xin cho điều này xảy ra trong lịch sử, để sự mặc khải của Chúa diễn ra (Tv 35:27; 59:14; 109:27), và do đó tạo cơ hội cho người bạo động hoán cải (x. Tv 9:21; 83:18-19). Trong một số trường hợp, sự bách hại người cầu nguyện được coi như một gây hấn chống lại Thiên Chúa (Tv 2:2; 83:3,13), thường được đi kèm với sự khinh miệt Chúa (x. Tv 10:4,13; 42:4; 73:11).

c. Những ai là kẻ thù của người cầu nguyện?

131. Xác định kẻ thù của người cầu nguyện không phải là một hoạt động giải thích đơn giản cho thấy những nhân vật nào được tác giả thánh đề cập đến, và trong hoàn cảnh lịch sử nào tác giả này làm như vậy. Trên thực tế, tình huống được các Thánh vịnh (ta thán) mô tả rất rập khuôn: ngôn ngữ khá qui ước và thường cố ý có tính ẩn dụ do đó có thể áp dụng vào các hoàn cảnh đa dạng và các đối tượng khác nhau. Do đó, một hành động giải thích "tiên tri" trong Chúa Thánh Thần là điều cần thiết để hiểu các lời lẽ của Thánh Vịnh gia phải được áp dụng ra sao trong cuộc sống cụ thể của người đọc một thánh vịnh ta thán, và biện phân được ai là kẻ thù đe dọa họ trong một lịch sử cụ thể (xem Công vụ 4:23-30).

Việc nhận diện kẻ thù tiến triển khi người ta khám phá ra rằng những người này không những chỉ là những người chăm lo cuộc sống thể xác hay phẩm giá con người, mà hơn nữa còn là những người chăm lo cuộc sống thiêng liêng của người cầu nguyện (x. Mt 10:28). Đâu là các thế lực thù địch mà các tín hữu phải đối đầu? Ai hoặc điều gì bị mô tả là "những con sư tử cấu xé và gầm gừ" (Tv 22:14; xem 1 Pr 5:8), hoặc "miệng lưỡi đầy nọc độc" của rắn (Tv 140:4), sự thù hận khôn nguôi được cảm nhận vì ai (xem Tv 26:5; 139:21-22), và sự hủy diệt của họ được cầu xin cùng Thiên Chúa (Tv 31:18)? "chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân", người ta đọc như thế trong Eph 6:12. Chính khỏi tay "kẻ ác", "đạo binh" (Mc 5:9) mà người cầu nguyện xin được giải thoát, như nhờ một phép trừ quỷ, bởi quyền năng thương xót của Thiên Chúa. Và giống như trong mọi trường hợp trừ qủy, lời nói phải nghiêm khắc vì chúng nói lên sự thù địch tuyệt đối giữa Thiên Chúa và sự ác, giữa con cái Thiên Chúa và thế giới tội lỗi (x. Gcb 4:4).

Kỳ tới: 3.2 Địa vị xã hội của phụ nữ
 
Văn Hóa
Cầu hồn thay Halloween
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
06:27 28/10/2019
Những ngày cuối tháng 10, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, người ta đưa những tin liên quan đến việc chuẩn bị cho lễ hội Halloween. Nào là những biểu tượng, trò chơi, nào là những trang phục quái lạ và nghệ thuật trang điểm khuôn mặt quái dị như những thây ma đang bị thối rữa ….

Halloween là từ rút gọn của “All Hallows Eve” trong tiếng Anh, nghĩa là “đêm trước ngày Lễ các Thánh”. Trước thế kỷ X, dân Celtic ở Tây Âu mừng ngày đầu năm mới vào ngày 1 tháng 11 bằng việc tổ chức lễ hội đình đám và đêm trước đó là những nghi thức tưởng nhớ những người đã khuất.

Nhưng thực ra việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã chết đã có từ thời Cựu Ước (x. 2 Macabê 12,44-46) và vẫn được duy trì trong thời Tân Ước; khi cộng đoàn các tín hữu họp nhau cử hành nghi thức bẻ bánh và cùng nhau nghe lại những câu chuyện sống đạo anh hùng của các thánh tử đạo.

Dần dần, các cộng đoàn mở rộng việc tưởng nhớ đến những tín hữu đã tử vì đạo nhưng không được biết tới, và đến những tín hữu là chứng nhân sống Tin Mừng nhưng không tử đạo.

Vào năm 835, Giáo Hội Công Giáo đã quy định lấy ngày 1 tháng 11 hàng năm là ngày Lễ kính các Thánh nam nữ và ngày hôm sau là Lễ cầu cho các linh hồn để nhắc nhở tất cả các tín hữu, còn sống hay đã chết, có công trạng hay không đều được hợp nhất với nhau trong một Nhiệm Thể Chúa Kitô.

Khi phong trào Cải Cách bắt đầu vào thế kỷ XVI, những người Tin Lành đã bác bỏ tín điều các Thánh thông công và tập tục cầu nguyện cho người chết. Từ đó, ngày vọng Lễ các Thánh (Halloween) đã mất dần ý nghĩa nguyên thủy của nó.

Halloween đã biến thành một lễ hội trần tục và bị thương mại hóa. Lễ hội đã mất đi tính thánh thiêng và những người tham dự lễ hội không còn biết đến những vị thánh tốt lành, những mối tương quan gắn bó giữa người sống và người chết.

Lễ hội Halloween ngày nay đã biến tướng thành những hình thức ăn chơi mang dáng dấp của những trò ma thuật hay những tập tục mê tín dị đoan về người chết. Vài năm trở lại đây, lễ hội này cũng đã du nhập vào Việt Nam và được nhiều người đón nhận, nhất là các bạn trẻ đang tập tành lối sống phương Tây.

Người Việt Nam thường lấy chữ hiếu làm trọng, nhà có người qua đời được gọi là “nhà hiếu”. Chữ hiếu cũng đã được cha ông ta nâng lên thành đạo: Đạo Hiếu. Đạo Công Giáo cũng luôn nhắc các tín hữu hãy nhớ công sơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên. Trong kinh Mười điều răn, điều răn thứ bốn buộc các Kitô hữu phải thảo kính cha mẹ và kinh Thương linh hồn bảy mối cũng khuyên răn ta phải cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết.

Trong các bậc tổ tiên, có những vị đã biết đưa tinh thần Tin Mừng vào cuộc sống đời thường. Các Ngài dám chiến đấu quên thân để chiếm hữu được Chúa và lập nên những công trạng được Giáo hội tôn vinh lên bậc hiển Thánh. Cũng có những vị âm thầm sống hiền hòa, bác ái, vị tha, tín thác vào tình thương của Thiên Chúa mà chỉ có Chúa mới biết và ân thưởng. Cũng có những vị tuy đã sống cuộc đời Kitô hữu nhưng cũng còn có những thiếu sót do yếu đuối và thân phận bất toàn.

Giáo huấn của đạo Công Giáo cho biết có thiên đàng để thưởng người lành, có địa ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết. Các linh hồn chính là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người thân … trước đó đã từng sống kiếp làm người với những tội lỗi như chúng ta. Họ là những người đã ra đi trước chúng ta để trở về nơi mà họ đã được Thiên Chúa tạo dựng từ bụi đất.

Nơi đó họ không còn khả năng lập công chuộc tội và trông chờ vào chúng ta là những người còn sống. Nhưng thường thì người sống thường hay quên kẻ chết vì không còn dịp gặp mặt; có chăng chỉ là những ngày giỗ, tết. Khi thực hiện mầu nhiệm tín điều các Thánh cùng thông công, có lẽ không gì quý hơn là chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn. Khi cầu nguyện cho họ là ta thể hiện lòng biết ơn, tinh thần hiệp thông, liên đới trong đức ái.

Vì thế, đạo Công Giáo dành trọn tháng 11 hằng năm, là tháng cuối cùng trong niên lịch phụng vụ, để cầu nguyện cho các linh hồn đồng thời để nhắc nhở chúng ta nhớ đến những ngày cuối cùng của thế giới và của mọi người chúng ta. Trong tháng này, nhiều hoạt động mang tính hiếu nghĩa được các Kitô hữu thực hiện như: xin lễ, đọc kinh cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa trang, chỉnh trang những ngôi mộ cho mới hơn ...

Hãy bình tâm để đừng sa đà vào một lễ hội còn xa lạ, có lẽ không phù hợp với truyền thống dân tộc và người Kitô hữu chúng ta. Thay vào đó hãy xin lễ, dùng những lời kinh, tiếng hát để cầu nguyện cho các linh hồn được đón nhận trong tình thương của Thiên Chúa. Với tín điều các thánh cùng thông công, chúng ta tin tưởng các linh hồn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta như Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Những kẻ Cha đã ban cho con, con muốn rằng con ở đâu thì họ cũng ở đấy với con”.







 
VietCatholic TV
Thánh lễ bế mạc Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon
Giáo Hội Năm Châu
15:14 28/10/2019
Thánh lễ bế mạc Thượng Hội Đồng Toàn Vùng Amazon đã diễn ra tại Đền Thờ Thánh Phêrô lúc 10g sáng Chúa Nhật 27 tháng Mười. Đồng tế với Đức Thánh Cha Phanxicô có đông đảo các nghị phụ tham gia Thượng Hội Đồng và các vị trong giáo triều Rôma.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:


Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta cầu nguyện qua ba nhân vật: trong câu chuyện ngụ ngôn của Chúa Giêsu, cả người Pharisêu và người thu thuế đều cầu nguyện; trong khi bài đọc thứ nhất nói về lời cầu nguyện của một người nghèo.

1. Lời cầu nguyện của người Pharisêu bắt đầu thế này: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa”.

Đây là một khởi đầu tuyệt vời, bởi vì lời cầu nguyện đẹp nhất là lòng biết ơn, là lời ngợi khen. Tuy nhiên, ngay lập tức chúng ta thấy lý do tại sao anh ta tạ ơn Chúa: “vì con không như những người khác” (Lc 18,11). Anh cũng giải thích lý do: anh ăn chay mỗi tuần hai lần, mặc dù vào thời đó luật chỉ buộc mỗi năm một lần; và anh dâng một phần mười tất cả các hoa lợi mặc dù thuế thập phân chỉ được quy định trên các sản phẩm quan trọng nhất (xem Đnl 14: 22ff). Nói tóm lại, anh ta tự hào vì anh ta thực hiện một số điều răn cụ thể ở mức độ tốt nhất có thể được. Nhưng anh ta quên mất điều răn lớn nhất: yêu mến Thiên Chúa và người lân cận mình (x. Mt 22: 36-40). Ngập tràn lòng tự tin về khả năng tuân giữ các điều răn, những công đức và đức hạnh của mình, anh ta chỉ tập trung vào chính mình. Bi kịch của người đàn ông này là anh ta không có tình yêu. Ngay cả những điều tốt nhất, nếu không có tình yêu, cũng chẳng là gì, như Thánh Phaolô nói (xem 1 Cô 13). Không có tình yêu, kết quả là gì? Cuối cùng anh ta tự khen mình thay vì cầu nguyện. Thực tế, anh ta không xin gì từ Chúa vì anh ta không cảm thấy cần thiết hay thiếu thốn điều chi, trái lại, anh ta cảm thấy rằng Chúa đang nợ anh ta một cái gì đó. Anh ta đứng trong đền thờ của Thiên Chúa, nhưng anh ta tôn thờ một vị thần khác: đó chính anh ta. Và nhiều nhóm “thế giá” các “Kitô hữu Công Giáo”, cũng đi theo con đường này.

Khi cầu nguyện cùng với Chúa, anh ta quên mất người hàng xóm của mình; thật vậy, anh ta coi thường người ấy. Đối với người Pharisêu này, hàng xóm của anh ta chẳng đáng chi, không có giá trị gì. Anh ta tự coi mình là tốt hơn so với những người khác, những người mà anh ta gọi thẳng ra là “những người khác, phần còn lại” (loipoi, Lc 18:11). Nghĩa là, họ là “phần sót lại” , họ là đồ phế thải mà người ta cần phải giữ khoảng cách. Đã bao lần chúng ta thấy điều này xảy ra, và lặp đi lặp lại trong cuộc sống cũng như trong lịch sử! Đã bao nhiêu lần những người nổi bật, như người Pharisêu này trong tương quan với người thu thuế, đã dựng lên các bức tường để tăng khoảng cách, khiến người khác cảm thấy bị từ chối nhiều hơn. Hay khi xem họ là lạc hậu và ít giá trị, xem thường truyền thống của họ, xóa bỏ lịch sử của họ, chiếm đất đai của họ và chiếm đoạt hàng hóa của họ. Biết bao giả định cho mình là ưu việt, đã được biến thành áp bức và bóc lột, tồn tại ngay cả ngày nay! Chúng ta đã thấy điều này trong Thượng hội đồng khi nói về việc khai thác thiên nhiên, bóc lột con người, lợi dụng cư dân Amazon, buôn người, buôn bán con người! Những sai lầm trong quá khứ không đủ để ngăn chặn việc cướp bóc người khác và gây ra những vết thương cho anh chị em của chúng ta và cho trái đất của chúng ta: chúng ta đã nhìn thấy nó trong khuôn mặt đầy sẹo của khu vực Amazon. Việc sùng bái chính mình tiếp tục một cách giả hình với các nghi thức của nó và “những lời cầu nguyện” - nhiều người là Công Giáo, họ xưng mình Công Giáo, nhưng đã quên họ là Kitô hữu và là con người – họ quên mất sự thờ phượng đích thực Thiên Chúa luôn luôn phải được thể hiện trong tình yêu một người lân cận. Ngay cả các Kitô hữu cầu nguyện và đi lễ mỗi Chúa Nhật cũng phục tùng thứ tôn giáo sùng bái bản thân này. Chúng ta hãy kiểm tra bản thân để xem liệu chúng ta cũng nghĩ rằng ai đó là thấp kém hơn mình và có thể bị gạt sang một bên, dù chỉ trong lời nói của chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện xin ân sủng đừng coi mình là ưu tuyển, đừng tin rằng mình tốt lắm rồi, đừng trở nên cay cú và chê bai. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu chữa lành chúng ta tật nói xấu và phàn nàn người khác, coi thường người này hay người kia: những điều này không vừa lòng Chúa. Và trong Thánh lễ hôm nay, ơn Chúa quan phòng cho chúng ta được đồng hành không chỉ với những người bản địa Amazon, mà còn với những người nghèo nhất từ các xã hội phát triển của chúng ta: đó là những anh chị em khuyết tật từ Cộng đồng L’Arche. Họ ở cùng chúng ta, ngay các hàng ghế đầu.

2. Chúng ta hãy chuyển sang lời cầu nguyện khác. Lời cầu nguyện của người thu thuế giúp chúng ta hiểu những gì đẹp lòng Chúa. Anh ta không bắt đầu từ công trạng của mình mà từ những thiếu sót của anh ta; không phải từ sự giàu có của anh ta mà từ sự nghèo khó của mình. Anh không phải là người nghèo về mặt kinh tế - những người thu thuế rất giàu và có xu hướng kiếm tiền một cách bất công trên xương máu của đồng bào mình - nhưng anh cảm thấy nghèo trong cuộc sống, vì chúng ta không bao giờ sống sung mãn trong tội lỗi. Người thu thuế bóc lột người khác thừa nhận mình nghèo hèn trước mặt Chúa và Chúa đã nghe lời cầu nguyện của anh ta, chỉ bằng bảy từ nhưng là đó là một biểu hiện của sự chân thành. Trong thực tế, khi người Pharisêu đứng phía trước vững vàng trên đôi chân của mình (x v. 11), người thu thuế đứng xa và “thậm chí không dám ngước mắt lên trời” , bởi vì anh tin rằng Thiên Chúa thực sự cao cả, trong khi anh biết mình là người nhỏ bé. Anh “đấm ngực” (cf. v. 13), vì ngực là nơi của con tim. Lời cầu nguyện của anh phát sinh thẳng từ trái tim; nó là một lời cầu nguyện minh bạch. Anh đặt trái tim mình trước mặt Chúa, chứ không phải là dáng vẻ bên ngoài. Cầu nguyện là đứng trước đôi mắt Chúa - đó là Chúa nhìn tôi khi tôi cầu nguyện - không ảo tưởng, bào chữa hay biện minh. Thông thường những hối tiếc của chúng ta chứa đầy sự tự biện minh có thể khiến chúng ta bật cười. Khi đó không còn là hối hận nữa, nhưng dường như chúng ta đang phong thánh cho chính mình. Những lời tự biện minh của chúng ta là bóng tối và dối trá đến từ ma quỷ; ngược lại sự minh bạch trong tâm hồn chúng ta là ánh sáng, và sự thật đến từ Thiên Chúa. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời, và tôi rất biết ơn, các thành viên thân yêu trong Thượng hội đồng, rằng chúng ta đã có thể nói chuyện với nhau trong những tuần qua từ trái tim, từ sự chân thành và thẳng thắn, và đặt những nỗ lực và hy vọng của chúng ta trước mặt Chúa và anh chị em chúng ta.

Hôm nay, nhìn vào người thu thuế, chúng ta khám phá lại điểm khởi đầu: đó là từ xác tín rằng chúng ta, tất cả chúng ta, đang cần ơn cứu rỗi. Đây là bước đầu tiên để thật sự thờ phượng Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót đối với những ai nhìn nhận nhu cầu của mình. Mặt khác, gốc rễ của mọi lỗi lầm về tâm linh, như các tu sĩ xưa đã dạy, là tin rằng chúng ta là người công chính. Tự coi mình là công chính là rời bỏ Thiên Chúa, Đấng công chính duy nhất, để băng mình trong giá lạnh. Lập trường ban đầu này rất quan trọng đến nỗi Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy một sự so sánh khác thường, khi Ngài đặt kề bên nhau trong dụ ngôn này người Pharisêu, là nhân vật ngoan đạo và sùng đạo nhất thời bấy giờ, và người thu thuế, là người tội lỗi tỏ tường. Phán quyết bị đảo ngược: người tốt nhưng tự phụ thì thất bại; còn người là một thảm họa nhưng khiêm nhường thì được Chúa nâng lên. Nếu chúng ta nhìn vào bản thân một cách trung thực, chúng ta sẽ thấy trong tất cả chúng ta có cả hình bóng của người thu thuế lẫn người Pharisêu. Chúng ta có một chút của người thu thuế vì chúng ta là kẻ có tội, và một chút của người Pharisêu vì chúng ta tự phụ, có thể tự biện minh cho chính mình, và là các bậc thầy trong nghệ thuật tự biện hộ. Điều này thường có thể có tác dụng với chính chúng ta, nhưng với Thiên Chúa thì không. Trò này không có tác dụng với Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện xin ân sủng biết cảm thấy bản thân mình cần đến lòng thương xót, vì chúng ta nghèo nàn trong tâm hồn. Vì lý do này, chúng ta phải liên kết với người nghèo, để nhắc nhở bản thân rằng chúng ta nghèo, để nhắc nhớ chính mình rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa chỉ hoạt động trong một bầu khí nhận ra sự nghèo khó trong tâm hồn.

3. Giờ đây chúng ta đến với lời cầu nguyện của người nghèo, từ bài đọc thứ nhất. Lời cầu nguyện này, sách Huấn Ca nói, “sẽ vọng lên tới các tầng mây” (35:21). Trong khi lời cầu nguyện của những người cho rằng mình là công chính vẫn còn ở trần gian, và bị nghiền nát bởi lực hấp dẫn của bản ngã; thì lời cầu nguyện của người nghèo được đưa thẳng lên cùng Chúa. Cảm thức đức tin của dân Chúa được tìm thấy nơi người nghèo “những người gác cổng trời”: trong khi cảm thức đức tin đã lạc mất trong phát biểu của người Pharisêu. Những người nghèo là những người sẽ mở rộng hay không cánh cổng của sự sống vĩnh cửu. Họ không được coi là những ông chủ trong cuộc sống này, họ không đặt mình lên trước người khác; vì họ đã có sự giàu có nơi một mình Chúa. Những người này là các biểu tượng sống động của lời tiên tri Kitô giáo.

Trong Thượng hội đồng này, chúng ta đã có cơ hội lắng nghe tiếng nói của người nghèo và suy ngẫm về sự bấp bênh trong cuộc sống của họ, luôn bị đe dọa bởi các mô hình phát triển săn mồi. Nhưng chính xác trong tình huống này, nhiều người đã làm chứng cho chúng ta rằng có thể nhìn thực tế theo một cách khác, chấp nhận nó với vòng tay rộng mở như một ân sủng, coi thế giới được tác tạo này không phải là một tài nguyên để khai thác mà là một ngôi nhà để giữ gìn, với niềm tin vào Chúa. Ngài là Cha chúng ta, và sách Huấn Ca nói một lần nữa, rằng “Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu” (câu 16). Đã bao nhiêu lần, ngay cả trong Giáo hội, tiếng nói của người nghèo không được lắng nghe và có lẽ bị chế giễu hoặc làm câm nín vì những tiếng nói ấy gây bất tiện. Chúng ta hãy cầu xin ân sủng để có thể lắng nghe tiếng kêu của người nghèo: đây là tiếng kêu hy vọng của Giáo hội. Tiếng kêu của người nghèo là tiếng kêu hy vọng của Giáo Hội. Khi chúng ta xem tiếng kêu của họ là tiếng kêu của chính chúng ta, chúng ta có thể chắc chắn rằng, lời cầu nguyện của chúng ta cũng sẽ chạm tới những tầng mây.


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Hãy nhanh tay xin vé tham dự các biến cố trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Thái Lan
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:04 28/10/2019
Như chúng tôi đã đưa tin, lúc 7g tối thứ Ba 19 tháng 11, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành bằng máy bay từ sân bay Fiumicino của Rôma để bay sang Bangkok. Ngài sẽ đến nơi vào lúc 12:30 trưa thứ Tư 20 tháng 11 năm 2019.

Trong thời gian tại Thái Lan, Đức Thánh Cha sẽ có 2 sinh hoạt với sự tham dự của công chúng là Thánh Lễ tại sân vận động quốc gia của thủ đô Bangkok vào chiều Thứ Năm 21 tháng 11, và là thánh lễ với những người trẻ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào chiều ngày Thứ Sáu 22 tháng 11.

Sân vận động quốc gia dự kiến sẽ có thể đón nhận con số 25,000 người. Thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời chỉ có thể đón tiếp 1,500 người.

Ban tổ chức chuyến tông du của Đức Thánh Cha vừa cho biết họ đã phân phối các vé cho các giáo phận và tổng giáo phận của Thái Lan. Các giáo phận và tổng giáo phận Công Giáo bên ngoài Thái Lan không thể đặt chỗ tham dự các biến cố chúng tôi vừa nêu.

Tuy nhiên, các cá nhân muốn có vé tham dự các biến cố này xin mau chóng gửi email đến địa chỉ này: ticket@popevisitthailand.com.

Tất cả các yêu cầu sẽ được xem xét trên cơ sở từng trường hợp và tùy thuộc vào chỗ trống.

Vì không có nhiều chỗ nên nếu quý vị và anh chị em xin một lúc nhiều vé thì ban tổ chức không giải quyết vì phần lớn số vé đã được phân bổ cho các giáo phận ở Thái Lan.

Những ai nhận được thông tin này, xin chuyển rộng rãi cho những bạn bè nào có ý định sang Thái Lan gặp gỡ Đức Thánh Cha, và xin email càng sớm càng có nhiều hy vọng.

Chuyến tông du Thái Lan của Đức Thánh Cha trùng với kỷ niệm 350 năm sắc lệnh của của Đức Giáo Hoàng Clêmentê IX thành lập “Miền Truyền Giáo Xiêm La” và phái bộ giám sát công việc truyền giáo tại nước này.

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ là vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm Thái Lan trong gần bốn thập kỷ qua. Chuyến đi cuối cùng được thực hiện bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1984. Trong chuyến đi đó, vị Thánh Giáo Hoàng Ba Lan đã có cuộc gặp gỡ với nhà vua Thái Lan Bhumibol và mẹ của ông.