Ngày 29-11-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Sống Mùa Vọng: mong đợi đổi mới
Hai Tê Miệt Vườn
05:18 29/11/2008
CÁCH SỐNG MÙA VỌNG

Sống Mùa Vọng bằng tình liên đới
Trí tâm ta nghĩ tới người nghèo.
Họ là như những cánh bèo
Cuốn theo dòng lũ, bám đeo chỗ nào.

Vậy ta hãy ban trao tiền bạc
Giúp nạn nhân đói khát miếng ăn
Ngập tràn bao nổi khó khăn
Nhà tan cửa nát tháng năm buồn phiền.

Mọi người được kết liên trong Chúa
Thế nhân thành điểm tựa cho nhau.
Vũ hòan khỏi cảnh thương đau
Vết thương ích kỷ được mau chữa lành

Nhân lọai được chung phần Thiên quốc
Xác hồn hưởng hạnh phúc vô biên
Tình người nối kết gắn liền
Ở trong tình Chúa vững bền thiên thu

MONG ĐỢI ĐỔI MỚI

Sống Mùa Vọng với lòng mong đợi,
Được Chúa thương đổi mới tâm hồn.
Ngõ hầu gặp Đấng Chí Tôn
Chính là Thiên Chúa Càn Khôn vĩnh hằng

Đời con đã bao năm lầm lỡ,
Ngày đêm hằng đỗ vỡ tình thương.
Vì con cả dám khinh thường,
Chạy theo tội ác, bỏ đường thẳng ngay.

Được Chúa giúp con quay trở lại,
Hầu chẳng gây thiệt hại cho đời
Từ nay sống với mọi người,
Ở trong sự thật, rạng ngời tình yêu.

Đời con đạt mục tiêu đức mến,
Khi thuyền đời cập bến Thiên Đàng.
Xác hồn tràn ngập vinh quang.
Muôn đời chiêm ngắm thánh nhan Chúa Trời.
 
Sống trong mong đợi
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
10:35 29/11/2008

Sống trong mong đợi



Khi sống trong trông mong chờ đợi, tâm trí thường nhạy bén chú ý nhiều hơn đến sự việc đang chờ đợi.

Người mẹ đang mang thai chờ đợi ngày con sinh ra, chị chú ý đến từng chuyển động của thai nhi trong cung lòng mình.

Một em bé trông mong chờ đợi Ông Bà đến chơi, em hay đứng nhìn qua cửa sổ quan sát xem từng bóng người đi qua lại.

Người lớn khi hay tin người bà con hay bạn thân đã lâu ngày không gặp sẽ đến chơi, họ thường sửa soạn kỹ lưỡng sao cho cuộc gặp gỡ hội ngộ được chu đáo thắm thiết thân tình.

Tâm tình vui mừng đầy hy vọng chú ý chờ đợi sống trong mùa trông mong ngày lễ mừng Chúa giáng sinh có như thế không?

Ngày xa xưa vào thời điểm Chúa Giêsu chưa giáng sinh làm người, dân Thiên Chúa Israel có tâm tình trông mong chờ đợi đấng cứu thế đến giải thoát cứu họ khỏi cảnh nô lệ bên đất nước xứ Ai Cập.

Tiên tri Jesaja đã nói lên lòng trông mong chờ đợi khẩn cầu đấng cứu thế từ trời cao đến trần gian mang ánh sáng xóa tan bóng tối tội lỗi cho con người (Jes 63,16-19).

Ngày nay con người chúng ta hoài nghi, than van về sự bấp bênh thiếu quân bình phải sống trong bóng tối sự dữ, sự xấu. Chúng ta trông mong sự bình an cho tâm hồn đời sống.

Trong cuộc sống xã hội ngày hôm nay, con người càng ngày càng đạt được nhiều tiến bộ trong nhiều lãnh vực. Những tiến bộ này giúp đời sống nhẹ nhàng thuận tiện nhiều thêm ra, nhưng nó cũng gây ra không ít những vấn đề làm đời sống trở nên bấp bênh lo nghĩ thêm. Cuộc khủng hoảng tiền bạc trên thế giới ngành ngân hàng hiện nay năm 2008 lan gây ra hậu qủa tiêu cực bấp bênh cho đời sống xã hội cũng như nơi các gia đình. Lòng trông mong chờ đợi giải pháp giúp ra khỏi cuộc khủng hoảng đem lại sự bình an cho đời sống là khát vọng ưu tiên trong lúc này.

Lòng trông mong chờ đợi là nhu cầu căn bản thâm sâu của con người ở vào mọi thời đại cùng mọi nơi chốn. Nó thuộc về đời sống làm người ở trần gian.

Trong đời sống đức tin vào Thiên Chúa, mùa Vọng trong phụng vụ của Giáo Hội nhắc nhớ người tín hữu đến nhu cầu trông mong chờ đợi sự bình an của Chúa Giêsu, Đấng sinh ra làm người trong chuồng súc vật ngoài cánh đồng Bethlehem mang đến cho con người trần gian.

Mùa vọng cũng là lời nhắn nhủ các tín hữu Chúa Kitô; Chúa Giêsu đến không chỉ trong ngày giáng sinh, nhưng trong tâm hồn con người mỗi khi cầu nguyện đọc kinh, mỗi khi cùng dâng Thánh lễ Misa, cùng đọc nghe Lời Chúa, và nhất là trong đời sống bác ái liên đới tình người với nhau.

Mùa Vọng cũng nhắc nhở người tín hữu ngày Chúa Giêsu đến tron g ngày chung thẩm sau hết, Ngài là vị thẩm phán của người sống cũng như của người đã qua đời.
 
Con Sư Tử trong năm phụng vụ mới.
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
10:37 29/11/2008

Con Sư Tử trong năm phụng vụ mới.



Theo niên lịch năm mới bắt đầu ngày 01.01., nhưng trong đời sống đức tin của Giáo Hội Công giáo năm phụng vụ mới bắt đầu không theo ngày tháng nhất định, mà theo chu kỳ lễ nghi phụng vụ, từ Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng - thường vào cuối tháng Mười Một hằng năm.

Năm nay, năm phụng vụ mới bắt đầu vào ngày Chúa nhật 30.11.2008. chu kỳ B. Theo chu kỳ phụng vụ B, năm nay Phúc âm theo Thánh Marco là trọng điểm bài đọc Phúc âm trong các ngày lễ Chúa nhật.

Chúa Giêsu đi rao giảng Tin mừng nước Thiên Chúa, nhưng không có bài viết nào để lại. Sau khi Chúa về trời, Giáo Hội do các Thánh Tông đồ điều hành, vì nhu cầu giáo lý, những lời rao giảng của Chúa khi xưa được viết thu tập lại.

Có nhiều sách tập viết về đời sống cùng lời gỉang dạy của Chúa Giêsu, nhưng Giáo Hội Công giáo chỉ nhận bốn sách Phúc âm: Theo Thánh Mathêo, theo Thánh Marcô, theo Thánh Luca và theo Thánh Gioan. Bốn Thánh viết Phúc âm Chúa Giêsu vào những thời điểm khác nhau:

Thánh Mathêo viết vào khoảng năm 70 thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh. Thánh Marcô viết vào khoảng năm 65/66 thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng Sinh. Thánh Lu-ca viết vào khoảng năm 80 thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh. Và Thánh Gioan viết vào khoảng cuối năm 100 thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh.

Họ trình thuật lại việc làm cùng Lời giảng dậy của Chúa theo như họ nghe biết hoặc trực tiếp như Thánh Mathêo, Thánh Gioan là tông đồ của Chúa Giêsu; hoặc gián tiếp như Thánh Marcô và Thánh Luca là học trò của Thánh Phêrô và Thánh Phailô, cùng hiểu ý nghĩa trong ánh sáng được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Vì thế họ viết lại, trình bày Lời Chúa với những trọng điểm khác nhau và theo khung cảnh nền văn hóa thời họ sinh sống

Và cũng do những trọng điểm khác nhau đó, bốn Thánh Sử viết Phúc âm có bốn biểu tượng khác nhau. Những biểu tượng này không phải do họ tự đặt ra cho mình. Nhưng sau này do những nhà nghiên cứu học hỏi về Kinh Thánh,những nhà phân tích, những nhà nghệ thuật về hội họa điêu khắc đặt cho họ.

Biểu tượng cho Phúc âm Thánh Mácô là hình con Sư tử.

Lý do chọn biểu tượng này cho Thánh nhân, vì Ông thuật lại trong sách Tin Mừng ngay phần đầu Sứ vụ cùng bài giảng, Phép Rửa của Ong Thánh Giaon Tẩy Giả trong hoang địa sa mạc như tiếng sư tử gầm: ăn năn sám hối trở về cùng đường ngay nẻo chính thiện, để dọn đường, dọn tâm hồn con người cho Chúa Giêsu, Đấng cứu thế đến (Mc 1, 1-8).

Những ai đã sang du lịch tham quan thắng cảnh thành phố Venezia bên Ý, thấy ngay ở trung tâm thành phố ngôi Thánh đường chính tòa cổ kính mang danh hiệu Thánh Marcô thánh sử phúc âm, trong ngoài Thánh đường đều có khắc chạm hình con Sư Tử, ngoài sân công trường trên trụ tháp cao có tượng Sư Tử chạm khác sơn mầu vàng chói có hai cánh. Theo tương truyền, xác của Thánh sử Marco được đưa về đây chôn táng.

Hình con Sư Tử biểu hiệu của Thánh Marco là huy hiệu của nhà thờ chính tòa và của thành phố du lịch nổi trên mặt nước Venezia.

Tính theo thời gian, Phúc âm theo Thánh Marcô là Phúc âm được viết sớm trước nhất vào năm 65/66 thế kỷ thứ nhất sau Chúa gíang sinh. Thánh Marcô viết phúc âm bằng chữ Hylạp. Ông muốn trình bày giáo lý cuộc đời Chúa Giêsu trứơc hết cho độc gỉa người ngoại giáo và những người trở lại theo đức tin Kitô giáo.

Qua phúc âm giáo lý, Thánh Marcô muốn khuyến khích họ trong mọi hoàn cảnh, dù có khó khăn đau khổ, luôn vững tâm trung thành với đức tin vào Chúa Giêsu. Trong phần tường thuật cuộc khổ nạn những biến cố sau cùng cuộc đời Chúa Giêsu, Ông thuật lại chi tiết thời gian ngày giờ sự việc xảy ra, và những chi tiết tỉ mỉ như một nhà sử học ăn khớp với nhau.

Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng 2008-2009
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:27 29/11/2008
NGỘ GIÁC

N2T


- “Cản trở lớn nhất của khai ngộ là gì ?”

- “Sợ hãi.”

- “Sợ hãi do đâu mà hết ?”

- “Ngộ giác.”

- “Ngộ giác là gì ?”

- “Là muốn đem đóa hoa bên cạnh mình biến thành rắn độc.”

- “Con làm thế nào để được biên giới ngộ giác ?”

- “Mở mắt nhìn rõ ràng.”

- “Nhìn gì ?”

- “Nhìn bên cạnh mình một con rắn cũng không có.”


(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Ngộ giác (giác ngộ) là mở con mắt tâm linh để hiểu rõ mình và hiểu rõ sự việc, để sống đúng với những gì mình đã lãnh hội được.

Con mắt tâm linh của người Ki-tô hữu chính là Lời Chúa, chính Lời Chúa này đã làm cho họ biệt nhận ra biên giới của sự lành và điều ác, biết nhận ra Chúa Giê-su nơi người anh em chị em của mình, biết phán đoán điều nên làm và không nên làm, biết hy sinh và làm chứng cho tin mừng Phúc Âm...

Sự sợ hãi thường làm cho con người mất đi tính uy dũng vốn có của mình, cho nên họ thường sống an phận và bàng quan trước cuộc sống của xã hội, và có khi dửng dưng trước nổi khổ của tha nhân.

Con rắn là tượng trưng cho sự sợ hãi của con người, nhờ Lời Chúa mà người Ki-tô hữu biết đánh tan nổi sợ hãi để nhìn thấy biên giới của giác ngộ là yêu thương.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:28 29/11/2008
N2T


19. Người có đức hạnh dễ dàng khiêm tốn, biết cẩn thận khích lệ và biết trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng người thiếu đức hạnh thì dễ dàng kiêu ngạo, uể oải, dễ dàng trông cậy vào sức mình.

(Thánh Bonavetura)
 
Cuộc đời và tiếng gọi - Lễ Thánh Phanxicô Xaviê
LM. Nguyễn Hữu An
20:14 29/11/2008

CUỘC ĐỜI VÀ TIẾNG GỌI.

LỄ THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ



Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy”.

“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.

“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.

“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu…Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).

Đọc Phúc Âm ta nghe âm vang lời mời gọi. “Hãy theo Thầy”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.

Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy”.

1. Cuộc đời

Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi ngài đến Paris học (1525-1536).

Tại Paris ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.

Tháng 4.1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Indonésia. Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.

Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quãng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.

Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3.12.1552, được ĐTC Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).

2. Tiếng gọi.

ĐGM Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).

a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.

Đức Giêsu hỏi: "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.

Sinh ra trong gia đình quyền quý nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.

Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị; lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng không có gì thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.

Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.

b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.

Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt, Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.

Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.

Ở Paris sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì qúa uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.

Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh có sức công phá không gì có thể cầm lại được. “ Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó cùng với Ignaxiô thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “ cho vinh danh Chúa hơn”.

Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo. Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi (Bt 48,1);( bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1); Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại (Bt 20,14)…Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình (Bt 55,10). Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau (Bt 48,1). Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài (Bt,16)…Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm (Bt 97,1)…Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách đựoc (Bt 1,7).

c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.

Ban đầu nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.

Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản. Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.

Tới Goa ngày 6.5.1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết. Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên khinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.

Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu, tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quãng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3.12.1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dỡ…Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.

Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.

Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân:Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người (Bt 78,2). Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẳn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.

Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.

3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban

Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.

Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.

Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi. Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên. Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.

Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “ Hãy theo Thầy” để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác. Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình (Bt 90,8.9).

Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm", là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
 
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần
LM Nguyễn Vinh Gioang
20:22 29/11/2008
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (59)

581. Thời gian Giáo Hội Công giáo sống trong Mùa Vọng

- thời gian ăn năn thống hối để xin Chúa tha tội
- thời gian cầu nguyện để kết hiệp với Chúa
- thời gian thinh lặng để lắng Lời Chúa
- thời gian lo dọn mừng Chúa đến trong nhân loại, đến trong các linh hồn và đến trong Ngày Tận Thế
- thời gian lo dọn mừng Chúa đến để cứu thoát loài người khỏi tội lỗi và án phạt đời đời

582. Tỉnh thức và cầu nguyện

Muốn nhận ra sự hiện diện của Chúa và bước chân theo Ngài, chúng ta phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, nghĩa là sống và hành xử theo tinh thần Kitô, luôn để cho ánh sáng Tin Mừng cứu độ chiếu soi đời mình, đặc biệt trong những lúc phải bước đi trong đoạn đường hầm đen tối của cuộc đời nầy.
Chính thái độ tỉnh thức và cầu nguyện ấy sẽ giúp chúng ta không nặng nề ngủ quên trong cuộc sống của thế giới duy vật và hưởng thụ. Đồng thời, còn giúp tâm hồn chúng ta không bị thế giới vật chất cầm chân và nhận chìm trước lời mời gọi của cuộc sống mới thiên linh mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta qua Chúa Giêsu. (Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày)

583. Sống đẹp lòng Chúa

Sống đẹp lòng Chúa, chứ không phải sống đẹp lòng người ta, dù người ta ấy có là ai đi chăng nữa.
Nhưng phải là gì để làm đẹp lòng Thiên Chúa đây?
Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân.
Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. (Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày)

584. Sống yêu thương trọn vẹn

Mỗi người chúng ta cần phải luôn luôn đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm hồn và trong cuộc đời bằng cách sống thánh thiện và kiên vững chờ đợi Chúa đến. Bởi vì sống thánh thiện, tức là sống yêu thương trọn vẹn.
Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn.
Càng biết yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, thì càng trở nên giống Chúa Giêsu bấy nhiêu.
Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu. (Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày)

585. Yêu thương nhau để đón chờ Chúa đến

Thế giới và xã hội loài người gặp nhiều khổ đau vì con người không biết yêu thương nhau, hay không yêu thương nhau theo Tin Mừng của Chúa mà Ngài mời gọi.
Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất, là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thần linh và xây dựng Trời Mới Đất Mới cách cụ thể và hữu hiệu nhất. (Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày)

586. Chín điều làm cho bạn thành công: t-h-a-n-h c-o-n-g

- Trung thực
- Ham học hỏi
- Am hiểu
- Năng động
- Hài hòa
- Cần cù
- Ôn hoà
- Nhiệt tình
- Giản dị
(Bảy Thói Quen Của Bạn Trẻ Thành Đạt)

587. Ích lợi của sự cần kiệm

Ông cha ta đều cho rằng thành công được bắt đầu từ sự tiết kiệm, thất bại là do sự lãng phí xa xỉ quá đáng.
Cần kiệm là truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta, cũng là một biểu hiện phẩm chất đạo đức cao thượng của một con người.
Đối với gia đình, cần kiệm sẽ lo liệu được việc nhà.
Đối với Đất Nước, cần kiệm sẽ được yên quốc.
Đối với xí nghiệp, tiết kiệm sẽ là phát triển sức sản xuất. (Tài Và Đức)

588. Dám mạo hiểm

Dám mạo hiểm là một biểu hiện quan trọng cho một tinh thần có tính thách thức.
Những người chỉ muốn nhàn hạ, luôn nghe lời người khác, hay suy đi tính lại, e sợ hiểm nguy thì sẽ không làm lên được sự nghiệp gì cả, cùng lắm là có thể duy trì được trạng thái hiện có.
Chỉ có những người có ý chí dám đương đầu với thách thức, không sợ khó khăn, dám dấn thân vào mạo hiểm, mới có thể sáng tạo ra cái mới.
Sáng tạo, chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp.
Một ý chí dám đương đầu với thách thức, nguyện vọng theo đuổi thành công, chính là những động lực bên trong của những người đang xây dựng sự nghiệp.
Một cá tính của người Mỹ là dám mạo hiểm, thích theo đuổi những thách thức, đã được cả thế giới công nhận. Do vậy, dân tộc nầy luôn tràn đầy sức sống và chí khí tiến thủ, khoa học kỹ thuật và nền kinh tế của đất nước cũng luôn dẫn đầu thế giới. (Bạn Cũng Có Thể Là Một Người Giàu Có)

589. Lãnh đạo hãy biết phân quyền để công việc được kết quả tốt đẹp.

Muốn trở thành một lãnh đạo phát huy hết tài năng của nhân viên, tôi (Daisy Wademan) khuyên bạn nên phân quyền, hy sinh một chút quyền lực của mình, không nên coi uy hiếp là một công cụ quản lý…..
Sau khi ủy quyền, cấp dưới của bạn sẽ bắt đầu mở ra cục diện mới trong môi trường làm việc mới. Họ bắt đầu có ý tưởng cho nghề nghiệp của mình, coi nó là thứ mình đang sáng tạo, và họ không ngừng tìm ra phương pháp để hoàn thiện nó. Việc nầy sẽ khiến họ chủ động nhiều hơn, tạo cho họ cảm giác cố gắng hết sức để sáng tạo trong lĩnh vực hoạt động lớn hơn với sự phát triển của nghề nghiệp. Lĩnh vực chắc chắn sẽ làm thay đổi sự nghiệp của bạn theo hướng tích cực vì bạn đã vứt bỏ sự kiểm soát. Công việc được thúc đẩy không phải bởi sự lo sợ của cấp dưới, mà là vì mong muốn tích cực của anh ta. (Khám Phá Bản Thân)

590. Thành thật là nguyên tắc đầu tiên mà những người thành công phải có.

Trong công việc hoặc trên thương trường, có nhiều hình thức lừa dối ở những mức độ khác nhau: một công ty nào đó lừa dối cổ đông, người môi giới bất động sản cầm tiền chạy trốn.…
Những lừa dối trong kinh tế muôn màu muôn vẻ, nhưng người kẻ lừa dối chỉ thu được những lợi ích nhất thời mà thôi. Họ làm sao có thể có được sự phát triển cũng như những lợi ích lâu dài.
Hãy thử nhìn những doanh nhân thành công thực sự: họ đều là những người rất thành thật. Họ lấy sự thành thật để đổi lấy sự tin tưởng của mọi người. Họ lấy “thành thật” làm châm ngôn trong kinh doanh….
Bạn đọc thân mến! Có vẻ như sự thành thật đã làm cho bạn phải hy sinh những lợi ích đã cầm chắc trong tay, nhưng thực ra, chỉ cần nhìn xa hơn một chút, bạn sẽ thấy rằng những thứ do thành thật đem lại sẽ lớn hơn gấp nhiều lần. Sự thành công do tính thành thật đem lại, càng chinh phục lòng người.
Có thể đối thủ cạnh tranh của bạn bị tổn thất do hành động lừa dối của bạn. Những người cùng làm ăn với bạn bị lừa dối do sự thất tín không giữ lời hứa của bạn. Còn bạn thì trục được lợi.
Thế nhưng, lần sau, sẽ không có ai tin tưởng bạn nữa.
Không có bạn bè, chỉ còn lại đối thủ. Ngoài thất bại, bạn sẽ không có kết cục nào khác.
Thành thật là nguyên tắc đầu tiên mà những người thành công phải có. (Biết Người, Biết Mình)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tòa Thánh báo động tình trạng khủng hoảng tài chánh sẽ nguy kịch hơn
Bùi Hữu Thư
20:29 29/11/2008

Tòa Thánh báo động tình trạng khủng hoảng tài chánh sẽ nguy kịch hơn



NEW YORK, Ngày 28 tháng 11, 2008
(Zenit.org).- Tòa Thánh Vatican lưu ý là cuộc khủng hoảng tài chánh có thể trở thành một tai họa nếu phẩm giá con người không được bảo vệ.

Đây là lời báo động của Đức Tổng Giám Celestino Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc, được tuyên bố một ngày trước khi Hội Nghị Doha về Những Tiến Bộ cho Việc Hợp Tác Phát Triển Quốc Tế.

Hội Nghị này khởi sự ngày thứ bẩy và tiếp diễn đến ngày 2 tháng 12.

Đức Tổng Giám Mục tuyên bố với đài phát thanh Vatican, "Đã một thời gian qua, chúng ta rơi vào một cuộc khủng hoảng về tài chánh, và có thể trở thành một tai họa nếu để cho ảnh hưởng đến các khủng hoảng khác: kinh tế, thực phẩm, năng lượng. Dường như cần để cho thị trường tài chánh trở về với lãnh vực công cộng. Cần gia tăng sự phối hợp và hiệp nhất trong việc tìm kiếm các giải pháp.

"Cần phục hồi một số chiều kích căn bản về tài chánh, nghĩa là, đặt ưu tiên của người lao công trên số vốn đầu tư, ưu tiên của các mối tương quan nhân loại trên các dịch vụ tài chánh, và ưu tiên của đạo đức luân lý trên tiêu chuẩn độc nhất là sự hữu hiệu.”

Vị đại diện Tòa Thánh nhắc rằng, “các chuyên viên cho chúng ta hay là trong tình trạng này, việc dựng lên các hàng rào ngăn cản mới sẽ không có kết qủa tốt, trong việc trao đổi các phẩm vật và dịch vụ, cũng như là việc đầu tư giữa các quốc gia. Bất cứ biện pháp bảo vệ nào như vậy đều có thể gia tăng sự căng thẳng cho tình trạng kinh tế hiện hành."

Đức Tổng Giám Mục Migliore khẳng định rằng trên hết, cần phải chấp nhận “các tiêu chuẩn phù hợp với con người hơn.”

Ngài kết luận, Chính vì thế, vấn đề là luân lý và đạo đức: “Đã có sẵn rất nhiều quy luật về luân lý trước cuộc khủng hoảng; vấn đề là đã trao quá nhiều quyền hành và tự do cho những người không tuân theo các quy luật này.

"Đây cũng là một vấn đề lãnh đạo, về quyền hành luân lý của chính phủ ở mọi từng lớp. Những giới chức này có trách nhiệm chính là bảo vệ mọi công dân, trên hết là các công nhân, là những người bình thường không có bổn phận theo dõi guồng máy tài chánh phức tạp và phải được bảo vệ chống mọi gian lận và mưu mô khai thác của những kẻ xảo trá, tinh ma.”

Đức Tổng Giám Mục Celestino Migliore
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Làng phong Tam Hiệp: Bốn mươi năm nghĩa tình
Quang Huyền
05:26 29/11/2008
Làng phong Tam Hiệp: Bốn mươi năm nghĩa tình

Nếu có dịp ghé qua Khu phố 5 – Phường Tam Hiệp, bạn sẽ nhìn thấy ngôi làng của các bệnh nhân phong. Một ngôi làng Làng nhỏ bé lọt tỏm giữa Tp. Biên Hoà rộng lớn. Đây là nơi cư ngụ và sinh sống của hơn 140 hộ gia đình bệnh nhân phong. Năm nay, làng phong Tam Hiệp kỷ niêm 40 năm thành lập. Làng phong đã trải qua biết bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng người bệnh vẫn một lòng tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của mọi người. Tôi muối gói gém câu chuyện 40 năm về Làng Phong trong bài viết này bằng hai chữ “nghĩa tình”.

1. Tình yêu thuở ban đầu

Nếu tình yêu của hai người được phát xuất từ những cuộc gặp gỡ đầu tiên, thì lịch sử về làng phong Tam Hiệp cũng có thể ví được như thế. Người già ở đây kể lại rằng, vào năm 1968 có 10 gia đình bệnh nhân phong và 8 gia đình tật nguyền khác quy tụ lại ở thôn Tấn Minh – xã Thanh Giản - Tp. Biên Hoà, thuộc giáo xứ Đa Minh, để định cư và sinh sống. Không ai bảo ai, chính tình yêu của những người đồng cảnh ngộ đã quy tụ họ lại với nhau, nương tựa nhau để sinh sống.

Vì phải mang trên mình căn bệnh dễ bị xa lánh, nên đời sống những ngày đầu của họ rất bấp bênh, nếu không muốn nói là bi đát trong một vùng xa xôi hẻo lánh này. Nghề “cái bang” là phương cách sinh sống duy nhất của họ. Trong một xã hội đâu đâu cũng có tiếng súng nổ, bom rơi, thì cuộc sống của những người bình thường còn khốn đốn huống chi là đời sống của những anh chị em bệnh nhân phong. Nhưng nhờ “tình tương thân tương ái”, họ cố bám trụ ở đây và tiếp tục cuộc sống. Họ đã sẵn sàng chia nhau miếng cơm, manh áo và cả những nỗi đau của kiếp nhân sinh. Thế rồi, tình cờ một vài người trong số họ gặp được một tu sĩ dòng Phanxicô trong chuyến hành khất từ Đình Phong Phú về, người tu sĩ đó là thầy Lê Trọng Nhung. OFM, người mà ngày nay người làng Tam Hiệp vẫn quen gọi một cách thân thương là cha Nhung.

Kể từ cuộc gặp gỡ tình cờ đó, thầy Nhung đã tới thăm người cùi ngày càng nhiều hơn. Cảm thương trước những cảnh đời éo le và bất hạnh, thầy đã xin phép nhà Dòng đứng ra bảo bọc chở che đời sống cho họ. Thầy đã chạy vạy và gõ cửa nhiều người và xin sự viện trợ của Dòng để chữa bệnh cho người phong, lo cho họ có gạo, mì để sống qua ngày. Kể từ đó, thầy trở thành chổ dựa tinh thần cho họ. Tình yêu thương của thầy trở thành động lực lớn nhất để những người bệnh phong an tâm và đón nhận sự đau đớn của bệnh tật và cuộc sống nghèo khổ. Cha con làng phong Tam Hiệp đã đồng lao cộng khổ với nhau nhiều năm trời, nhất là những tháng ngày “mịt mờ” sau ngày giải phóng Miền Nam năm 1975. Nhưng nhờ tình yêu thương của Thiên Chúa và sự giúp đỡ của nhiều tổ chức và ân nhân, họ vẫn tồn tại và ngày một ổn định hơn về đời sống tinh thần và vật chất

Đến nay khi nhớ lại thuở hàn vi ấy, bệnh nhân Nguyễn Văn Vui đã nghẹn ngào tâm sự: “Câu chuyện đã xẩy ra lâu lắm rồi, nhưng tôi không thể nào quyên, đến lúc nhắm mắt cũng mang theo. Buổi chiều Giáng Sinh năm 1968, ông thầy đèo lên 20 kí gạo và 15 kí khoai mì chia cho anh em mừng Lễ Giáng Sinh (lúc đó có 185 bệnh nhân). Cha con nhìn nhau không ai cầm được nước mắt, hoàn cảnh đói khổ nhưng anh em cảm nhận được món quà đầy áp ân tình”. Đúng thế, chỉ tình người mới có sức mạnh tạo nên một cộng đoàn yêu thương trong khói lửa của chiến tranh và tình yêu ấy có nhiều cơ may để lớn lên.

2. Làng phong Tam Hiệp lớn lên trong tình yêu.

Theo quy luật thường tình thì sau khi vượt qua những khó khăn ban đầu, tình yêu của con người mới có thể trưởng thành và sâu sắc hơn. Điều này rất đúng với làng phong Tan Hiệp. Hôm nay, khi đặt bước chân tới làng phong, chắc rằng ai cũng ngỡ ngàng vì sự thay da đổi thịt của nó. Nhưng có ai biết chăng, đàng sau những gì đang có là cả một nỗ lực không mệt mỏi trong nhiều năm của Cha con thầy Fidel Nhung.

Với mục tiêu thoát nghèo và hoà nhập với cuộc sống của xã hội, cha con làng phong Tam Hiệp đã nỗ lực rất nhiều với sự giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần của nhiều ân nhân trong và ngoài nước. Nhờ thế, căn bệnh hiểm nghèo của người phong được đẩy lùi. Hiện nay làng không còn bệnh nhân phong nào. Nhưng hậu quả của căn bệnh vẫn còn đó trên đôi tay, đôi chân tàn phế của nhiều bệnh nhân. Tuy thế, sự nổ lực của cha con đã đưa đời sống kinh tế của các gia đình bệnh nhân đi lên mỗi ngày.

Cho đến nay làng không còn gia đình bệnh nhân nào thiếu ăn, thiếu mặc. Họ đã có nhà gạch, nhà tôn để ở, phần lớn là nhà tình nghĩa do ân nhân và chính quyền địa phương xây tặng. Đến năm 1982 làng đã có đường rộng và bê tông hóa; năm 1994 làng phong có điện và đời sống của họ thay đổi nhanh chóng. Năm 1996-1998, cha con đã xây được hai dãy nhà dưỡng lão cho các cụ ông và cụ bà ở. Những người bệnh mất khả năng lao động trong nhà dưỡng lão này được hưởng trợ cấp hàng tháng của thành phố. Còn những bệnh nhân lành lạnh và con em họ đã tự tìm công ăn việc như chạy xe ôm, ba gác, làm trong các công ty xí nghiệp, nhờ thế đời sống kinh tế của các gia đình ngày càng ổn định hơn.

Đời sống giáo dục ở làng phong là ưu tiên hàng đầu của cha con thầy Nhung. Ngay từ những năm đầu thầy đã quan tâm đến việc học hành của con em bệnh nhân phong. Thầy chia sẻ: “Đi đôi với việc xoa dịu nỗi đau bệnh tật của người phong, chúng tôi cũng tính đến chuyện xóa nỗi đau mù chữ mù nghĩa cho trẻ em và lên kế hoạch trồng người từ rất sớm”. Kể từ đó thầy mở các lớp học bổ túc lo xóa mù chữ cho trẻ em. Sau đó, thầy đã xây trường tiểu học và mời thầy cô ở ngoài vào dạy chữ cho các em. Khi xong chương trình tiểu các em được chuyển lên học ở các trường của nhà nước. Thế là phong trào học tập của làng ngày càng phát triển. Hiện nay làng có hơn 300 em học sinh từ lớp 1-12 và có 3 em đang theo học đại học. Các em học sinh là niềm hy vọng cho tương lai của làng phong.

Bên cạnh đó, chúng ta thấy đời sống đạo của làng phong cũng được mở ra. Cho đến nay, làng phong đã trở thành một giáo họ, với ngôi nhà nguyện khang trang và xinh đẹp, phục vụ cho đời sống đạo. Thầy Nhung cũng đã xin các cha và thầy ở Học viện Phanxicô giúp làm lễ cho bà con và dạy giáo lý cho thiếu nhi hàng tuần. Nhờ sự hiện diện của các cha, các thầy tinh thần đạo đức của anh chị em làng phong ngày càng sâu sắc hơn.

Công lao gieo vãi 40 năm của cha con thầy Nhung giờ đây đã bắt đầu cho hoa thơm quả ngọt. Đây là niềm vui không chỉ riêng của bà con Làng Phong Tam Hiệp, nhưng là của nhiều người, nhiều tổ chức đoàn thể đã yêu thương và quan tâm đến họ trong suốt thời gian qua.

Đến đây, chúng ta có thể ví câu chuyện về Làng Phong Tam Hiệp như một câu chuyện tình, được thêu dệt bằng biết bao nghĩa tình của nhiều trái tim yêu thương. Những gì làng có được hôm nay như những hoa quả tốt đẹp được kết tinh từ những giọi mồ hôi vất vả của cha con thầy Nhung và sự quãng đại giúp đỡ của nhiều tổ chức và ân nhân. Nhưng trên hết, chúng ta cùng hiệp thông với anh chị em giáo dân Làng Phong Tam Hiệp cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Ngài đã thương ban cho những người con bé nhỏ của Ngài trong suốt hành trình đã qua.

Cầu chúc các anh chị em ở làng phong Tam Hiệp bước sang một giai đoạn mới trong trang sử mới của làng được Thiên Chúa chúc lành, anh chị em ân nhân tiếp tục nâng đỡ và có một đời sống tốt đời đẹp đạo, hòa nhịp với đời sống chung của Giáo Hội và xã hội.
 
Ông Già Noel Nhóm Bông Hồng Xanh mong phát quà cho các em vủng Hậu Giang
Bông Hồng Xanh
05:44 29/11/2008
Ông Già Noel Nhóm Bông Hồng Xanh mong phát quà cho các em vủng Hậu Giang
...
Chiếc siêu trực thăng hạ cánh trước cổng Thiên Đàng. Cụ Già Noel với trang phục đỏ quen thuộc cầm cái bao xẹp lép đi qua. Thánh Phêrô cười:
- Cụ già Noel đi đâu mà vắng bóng lâu quá vậy? Xin mời vào! Cụ thì không cần phải trình thẻ vào thiên đàng vì việc bác ái của cụ nổi tiếng quá mà!
- Vâng, những năm qua tôi làm việc thiện dưới trần gian, nay mùa Giáng Sinh đã đến, tôi trở về xin quà Đức Maria rồi xuống dưới đó làm việc lành tiếp. Xin cảm ơn Ngài!

Ông già Noel đi qua khu vườn tuyệt đẹp, có nhiều loại hoa tươi. Lạ nhất là khi ông nhìn vào bông hoa nào thì có mùi hương của hoa đó thơm ngào ngạt quanh ông. Tiếng nhạc du dương làm ông thấy dễ chịu; đó đây có các thánh đang đi dạo, trò chuyện. Xuống trần gian làm công tác xã hội, tiếng ồn của xe, không khí nặng của rác rến, sự xô bồ của một vài thành phố lớn, lâu ngày làm cho ông quên đi cái cảm giác tuyệt vời ở Thiên Đàng này.

Ông già Noel đi thẳng đến tòa nhà bằng pha lê. Ở đây, có những căn nhà đẹp; có cái được làm bằng thủy tinh, có khi làm bằng cát; nhà của chị thánh Têrêsa Hài Đồng được kết bằng hoa hồng; nhà của thánh Phanxicô khó khăn lại được kết bằng lá buông như bao căn nhà lá vùng sâu vùng xa dưới trần gian, nhưng đi ngang qua thì thơm vô cùng; những quyển sách dày cộm được xếp lên thành nhà của thánh Augustinô, nhà của thánh Thomas cũng vậy.

- Kính chào Mẹ Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, con xin được viếng thăm Mẹ! À, cũng xin chào quí anh chị em đang ở đây.
- Ồ, cụ già Noel, rất vui được cụ viếng thăm!
- Mẹ đang làm bánh gì đó? Sữa, bột, trứng nhiều quá!
- Mừng sinh nhật Chúa cả thiên đàng cũng ăn bánh kem trong bữa tiệc lớn nữa chứ! Sữa để làm bánh ở đây bảo đảm là không có Melamine, còn trứng gà thì sạch rồi. Tôi và quí thánh nữ làm bánh thì chắc chắn là an toàn thực phẩm đấy!
- Hằng ngày Mẹ được nghe biết bao lời chúc tụng và cả hằng triệu triệu lời van xin cứu giúp, đã mệt rồi Mẹ còn làm bánh chi cho bận rộn.
- À, lời cầu nguyện đã được các Thiên Thần lưu vào siêu computer, đến giờ chúc tụng Chúa thì mở ra mà cầu bầu cho dân Chúa cụ ạ! Ở thiên đàng thì vẫn lao động bình thường cụ ạ! Cụ trở về đây lâu không?
- Con lên đây xin Đức Mẹ 500 phần quà như năm ngoái, mong Mẹ giúp. Trở về trần gian con vẫn tiếp tục đi với nhóm công tác xã hội BÔNG HỒNG XANH vào mùa Giáng Sinh, Tết Dương lịch, Tết Nguyên Đán 2009 này, và ở lại âm thầm làm việc thiện cho đến cuối năm ạ!
- Dù hằng ngày vẫn được nghe lời cầu xin của nhiều người nhưng vẫn thích nghe lời cụ tường thuật về tình hình nước Việt mến yêu.
- Dạ, dân Việt đang khốn khó vì lũ lụt, môi trường bị ô nhiễm, giá cả thực phẩm đắt đỏ, trẻ con vùng Đồng bằng sông Cửu Long bỏ học nhiều…con có mang theo USB nè, Mẹ mở máy ra coi đầy đủ chuyện trong đó.
Mẹ ơi, kinh tế thế giới năm nay ảm đạm quá, ngay cả nước Mỹ - một đất nước biết tạ ơn Thiên Chúa hằng năm - cũng đang gặp khó khăn, nhiều người bị mất việc làm… thế nên mùa Giáng Sinh này được nhiều hay ít quà, chúng con vẫn thấy vui ạ!
- Ô, kinh tế dưới trần gian có biến động thế nào chăng nữa thì lòng nhân ái vẫn đứng vững và rộng mở mà! Mẹ sẽ cầu bầu cho ông và nhóm Bông Hồng Xanh có quà, nhưng chuyển quà bằng cách nào đây?
- Dạ dạ, xin Mẹ chuyển qua độc giả VietCatholic ạ, và nhắn quí ân nhân có thể gửi vào địa chỉ này:

Vũ Thị Loan – Nhóm Bông Hồng Xanh
154/69 đường Phạm Văn Hai,
Phường 3, quận Tân Bình
Thành phố HCM – VIỆT NAM
Email: yeutrehepho@yahoo.com; yeutrebuidoi@yahoo.com
Điện thoại: 0985 279910

- Rồi cụ và các bạn trẻ sẽ đi đến những nơi nào? Quà phát ra sao?
- Dạ chúng con dự định đến Cần Thơ, Cà Mau, Kiên Lương (An Giang). Mỗi cháu sẽ được một áo mới, một quyển truyện tranh, một hộp bánh qui. Nếu quà được nhiều gấp đôi dự định, chúng con sẽ làm thêm các công tác bác ái khác nữa!
- Chà, vui đấy nhỉ! Thôi được rồi, Mẹ sẽ tác động thêm vào tấm lòng nhân ái của quí Cha, quí độc giả VietCatholic ở khắp nơi trên thế giới, nhớ tường thuật bài viết trên mạng nghen, các thánh cũng thích lắm đó, nhất là thánh Martinô và Phanxicô.
- Xin Mẹ cầu nguyện cho đất nước Việt Nam chúng con, luôn được an bình và hạnh phúc.
- Mẹ nhận được nhiều lời cầu xin và tạ ơn từ Việt Nam bay lên, nên cũng rất quan tâm. Chỉ mong mọi người siêng năng cầu nguyện để được ơn khôn ngoan từ Chúa Thánh Thần mà tiếp tục lữ hành nơi trần thế.
- Vâng, con xin cáo từ Mẹ. Kính chúc mẹ nhận được nhiều hoa hồng từ kinh Mân Côi.

Rời tòa nhà pha lê, ông già Noel bay chầm chậm, lướt dạo qua nhiều nơi. Thành phố trên thiên đàng sạch đẹp quá, không khói bụi, không va quẹt xe cộ, không phải chịu đựng nhau trong giao thông, chẳng có rác làm xốn con mắt…Nhiều vị thánh đi ngang nhìn bộ áo đỏ, nhận ra hình bóng quen thuộc liền cười chào mà ông không biết đó là ai, chỉ biết rằng mọi người ở đây đang hưởng hạnh phúc Thiên Chúa ban tặng sau cuộc sống tốt lành nơi trần gian.

Có tiếng hát của Thiên Thần vang nhẹ đâu đây. Có một quyển sách lớn để cạnh lối đi, ông mở một vài trang, mỗi trang có một chủ đề như y học, nghệ thuật, toán học, thiên văn…mà đọc không thể nào hết được. Ông thầm nghĩ: quả là thế giới của Thiên Chúa vô cùng, bao giờ loài người mới biết hết được những gì phi vật thể mà Đấng tạo hóa dựng nên.

Ông cảm thấy vui buồn lẫn lộn: buồn vì mấy ngày nữa phải xa thiên đàng vui vẻ này, còn vui vì công việc của ông luôn làm người nghèo được bớt khổ. Các thánh bây giờ hưởng thanh nhàn và cầu nguyện cho nhân thế, chỉ có ông là được trở lại trần gian mà tiếp tục đức mến của mình.
 
Nhóm Bác Ái: 'Tình thương mến thương' viếng Đất Thánh Đồng Nhi
Nguyễn Văn
05:52 29/11/2008
SAIGÒN - Nhân tháng Các đẳng linh hồn, nhóm "Tình thương mến thương" gồm các Anh Chị Em từ các giáo xứ khắp nơi (Thánh Mẫu, Cầu Kho, Chợ Đũi, Bình Triệu, Tân Phước, Chánh Toà Cần Thơ, Bàn Cờ, Vườn Chuối, Fatima, Phaolô (Tên Lửa). ...) cùng nhau tổ chức chuyến hành hương về viếng Đất Thánh Đồng Nhi và gắp gở chia sẻ vui chơi cùng các em Mồ côi khuyết tật trường Vi Nhân (Ban Mê thuột) Vinh Sơn 1, Vinh Sơn 2 (KonTum), Trại Phong (KonTum), và các em khuyết tật mồ côi tại Pleiku. .. trên vùng đất Tây Nguyên xa xôi. Với những đóng góp, hy sinh, việc làm. .. của mọi người để dâng lên Chúa cầu nguyện cho các Đẳng linh hồn.

Lời Chúa: "Anh em đừng quên làm việc thiện, giúp đở lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những hy lễ như thế." (Dt 13,16)

Chuyến công tác được thực hiện từ ngày 21 - 23/11/2008 và đã thành công tốt đẹp nhờ ơn Thiên Chúa và sự cầu bàu của Mẹ Maria.

Lạy Chúa ! xin cho chúng con ý thức rằng tất cả những gì chúng con có được: Tinh thần cũng như vật chất đều là của Chúa ban. Xin cho chúng con luôn biết quãng đại để trao lại cho những ai cần đến chúng con giúp đở. Xin cho chúng con được niềm vui mỗi khi chúng con mở rộng để chia sẽ cho người khác vì biết rằng chúng con đã làm được việc đẹp long Chúa. Amen.

 
Giáo xứ Thuận Nghĩa Bắc mừng Lễ Giỗ Thánh Vũ Đăng Khoa lần thứ 160
Trần Phúc Chính
06:53 29/11/2008
Giáo xứ Thuận Nghĩa Bắc mừng Lễ Giỗ
Thánh Vũ Đăng Khoa lần thứ 160 (24/11/1838 – 24/11/2008)


Đêm 23/11/2008: Khác với tập quán thường năm, chiều ngày 23/11/2008 đoàn người lũ lượt tuôn về vây quanh mộ Thánh để 18 giờ 30 niệm hương kính Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa, Linh mục tiên khởi và là vị Thánh tử đạo của giáo xứ Thuận Nghĩa. Khoảng 5000 người chăm chú nuốt từng lời tiểu sử của vị anh hùng. Sau niệm hương là Thánh Lễ Đồng Tế mừng các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Thánh lễ kết thúc, cuộc cung nghênh Hài Cốt Thánh Vũ Đăng Khoa bắt đầu. Một cuộc rước hào hùng và tôn nghiêm. Đoàn người tham dự đã tăng lên gấp đôi.

Xem hình ảnh

Lòng thành kính dâng cao, tâm tình sốt mến như sôi lên. Sở dĩ như vậy là vì đã 3 tháng sống trong tâm tình cầu nguyện cho Tổng Giáo Phận Hà Nội và Giáo Xứ Thái Hà, nay họ càng bị thúc bách về đây tiếp tục cầu nguyện, cách riêng người Công giáo Hạt Thuận Nghĩa. Đoàn rước nối dài từ mộ Thánh Khoa về Nhà Thờ Xứ Thuận Nghĩa, kéo ra đường 1A, rồi vào sân vận động mang tên Ngài. Tại đây gần một vạn người đã tập trung vào biểu ngữ trên phong lễ đài: “Hãy cầu nguyện cho công lý và hòa bình” và một chương trình cầu nguyện rất sốt sắng và ý nghĩa.

Lời hướng dẫn buổi cầu nguyện như sau: Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các vị mục tử trong Giáo hội và đặc biệt Hội Đồng GM Việt Nam cho chúng ta thấy viễn ảnh của xã hội hôm nay (của quan điểm của HĐGM Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay, ngày 25/9/2008). Xã hội ngày càng phát triển, kỹ thuật ngày càng tiên tiến để phục vụ các nhu cầu của con người tốt hơn, nhưng những phát triển và kỹ thuật tiên tiến ấy lại làm cho con người cảm thấy bất an và âu lo hơn. Vì sao vậy ? Thưa, Vật chất có thể làm cho con người được vui thỏa và hưởng dùng những thành quả ấy hầu làm cho con người được hạnh phúc và an bình hơn. Thế nhưng, con người hôm nay lại sử dụng những thành quả ấy vào những tham vọng, ích kỷ cá nhân, đời sống đạo đức luân lý bị tha hóa, bất chấp công lý, mua-tham chức quyền, tranh dành danh vọng, say mê tiền của, vui thú bất chính.

Đứng trước những tệ nạn xã hội: như sự bất công và vô trách nhiệm ngày càng tăng; nền đạo đức gia đình ngày càng mai một, nền giáo dục càng ngày xuống dốc, gian lẫn, tham nhũng, bảo hành, tội phạm, nạn phá thai ngày càng nhiều; môi trường sống ngày càng ô nhiệm; sống vô lý tưởng, sống thực dụng, bất chấp đạo nghĩa càng tràn lan.

Phải chăng những thực trạng trên đây là do chính những tham vọng ích kỷ của con người ? Phải chăng con người đã và đang đánh mất niềm tin, lương tâm con người bị tha hóa, hòa bình và công lý bị nhận chìm làm cho con người hôm nay bất an, và âu lo hơn ?

Xin Chúa Thánh Linh đến đổi mới cõi lòng mọi người, biến đởi lòng người chúng con, đổi mới trái đất chúng con thành miền đất mới, thành những tâm hồn mới. Xin Thánh Linh thổi lên trong tâm hồn mỗi người chúng con niềm tin vào tình thương của Chúa và chiếu sáng ngọn lửa yêu mến của Chúa vào nơi tăm tối của cuộc đời chúng con, để chúng con biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Thật vậy, chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là dấu chứng của tình yêu và của sự tha thứ. Chính Tình Yêu của Chúa Giêsu mới là niềm an vui và hạnh phúc đích thực. Khi Tình Yêu Chúa ngự trị thì thái bình mới thịnh trị; hòa bình công lý mới giao duyên.

Công bố Tin Mừng (Mt 18, 19-20) xong, cộng đoàn được gợi ý suy niệm như sau:

Hai câu Phúc âm của Thánh Matthêu chúng ta vừa nghe nhắc nhở chúng ta cần thiết phải cầu nguyện, để có Chúa ở giữa chúng ta, liên kết chúng ta nên một. Tôi xin gợi ý 3 điểm sau đây:

a/ Chúng ta cần có những buổi cầu nguyện chung

Phụng vụ là chức năng của tập thể, là bí tích của hiệp nhất. Khi tập thể cầu nguyện cùng lắng nghe Lời Chúa, cùng ca tụng cảm tạ Chúa, thì cá nhân cảm nghiệm được biến chuyển nội tâm, thêm lòng sốt mến. Có thể nói lòng sốt mến của cộng đồng bù đắp, nới rộng cho lòng sốt mến của mỗi cá nhân. Đàng khác, khi cộng đồng hợp lại vì danh Đức Kitô thì có Thiên Chúa ở giữa họ, một sự hiện diện của người Cha làm an lòng con cái. Tất cả những biến cố lớn nhỏ trong đời sống cộng đồng là những cơ hội để cùng nhau tạ ơn và khẩn nguyện Thiên Chúa là Cha yêu thương đầy quyền năng, để cùng nhau tỏ lòng tin tưởng vào Người. Vì thế trong đời sống cộng đồng, những vui mừng và khó nhọc, hy vọng và u buồn, những kỷ niệm… Tất cả đều là dấu hiệu tình thương ưu ái của Thiên Chúa. Lời nguyện chân thành nhất của ta chính là cuộc sống của ta. Mỗi cuộc sống được coi như một lời mời gọi biểu lộ lòng yêu mến, hiếu thảo đối với Thiên Chúa, chính là khi biết thể hiện tình huynh đệ với nhau.

b/ Chúng ta cần có những sinh hoạt chung

Đó là những buổi họp chia sẻ, trao đổi, những sự chỉ bảo cho nhau, nhằm phát huy sự tương thân tương ái và tình huynh đệ hiệp nhất. Thánh Âugustinô nêu lên một châm ngôn cho thái độ phải có trong sinh hoạt cộng đồng: “nhất trí trong điều chính, tự do thương lượng nhau trong điều phụ, bác ái trong mọi sự.”.

c/ Chúng ta cần phát huy tinh thần hiệp nhất trong cộng đồng

Hiệp nhất là điều Đức Kitô tha thiết, là điểm nổi bật trong di chúc của Người. Đối với cộng đồng Công giáo, hiệp nhất là hồng ân của Thiên Chúa ban, cũng là kết quả của việc mọi người khắc phục những gì phân rẽ, như những dị biệt về cá tính, về tuổi tác, quan điểm, xu hướng…

Sự hiệp nhất đích thực của cộng đồng hệ tại sự hiệp nhất của tinh thần, tư tưởng, tình yêu với sự nâng đở của Chúa Thánh Thần. Một cộng đồng hiệp nhất thật sự là khi tất cả các phần tử trong cộng đồng đều có một ý tưởng, một quan điểm, một nguyện vọng trong Chúa Giêsu Kitô, đến nổi khi có ai đó thấy một người trong cộng đồng, thì cũng biết được những người kia nữa.

Để khắc phục những phân rẻ cần theo phương châm của Thánh Âugustinô: “phải có tinh thần đối thoại”. Thái độ của tinh thần đối thoại là cởi mở và biết lắng nghe với khối óc và con tim để chia sẻ quan điểm cảm nghĩ của nhau; là hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, để tạo hòa khí cho sự thông cảm, trao đổi, hòa hợp; là trong sáng và trung thực, không ác ý, thâm độc; là khôn ngoan bén nhạy để hiểu biết nhu cầu và hoàn cảnh của nhau… Cộng đồng có hiệp nhất thì mới thật sự trở thành một trợ lực, một ngọn đèn soi sáng sưởi ấm người khác.

Xem giữa các tiết mục suy niệm, cầu nguyện, chia sẻ... là những bài thánh ca giúp nâng tâm hồn lên.

Hôm nay giáo xứ Thuận Nghĩa dâng lời cầu nguyện với 5 ý chỉ như sau:

1. Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp cho các thành phần trong Hội Thánh, biết tôn trọng và sử dụng những giá trị Tin Mừng vào trong các tôn giáo và trong các nền văn hóa, để trình bày Tình Yêu của Chúa cho mọi người qua đời sống chứng tá của mình.
2. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hướng dẫn những nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới biết hiệp thông với nhau, để họ luôn đem công lý và hòa bình cho mọi người.
3. Lạy Chúa Thánh Thần, chỉ có sức mạnh của Ngài mới đem lại bình an đích thực cho thế giới, - xin cho chúng con nên những người kiến tạo hòa bình.
4. Lạy Chúa Thánh Thần, Ngài là nguồn mạch của Tình Yêu, là Nguồn Sáng cho trần gian, - xin cho ánh sáng công lý bừng lên trên khắp mặt đất này, để dân Chúa được thấy cảnh thái bình thịnh vượng.
5. Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho tất cả chúng con đang tụ họp nơi đây, biết hiệp nhất và dùng mọi ân huệ Chúa ban, để phục vụ cho công lý và hòa bình.

Kết thúc buổi cầu nguyện, cộng đoàn hát Kinh Hòa Bình.

Sáng ngày 24/11/2008: 7 giờ 30 rước Bằng Khen Giáo Phận thưởng cho giáo xứ Thuận Nghĩa đạt giải nhất giáo lý năm 2007 – 2008, tại Quảng Trường Thánh Vũ Đăng Khoa.

Từ mờ sáng đoàn người tiếp tục tuôn về đây. Lượng người trước giờ khai lễ khoảng hơn hai vạn đủ các thành phần (có cả người không tin, trong đó có cả kẻ chống đối). Đức Giám Mục Phaolô Maria Cao Đình Thuyên chủ tế Thánh Lễ.

Sau Phép Lành Kết Lễ, tất cả lại từ từ xếp vào đoàn, rước Hài Cốt Thánh Vũ Đăng Khoa về đền Thánh theo đường rước hôm qua. Kết thúc bằng bài hát Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Át-xi-di.

‘Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi người. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen’.
 
Mùa Vọng 2008 - Mùa Xuân Hy Vọng - Với Trái Tim Người Mục Tử
Lm Francis Lý văn Ca
17:40 29/11/2008
Mùa Vọng 2008 - Mùa Xuân Hy Vọng - Với Trái Tim Người Mục Tử

Mùa Xuân Mới đang đến khi toàn thể Dân Thánh Chúa cùng với Giáo Hội Hoàn Vũ bắt đầu Mùa Vọng 2008 - Mùa Xuân Mới - của Giáo Hội Lữ Hành.

Trong những ngày gần đây - trên trang Vietcatholic.Net - tôi có dịp đọc những ‘Tâm Tình’ kể cả những ‘Ưu Tư Khắc Khoải’ chứa đựng trong Những Lá Thư Mục Vụ Mùa Vọng của Những Vị Mục Tử Việt Nam, của Giáo Hội Mỹ, Anh Quốc, Âu Châu… tôi cũng xin được đóng góp những ‘Ưu Tư Nhân Ái’ của một Vị Mục Tử dù không phải là Việt Nam nhưng với trái tim nặng ‘Nghĩa Tình’ Việt Nam nên đã mở rộng vòng tay ‘Nhân Ái’…

Mục Tử Huynh Đệ & Nhóm Hành Hương
Phái đoàn của chúng tôi gồm 11 người lên đường … tham quan Giáo Hội Việt Nam. Trong số nầy gồm có: Vị Mục Tử của Tổng Giáo Phận Perth, Tây Úc; Đức Tổng Giám Mục (ĐTGM) Barry James Hickey, 1 Bác Sĩ Việt Nam và số còn lại là người Úc… Đây là lần thứ 3 ĐTGM Barry Hickey viếng thăm Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam...

Chuyến đi của ĐTGM Hickey lần nầy chỉ vỏn vẹn trong 6 ngày, cho dù với thời gian ngắn gọn, nhưng với trái tim quảng đại của Người Mục Tử đã không hạn hẹp hay chối từ những nhu cầu hay ước mơ của những nơi mà Người Mục Tử có dịp viếng thăm.

Buổi thăm viếng đầu tiên tại Trung Tâm Mục Vụ của Giáo Phận Xuân Lộc, Ngài có dịp gặp gỡ Quý Đại Diện của các Hội Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam đang tham dự Đại Hội. Chính nơi đây, Ngài đã mở một ‘Cánh Cửa Nhỏ’ cho Các Chị Em của mỗi Hội Dòng là Ngài sẵn sàng tài trợ một ngân khoảng nào đó cho các chị em của Hội Dòng để đưa nhân sự sang Tây Úc tham dự những khóa học chuyên môn như Nhà Trẻ, Khuyết Tật, Giáo Dục, Thần Học… để về phục vụ Hội Dòng theo nhu cầu… Một điều kiện ‘Duy Nhất’ mà Ngài đã yêu cầu là ‘Đương Sự Phải Biết Anh Ngữ’ thì Ngài mới chấp nhận…
Ghi Dấu Bước Chân Lữ Hành


Tính cho đến hôm nay, theo tôi được biết là đã có 5 Hội Dòng đã được Ngài chấp thuận tài trợ giúp đỡ hiện kim để thực hiện những ‘Dự Án Tại Địa Phương’ hay ‘Nhu Cầu’ ở quê nhà hoặc nhận giúp đỡ kinh phí tài chánh - kể cả nơi ăn chốn ở - khi họ sang Tây Úc Tu Nghiệp hay Du Học. Như vậy số Nữ Tu sẽ sang Tây Úc trong năm 2009 khoảng từ 8 đến 10 Chị Em…

Bước chân của Người Mục Tử Tổng Giáo Phận Tây Úc đã không ngừng thăm viếng tiếp những cơ sở của Các Hội Dòng khác nhau, Chủng Viện, Nhà Thờ Chính Tòa, Giáo Xứ, Tu Viện… từ thành phố đến thôn quê xa xôi hẻo lánh… đôi lúc phương tiện duy nhất là phải đi bộ vì đường xá khó khăn xe không thể chạy vào đến nơi đó được.

Tấm Lòng Nhân Ái Mục Tử
Chúng tôi đã theo bước chân của Người Mục Tử đến thăm một trung tâm của các em khuyết tật được các Nữ Tu Đa Minh coi sóc… chính Ngài đã đón nhận những bông hoa do những em bé khuyết tật trao, để đáp lại Ngài cũng tặng các em những đồ chơi mà đoàn của chúng tôi đã ‘quyên góp’ hoặc chính Ngài đã giúp mang theo cùng với hành lý của Ngài vì chúng tôi đã cố gắng giảm thiểu tối đa số hành lý cá nhân để có thể mang theo được ‘Tối Đa’ quà cho các em theo số lượng hành lý được mang theo đoàn.

Trên đoạn đường ra phi trường để về lại Úc ngày cuối cùng của cuộc hành trình 6 ngày… Ngài muốn đến thăm một vài Linh Mục đang an dưỡng ở nhà Hưu Dưỡng Chí Hòa… Thật phải nói: “Tình Huynh Đệ Khắn Khít” khi Ngài ngồi trên chiếc giường cá nhân nhỏ bé của 1 linh mục anh em đã cùng Ngài gặp nhau và học chung tại trường Truyền Giáo Rôma. Tình bằng hữu hơn 50 năm vẫn keo sơn dù hoàn cảnh của Quê Hương Việt Nam đôi lúc không thể liên lạc được… Nhưng ĐTGM Hickey không bao giờ quên bằng hữu của mình qua thư từ liên lạc thường xuyên và nhất là cả 3 lần Ngài sang Việt Nam, Ngài luôn đến thăm những bạn hữu của Ngài đang ở bất cứ nơi đâu và ngay cả những bạn đang an dưỡng trong những ngày cuối đời Linh Mục.
‘Đồng Liêu Khắn Khít


Ngoài những nghĩa cử ‘Nhân Ái của Nguời Mục Tử’ trên đây, chúng tôi còn thấy một điểm son nữa là Ngài Nhận Tài Trợ Học Bổng giúp những Linh Mục - Trong Suốt Thời Gian - sẽ được gửi sang Tây Úc Du Học hay Tu Nghiệp.

Theo tôi được biết là sau khi đã về Úc, Ngài đã tham khảo ý kiến với Đại Học Notre Dame of Australia ở Perth là xin Đại Học giúp 50% học phí từ Đại Học. 50% còn lại là của “Tổng Giáo Phận” hay của “Tổng Giám Mục” Tây Úc trang trải? Tôi phải để trong “ngoặc kép” vì không biết chắc chắn là từ quỹ nào trong 2 quỹ nầy.

Có khoảng từ 8 đến 10 Linh Mục từ Việt Nam sẽ sang Tây Úc trong năm 2009 để tham dự các khóa học tại Notre Dame of Australia. Theo như dự trù là các Linh Mục nầy sau vài tuần nghi ngơi giữa ‘Những Đồng Hương Việt Nam’ tại Perth sẽ được ‘Phân Tán Mỏng’ đi các vùng chỉ có bóng hình ‘Kangaroo’ để luyện giọng ‘Kangaroo’ cho nhuần nhuyễn. Tạm thời quên ‘mắm tôm dưa giá…’ Việt Nam. Sau đó sẽ tham dự những khóa học và cuối tuần về lại những giáo xứ của địa phương để phục vụ ‘Dân Thánh Chúa Kangaroo’ đây có thể nói được như là một nghĩa cử ‘Ơn Đền Nghĩa Trả’ nhẹ nhàng…
Chia Sẻ Tình Thân Mục Tử


Bước chân Người Mục Tử Tây Úc đã dừng chân trên phần đất của Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam cho dù chỉ vỏn vẹn 6 ngày trong lần thăm viếng thứ 3 nầy, nhưng qua những sự ‘Hiếu Khách Đậm Đà’ của Những Vị Mục Tử Việt Nam, những ‘Ưu Ái’ của Quý Linh Mục, Tu Sĩ, Hội Dòng và Giáo Dân Việt Nam, cho nên, theo chúng tôi nghĩ phần nào đó cũng có thể gọi được là “Có Qua Có Lại - Ơn Đền Nghĩa Trả” đối với Giáo Hội Mẹ Việt Nam của chúng ta cho nên ĐTGM Hickey đã quyết định thực hiện những việc làm quảng đại cụ thể nầy trong tương lai …

Ngoài ra, tôi cũng được biết thêm là Ngài cũng đã nhận giúp đỡ những Linh Mục hay Tu Sĩ từ Miền Bắc Việt Nam sang Tây Úc Tu Học hay Tu Nghiệp trong tương lai. Một vài Linh Mục Việt Nam cũng đã tự bảo trợ hay tìm các nguồn tài chánh khác nhau hoặc của cá nhân để đưa anh chị em tu sĩ hay bạn bè sang Perth Tu Nghiệp. Bằng chứng cụ thể nhất là đã có 2 Nữ Tu thuộc Dòng Đa Minh đã từ Việt Nam sang Perth gần 3 tuần nay qua tấm lòng quảng đại của một Linh Mục Việt Nam trong TGP Perth đã lo giấy tờ bảo lãnh… đi kèm với học phí và nơi ăn chốn ở…

Nếu như các Anh Em Linh Mục Việt Nam - không hạn hẹp ở tại Tổng Giáo Phận Perth, Tây Úc - với điều kiện ‘Nhà Xứ hay Giáo Xứ’ cho phép có thể nhận đỡ đầu cho 1 Linh Mục hay Tu Sĩ từ Giáo Hội Mẹ Việt Nam sang…. Tu Nghiệp như Tổng Giáo Phận Perth hiện nay. Chúng tôi nghĩ Anh Em Linh Mục có thể trình bày vấn đề nầy với Đấng Bản Quyền Địa Phương… theo thiển ý của tôi thì Các Ngài sẽ nối vòng tay yêu thương để giúp Anh Em Linh Mục chúng ta được nguyện ước. Nhưng tất cả đều phải khởi sự từ tấm lòng ‘Rộng Mở’ của chính mỗi người nơi chúng ta trước.

Như việc làm của chúng tôi cũng khởi sự từ khả năng nhỏ bé hạn hẹp của mình…. Gợi ý với Đấng Bản Quyền… tạo cơ hội… cảm thông… chia sẻ và quyết định vẫn là về phía Đấng Bản Quyền. Chẳng hạn, ĐTGM Hickey, khi nghe chúng tôi trình bày về vấn đề giúp Linh Mục Tu Sĩ từ Việt Nam sang Úc Tu Nghiệp hay Tu Học thì câu hỏi đầu tiên Ngài sẽ hỏi là họ sang Tây Úc sẽ ở đâu? Nếu chúng ta giải đáp được nơi ăn chốn ở thì Ngài sẽ hướng đến học bổng. Như kinh nghiệm cho thấy vấn đề học bổng cho các Linh Mục và Tu Sĩ Việt Nam thì Ngài cũng đã ‘XIN TRỢ GIÚP 50%’ từ phía Đại Học Notre Dame of Australia và Ngài giúp 50% phần còn lại.

Thất đáng quý thay sự quảng đại của Anh Em Linh Mục Việt Nam tại Perth, Tây Úc đã và đang nối vòng tay lớn để giúp đỡ Giáo Hội Mẹ Việt Nam nơi Quê Nhà bằng cách nầy hay cách khác.

Tính đến những ngày Kết Thúc Năm Phụng Vụ 2008 thì số Linh Mục và Tu Sĩ tại Perth khoảng 25 người. Nhưng nếu qua ý “Chúa Quan Phòng” và “Lòng Nhân Ái” của ĐTGM Hickey - Vị Mục Tử của TGP Perth - được hoàn thành tốt đẹp thì Mùa Xuân Mới - Mùa Vọng 2008 - TGP Perth, Tây Úc sẽ lần lượt chào đón những ‘Người Con’ của Giáo Hội Mẹ Việt Nam sẽ lần lượt đến Thủ Phủ Tây Úc trong Năm Mới 2009. Nếu được như thế thì con số Linh Mục và Tu Sĩ Việt Nam tại Perth sẽ tăng lên Gấp Đôi (50) trong Năm Thánh Phaolô - 29.6.2008-29.6.2009 - Kỷ Niệm 2000 năm thánh nhân đã sinh ra.

Trong tháng 12 nầy Người Mục Tử Barry James Hickey sẽ mừng kỷ niệm 50 Linh Mục 20.12.1958 - 20.12.2008. Lễ Phong Chức Linh Mục 50 năm đã qua cùng với 1 trong những Linh Mục Bạn của Ngài ở Việt Nam. Tôi viết bài nầy cho dù bằng ngôn ngữ Mẹ Việt Nam, nhưng với tâm tình Tri Ân Vị Mục Tử của tôi cách riêng mà Ngài đã và đang dành cho Giáo Hội Mẹ Việt Nam thân yêu nhiều ‘Nghĩa Tình’. Hiệp dâng lên Thiên Chúa tâm tình Tri Ân và Cảm Tạ cùng với toàn Tổng Giáo Phận nhân ngày ‘Hồng Phúc’ của Ngài và cũng Kính Dâng về Cha Trần Phúc Nhân OP, vị ‘Sư Phụ’ kính yêu nơi Quê Nhà những lời nguyện cầu và cảm tạ Hồng Ân 50 Linh Mục.
50 Năm Hồng Phúc Tao Ngộ


Như vậy Niềm Vui Mới không những chỉ đến với Tổng Giáo Phận Perth trong Mùa Vọng Mới 2008 - Mùa Xuân Mới của Giáo Hội - nhưng có thể sẽ có thêm những Niềm Vui kế tiếp mà Chúa sẽ ban xuống chan hòa trên Dân Thánh của Ngài, dành cho những ai biết ‘Mở Rộng Tâm Hồn’ đáp lại những ‘Thao Thức-Băn Khoăn’ của những Vị Chủ Chăn Việt Nam qua những tâm tình được trình bày qua những Lá Thư Mục Vụ Mùa Vọng về ‘Hoàn Cảnh Đau Thương’ của Quê Hương Dân Tộc hiện nay… thì tâm hồn của chúng ta sẽ được ‘Bình An-Thư Thái’ như lời Thiên Thần Hoan Chúc trong đêm Chúa Giáng Trần: “Bình An Dưới Thế Cho Người Thiện Tâm”

Mùa Vọng 2008 - Mùa Xuân Mới của Giáo Hội

Năm Thánh Phaolô

Holy Family Parish, Maddington

Miền Tây Úc Châu
 
Đại Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Giáo Xứ CTTĐ Arlington, VA
Bùi Hữu Thư
22:11 29/11/2008

Đại Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Giáo Xứ CTTĐ Arlington, VA



Arlington, VA ngày 28 tháng 11, 2008:
Giáo xứ CTTĐVN Arlington VA đã hân hoan mừng kính các Thánh Tử Đạo là quan thầy của giáo xứ vào ngày thứ sáu 28/11/08. Từ hai ngày trước, các thiện nguyện viên đã trang hoàng cờ ngũ sắc khắp khuôn viên giáo xứ, cắm bông trong nhà thờ, chuẩn bị ba cỗ kiệu: Kiệu Thánh Gia do các anh Liên Minh Thánh Tâm khiêng, Kiệu Đức Mẹ La Vang do các Bà Mẹ Công Giáo Phụ trách, và Kiệu Các Thánh Tử Đạo do các hiệp sĩ Đoàn 9655 khiêng vác. Các em Thiếu Nhi Đoàn Thánh Tâm tập dượt vở kịch Thánh Tôma Thiện và màn vũ sau kịch thánh. Đoàn Hiệp Sĩ 9655 cũng lấy quan thầy là CTTĐ đã huy động toán dàn chào 12 vị trong bộ đồng phục đệ tứ đẳng, với nón Napoleon, gù vai, áo choàng và kiếm. Dưới hội trường, sân khấu và phông cảnh cũng như bàn ghế cũng được sắp xếp ngay từ sáng thứ sáu. Các hội đoàn và cá nhân cũng được kêu gọi cung cấp các món ăn cho tiệc liên hoan mừng các thánh sau thánh lễ.



Đúng 6 giờ chiều cha chủ tế xông hương ba cỗ kiệu và tất cả giáo dân bắt đầu tiến ra khỏi nhà thờ để đi rước kiệu chung quanh bãi đậu xe. Nhờ Chúa thương, trời không mưa và không có gió lạnh. Khi đoàn kiệu trở lại bên trong nhà thờ, các em Nghĩa Sĩ Thiếu Nhi Thánh Thể bắt đầu trình diễn vở kịch Thánh Tôma Thiện, người bị quan cho lính thắt cổ chết vì không chịu bước qua thập giá. Cuối màn kịch là màn thánh vũ của các em gái trước cung thánh. Các em đã trình diễn hết sức thành công với y phục, cờ xí, phông cảnh đầy đủ.

Thánh lễ có sự đồng tế của quý cha xứ, hai cha phó, cha khách Ngô Văn Bao, hai thầy phó tế Kiên và Sơn, Ngoài ra còn có sự hiện diện của thầy Đức và các sơ Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt. Sau khi rước lễ, ông Bùi Hữu Thư đại diện Hội Đồng Mục Vụ lên cám ơn Thiên Chúa, cám ơn CTTĐVN đã giúp cho hạt giống đức tin nẩy mầm và lớn mạnh trong giáo xứ trên miền đất mới. Ông cũng cám ơn tất cả sự đóng góp của các thiện nguyện viên, hội đoàn, ban ngành đoàn thể đã chuẩn bị và cung cấp thức ăn cho ngày mừng kính các thánh Việt Nam, đặc biệt là Ca Đoàn Thánh Gia đã giúp cho thánh lễ thêm phần long trọng và sốt sắng với các bài thánh ca. Ông cũng nhắc đến các hội đoàn trong giáo xứ đã chọn quan thầy là một trong 118 vị thánh tử đạo Việt Nam: Đoàn HS 9655 với toàn thể các thánh, Hội Cao Niên với thánh Phêrô Lê Tùy, Huynh Đoàn Đa Minh với Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm, Ca Đoàn Anê Lê Thị Thành với Bà Thánh Đê, Đoàn Thanh Sinh Công với Thánh Andrê Phú Yên.

Cha xứ Nguyễn Đức Vượng cũng tiếp lời để cảm tạ quý cha, thầy sơ đã đến dâng thánh lễ, và cám ơn sự hy sinh đóng góp và lòng hảo tâm của các ban ngành đoàn thể và thương gia cho tất cả chương trình mừng kính các Thánh Tử Đạo, quan thầy giáo xứ. Cha cũng mời mọi người xuống chung vui dưới Câu Lạc bộ giáo xứ.

Sau khi được hôn kính xương các Thánh, mọi người đã xuống Hội Trường tham dự bữa tiệc liên hoan và ca hát Karaoke đến 10 giờ tối. Một trong các ca sĩ giúp vui là cha khách Ngô Văn Bao, cha xứ của một giáo xứ Khmer bị trục xuất khỏi Cambuchia năm 1970. Cha đã trinh bầy bài “Tình Yêu Thiên Chúa.”

Nguyện xin Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tiếp tục cầu bầu cùng Chúa cho giáo xứ chúng con ngày thêm vững mạnh trong đức tin, cậy và mến, để giáo xứ thăng tiến trên đường nhân đức mỗi ngày một hơn.

Đoàn Liên Minh Thánh Tâm
Toán Dàn Chào HSĐ 9655
Ca Đoàn Thánh Gia
Quý cha thầy đồng tế
Dâng Mình Thánh
Hôn Xương Thánh
Quanh Cảnh Hội Trường


Cha Bao và cha Xứ đồng ca Tình Yêu Thiên Chúa
Các Bà phụ giúp ẩm thực trong bếp
 
Khánh thành nhà thờ Gio Linh, Phan Thiết
LM. Nguyễn Hữu An & Anh Quy
23:01 29/11/2008
LỄ KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ GIO LINH - PHAN THIẾT

Ngày 29.11.2008, Đức Giám Mục Phan thiết, Phaolô Nguyễn Thanh Hoan cùng đồng tế với 60 linh mục, đã cung hiến Thánh đường Giáo xứ Gio Linh, Hạt Hàm tân. Trời âm u, mưa ảm đạm những ngày qua do áp thấp nhiệt đới. Bởi tình mến thương nên có đông đảo tu sĩ nam nữ và khoảng 3.000 giáo dân cùng đội mưa gió đến chung lời tạ ơn. Các linh mục và ân nhân xa gần đến Gio linh để chia sẽ niềm vui với bà con giáo dân và chúc mừng Cha quản xứ Philipphê Lê Trọng Phan, ngài đã 73 tuổi, vẫn miệt mài xây dựng, hoàn thành ngôi Nhà thờ và nhiều công trình khác; thật đáng khâm phục lòng nhiệt thành với Nhà Chúa của cha già.

Môt chặng đường dài hơn 36 năm kể từ mùa hè đỏ lửa 1972, trải qua bao gian khó nhọc nhằn, nay Gio Linh đã có Ngôi Nhà thờ mới khang trang bề thế, một trang sử mới đựơc mở ra nơi miền đất cát cằn cỗi gió bay.

Giáo xứ Gio linh có gốc gác từ Tỉnh Quãng Trị. Những tín hữu di cư vào Nam tránh đạn bom qua hai cuộc chiến ác liệt nhất: Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Trung Lương và Gio Linh nằm ở địa đầu giới tuyến 17, ven sông Bến Hải, ranh giới chia cắt Nam Bắc. Dân chúng ở đó gánh chịu những trận bão pháo mưa đạn của cả hai bên Cộng sản và Cộng hoà. Từ năm 1966 bà con rời bỏ quê hương, đến tỵ nạn ở Cam Lộ, một số giáo dân đến định cư ở Hà Thanh, Quán Ngang. Chiến tranh từ 1968 đến 1972, lan rộng và dữ dội, dân Quãng Trị di tản vào thành phố Đà Nẵng, sống tạm trong những trại tỵ nạn.

Thánh đường Gio Linh
Năm 1973 đoàn người tỵ nạn lại lên đường vào Nam. Định cư tại vùng đất Bình Tuy với ước mơ an cư lạc nghiệp. Chiến tranh để lại những nổi đau thương mất mát. Nhiều gia đình trắng tay vì ly loạn, phải bỏ đi tất cả để mong đựơc sống. Nhiều mất mát tang thương, cha mẹ mất con cái, vợ chồng mất nhau, anh em trong gia đình thất lạc.

Di dân từ Quãng Trị vào Nam tập trung vào ba địa phương chính: Đông Hà, Động Đền và Sơn Mỹ. Các Linh mục cùng đồng hành với giáo dân trên hành trình di tản, lập nên các giáo xứ mới: Thánh Linh, Đông Hà, Tin Mừng, Phục sinh và Gio linh.

Năm 1974, cha cố Phaolô Trương Công Giáo di cư cùng đoàn người tỵ nạn. Ngài quy tụ các giáo hữu tản mác từ nhiều nơi hợp với giáo dân gốc Quán Ngang của ngài rồi lập thành giáo xứ mới lấy tên là Gio Linh. Số giáo dân lúc này là 2000. Cha xứ cùng bà con bắt tay làm Nhà thờ. Rừng bạt ngàn. Đất bao la nhưng toàn cát trắng. Gần một năm, ngôi nhà thờ gỗ sắp hoàn thành thì biến cố 1975 làm thay đổi tất cả.

Nhiều gia đình bỏ miền đất này đi lập nghiệp nơi khác. Một số tìm đường “vượt biên” tìm tự do. Đất cát khô cằn. Cuộc sống quá khó khăn.Dân chúng bắt đầu phá rừng, bán củi, đốt than, làm rẫy để sinh sống. Mấy mươi năm định cư nơi đây mà đời sống người dân không nhích lên nổi. Trong nhà, phương tiện duy nhất để làm ăn là chiếc xe đạp thồ, thồ cây gỗ từ rừng về và thồ than củi đi Lagi bán. Năm 1983, cha già Giáo đến tuổi hưu. Đức Cha Nicolas bổ nhiệm cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Vân Nam làm quản xứ. Sống hoà mình với dân nghèo, cha xứ làm vườn, làm nghề chằm nón để sinh sống. Cuộc sống chật vật thiếu thốn mà ấm áp tình cha con. Đến năm 1990, ngài sửa chữa lại nhà thờ, tô tường, tráng nền ximăng, sơn sửa mái tôn, làm lại dàn kèo cột, đóng trần.

Tháng 6 năm 1994, Đức Cha Nicolas bổ nhiệm cha Philipphê Lê Trọng Phan về làm quản xứ. Cha Nam lên Cù Mi nhận nhiệm sở mới.

Bước đầu, cha xứ mới kêu gọi giáo dân tập trồng cây tràm khắp khuôn viên giáo xứ rộng 4ha. Vườn tràm đem lại màu xanh sức sống, toả bóng mát cho giáo xứ. Nhờ vườn tràm, giáo xứ là dàn giáo và đóng mới toàn bộ ghế quỳ trong nhà thờ.

Ngày cung hiến thánh đường Gio Linh
Năm 1998, cha xứ xây nhà xứ.

Năm 2003, xây nhà giáo lý, xây nhà trẻ, mời các Nữ Tu Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết về giúp giáo xứ, mở nhà trẻ.

Nhà thờ xuống cấp trầm trọng. Mùa mưa nước tràn vào khắp nơi. Đức Cha Nicolas khuyến khích xây lại mới. Giáo xứ nghèo nên lo ngại vì kinh phí quá lớn. Tuy vậy, tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa, thì “mọi sự đều có thể làm được”. Đó là động lực để cha xứ và cộng đoàn chung tay xây nhà thờ mới.

Ngày 28. 4.2006, lễ đặt viên đá đầu tiên. Sau đó, tháo gỡ nhà thờ cũ, xây nhà kho, làm nhà thờ tạm.

Ngày 6. 11.2006, khởi công xây dựng. Điều đáng kính nể là nhà thờ đổ mái bêtông mà giáo xứ tự làm lấy từ công giáo dân. Mua sắm máy móc và dụng cụ thi công. Nhờ Kỹ sư Hòa ở xứ Đồng Tiến và kỹ sư Mười ở Sài gòn giám sát thi công. Bà con giáo dân đóng góp công lao động ròng rã hai năm, khoảng năm ngàn ngày công. Sự lao nhọc vì nhà Chúa như chất keo gắn bó mọi người lại trong tình hiệp nhất chung tay xây Nhà Chúa.

Cuối năm2007, vật giá trở nên bất ổn. Năm 2008, giá cả leo thang từng ngày, giá sắt tăng dần lên gấp bốn, ximăng lên gấp đôi, tiền lương công thợ cũng lên gấp đôi. Cha xứ đầu bạc phơ vì quá lo lắng.Nhờ sự trợ giúp của Bộ Truyền giáo, Giáo phận Stuttgar, Đức, tổ chức Koch Foundation, Mỹ và nhiều ân nhân, nên giáo xứ đã hoàn thành ngôi Nhà Thờ khang trang.

Ngày cung hiến thánh đường Gio Linh
Gio linh, một giáo xứ miền biển. Ngày đêm sóng vỗ hoà quyện trong tiếng chuông, đan xen trong lời kinh tiếng hát sáng tối của cộng đoàn làm nên một nét rất riêng tư của xứ đạo miền quê vùng duyên hải. Cùng với Ngôi Nhà Thờ mới bề thế, Giáo xứ Gio linh đã làm nên một cộng đoàn đức tin sống động, hiệp nhất yêu thương đưa xứ đạo ngày càng phát triển.

Trong bài phỏng vấn ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh về Thượng Hội Đồng Giám Mục và Giáo Hội Việt Nam (VietCatholic 02/11/2008), phóng viên đặt câu hỏi:

Với tinh cách Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức cha đã tham dự mục vụ ở nhiều nơi: Lavang, Phát diệm, Sài gon, …theo Đức cha, hình ảnh nào diễn tả người công giáo Việt Nam hiện nay một cách trung thực hơn cả?

Đức Cha Linh trả lời: “Hình ảnh trung thực” hơn cả, đó là một khái niệm có tính cách tương đối. Tương đối bởi vì nó hoàn toàn tuỳ theo quan điểm riêng của mỗi người. Theo chủ quan của tôi, hình ảnh diễn tả người công giáo Việt Nam hiện nay trung thực hơn cả là hình ảnh một người giáo dân đang tham gia công trình xây dựng nhà thờ: không hận thù, tạm quên việc sinh kế, hết lòng vì Nước Chúa, vì Giáo Hội…

Cầu chúc cha xứ và giáo dân Giáo xứ Gio linh với ngôi Nhà thờ mới đẹp đẽ, và lòng người cũng mới để mỗi người tín hữu xây dựng đền thờ tâm hồn xứng đáng cho Chúa ngự.

Vô Nhiễm 30.11.2008

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thi sĩ Anh Quy, thành viên HĐMV Gio Linh đã viết bài thơ “Xứ Tôi”, gói trọn lịch sử giáo xứ.

XỨ TÔI

Xứ tôi thành lập đã lâu rồi

Ba lăm năm trời giáo phận ghi tên

Xứ tôi tên xứ Gio Linh

Là tên quận cũ của niềm Trung xa

Xứ tôi có gốc từ xưa

Kề sông Bến Hải, rồi vô trong này

Lý do tám mốt đêm ngày

Chiến tranh bom đạn dân này phải đi

Thoạt đầu ngỡ tạm chia ly

Sẽ về lại chốn cắt bì cha ông

Nhưng rồi số phận long đong

Chiến tranh chưa dứt phải tìm sinh nhai

Vậy là từ năm bảy hai

Xứ tôi khó khăn đường dài đến đây

Đầu tiên sự chuyện như vầy:

Cha Giáo là thầy dẫn dắt đoàn chiên

Ngày có cơm áo gạo tiền

Ấy là công việc chính quyền cho dân

Còn Ngài là bậc tu thân

Nên việc tinh thần Ngài phải lo toan

Giáo dân ngày ấy hai ngàn

Nên phải đàng hoang xây dựng nhà Cha

Công việc ngày ấy rất là

Thuận trên, thuận dưới, thuận ta, thuận người

Vẫn không ngại ý Chúa Trời

Công việc chưa rồi, thống nhất miền nam

Thế là mọi việc dỡ dang

Phải để nửa chừng cho đến tám hai

Ấy là thời gian nổi trôi

Nhà thờ chưa rồi, gánh chụi nắng mưa

Giáo dân lúc ấy gần thưa

Nông trường, kinh tế còn thưa một phần

Đếm lại còn hơn ngàn dân

Là số ở lại nghèo nàn tả tơi

Tháng ngày hai bữa sắn, khoai

Đốt than, làm rẫy sinh nhai qua ngày

Tám ba năm ấy như vầy:

Cha Giáo già rồi nên phải nghĩ hưu

Cha Nam số phận hẩm hiu

Đức Cha đưa vào chánh xứ Gio Linh

Mở màn công việc đầu tiên

Xúc đất, đỗ nền nhà Chúa lâu năm

Cưa ván chắn cửa đàng hoàng

Để khi mưa, nước khỏi tràn vào trong

Chánh xứ đâu việc vài năm

Ngài cũng tìm nguồn tài trợ xa xa

Đem về tu sưả nhà thờ

Xây lại nhà xứ lại vừa giúp dân

Làm xong chưa được bao năm

Lệnh thuyên chuyển xuống, Ngài đành ra đi

Ngài lên ở xứ Cù Mi

Gio Linh ở lại, nhận thì cha Phan

Lòng ngài rất đổi bình an

Đến xứ nghèo nàn mà chẳng kêu ca

Dần già năm tháng trôi qua

Lúc ấy thật là khó nhọc nơi đây

Bước đầu ngài đã trồng cây

Để cho chắn gió khỏi bay cát vào

Từ trên bờ đất, bờ ao

Chẳng có chỗ nào mà chẳng trồng cây

Quay sang công việc bên này

Ngài mua đá chẻ chung tay lát đường

Xong rồi mới đến làm trường

Xây nhà giáo xứ, hội trường, nhà sơ

Từ lúc ngài đến bây giờ

Bao nhiêu cơ sở dần dà mọc lên

Cái nào cũng chắc, cũng bền

Nhưng mà ngài vẫn chưa yên được lòng

Nhìn qua nhà Chúa lâu năm

Bây giờ cũng đã dột trong, hư ngoài

Thế là quyết một, quyết hai

Tuổi đã già rồi nhưng vẫn cố lên

Ngài tìm gặp gỡ ân nhân

Trong nước, ngoài nước, người gần, người xa

Đem về xây lại nhà thờ

Cho đến bây giờ tốt đẹp khang trang

Xứ tôi nay đã rõ ràng

Cũng có hội đoàn, cũng có dòng ba

Có ban hành giáo thiệt thà

Gia trưởng, bà mẹ, với là phan sinh

Rêsa, giúp lễ thật tình

Lêdô, giới trẻ đậm tình thiếu nhi.

Anh Quy-2008
 
Website của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam có phiên bản mới
Hoàng Ân Giang
23:07 29/11/2008
WEBSITE CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM CÓ PHIÊN BẢN MỚI

Kể từ Chúa nhật I mùa Vọng (30-11-2008), Website của Hội đồng Giám mục Việt Nam bắt đầu sử dụng phiên bản mới http://v3.hdgmvietnam.org

Được biết, cho đến ngày 29-11-2008, Website này vẫn do linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng thư ký Ủy ban Truyền thông, trực tiếp điều hành. Nay việc điều hành trang Web sẽ do Ban Thư ký của HĐGM Việt Nam đảm trách.

Trong Thông báo cuối cùng trước khi kết thúc nhiệm vụ, linh mục Antôn viết:

“Quý Bạn đọc thân mến,

Theo sự phân công của Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN), kể từ ngày 30-11-2008, bắt đầu Năm Phụng vụ mới, Ban Thư ký HĐGMVN sẽ phụ trách nội dung của trang web thay cho Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn.

Trưởng Ban Biên tập trang web từ nay là Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Thư ký Thường trực của HĐGMVN. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn vẫn là Tổng Thư ký của Uỷ ban Truyền thông Xã hội, thuộc HĐGMVN.

Lm. Antôn xin chân thành cám ơn Quý Hồng y, Quý Đức cha, Quý Linh mục, Tu sĩ nam nữ và bạn đọc, nhất là các cộng tác viên, trong cũng như ngoài nước, đã hết lòng giúp đỡ để hình thành và phát triển nên trang web này trong thời gian qua. Từ những bước dò dẫm khởi đầu cho đến 17g30 ngày hôm nay (28-11-2008), số lượt người truy cập trang web là 2.623.500. Mỗi ngày trung bình có khoảng 7.000 đến 10.000 lượt người truy cập.

Như thế, đây là một phương tiện rất cần thiết và quan trọng trong việc loan truyền Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô cho cộng đồng xã hội Việt Nam và mở ra cho cộng đồng thế giới.

Xin cầu chúc Ban Biên tập mới đạt nhiều thành công hơn nữa trong việc phát triển trang web này”.

Ngay từ 00 giờ ngày 30-11-2008, Website của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã phát phiên bản mới http://v3.hdgmvietnam.org

Địa chỉ thư điện tử (e-mail) của Ban điều hành phiên bản mới như sau:

web@hdgmvietnam.org

web.hdgmvn@gmail.com
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Tại sao CSVN tuyên chiến với tôn giáo và tấn công thường dân?
Lê Minh
06:02 29/11/2008
TẠI SAO CỘNG SẢN VIỆT NAM TUYÊN CHIẾN VỚI TÔN GIÁO VÀ TẤN CÔNG THƯỜNG DÂN?

Chủ thuyết cộng sản đã ra đời, đã thử nghiệm, đã phá sản, và để lại hậu quả như thế nào cho nhân loại, đến nay không ai còn mơ hồ được nữa. Một mớ lý luận rối rắm, lúc thì lấy mục đính để biện minh cho thủ đoạn, lúc lại lấy thủ đoạn để định hướng mục đích… Rõ ràng chủ thuyết cộng sản đã phơi bày tính chất phản nhân, vô luân của nó. Đến những người cộng sản cũng nhận thấy sự bế tắc trong lý luận cũng như thực tiễn áp dụng cái chủ thuyết này ở Việt Nam.

Lý luận thì hướng dẫn hành vi, nay mất lý luận, những người cộng sản Việt Nam đang lấy gì để định hướng hành vi? Tại sao hành vi của họ lại đến mức tuyên chiến với tôn giáo? Tại sao có chính quyền trong tay mà lại dùng đám côn đồ thương phế binh, lưu manh nghiện ma tuý song hành với công an mặc sắt phục chỉnh tề tấn công giáo dân tu sĩ Công Giáo vào ban đêm?

1) Đòi đất – Đòi công lý của TGP-Hà Nội là sự kiện tất yếu của lịch sử không phụ thuộc ý chí cá nhân:

Sự kiện Tổng Giáo Phận Hà Nội đòi lại tài sản, đòi lại công lý, đòi lại nhân quyền lúc đầu là mới lạ với những người dân mơ hồ về quyền làm người của mình… Rồi bối rối với những lời lẽ tuyên truyền bịp bợm bẩn thỉu của cộng sản… Họ quay sang nghi kỵ giáo dân tu sĩ Công Giáo: Nếu Công Giáo đòi lại được tài sản thì được lợi quá; Đòi lại được công lý thì công đức to quá… Hoá ra họ chỉ đứng "bên lề đường"? Như thế họ chẳng được gì? tội gì mà ủng hộ Công Giáo… Một hồi sau, họ lại vui mừng vì tài sản hàng chục nghàn cây vàng thành của họ…

Đối với giáo dân và tu sĩ Công Giáo, cũng như với bất cứ tôn giáo nào, vật chất nơi trần gian, không bao giờ là mục đích nhắm tới. Vật chất chỉ là phương tiện, chỉ là thước đo của các giá trị lao động, sự công bằng mà thôi. Muốn có công bằng, mọi thứ phải bắt đầu từ các chuẩn mực, thước đo Thượng Đế đã ban tặng, nhân loại đã đón nhận, đã xây dựng… Cùng một vấn đề, cùng một dạng vật không thể có nhiều loại tiêu chuẩn như cộng sản vẫn thường rêu rao lừa bịp được. Cho nên giáo dân tu sĩ Công Giáo bắt đầu từ việc thiết lập chuẩn mực của sự công bằng dưới dạng nhà đất mồ hôi công sức của cha ông họ, phải đòi lại… Chứ không phải Công Giáo nhắm vào mấy ngàn cây vàng để chia nhau như cộng sản vẫn làm với đất đai công thổ…

Bây giờ khi ngồi trên hai cái vườn hoa "Kỳ tích" này, lương dân mới bình tâm suy nghĩ: Nếu ai cũng "ngậm miệng ăn tiền" né tránh trách nhiệm với lịch sử, với luân thường đạo lý của tổ tiên, với thế hệ con cháu tương lai của dân tộc… Thì rõ ràng hai cái vườn hoa "Kỳ tích" này sẽ là toà nhà trung tâm X-Y nào đó của quan chức cộng sản dùng để tiếp tục rút ruột người dân… Thật là hổ thẹn khi không có một chút công lao nào trong đó, mà lại còn lên án này nọ vô tình mà tiếp tay cho quan chức cộng sản…

Còn những kẻ vô liêm sỉ lúc trước đeo huy chương đóng vai cựu chiến binh ngồi trên khán đài "Danh dự" khai trương vườn hoa. Ngay sau đó, lại cởi bỏ huy chương, đóng vai giáo dân "cốt cán"… Mặt mày lấm lét đến mức không dám nhìn thẳng, đeo kiếng đen kịt dù không đui mù… Đương nhiên là đồng đảng với cộng sản, không có lương tâm để tự xét… Nó sẽ được ra toà cùng cộng sản khi công lý của nhân loại văn minh được thiết lập trên quê hương Việt Nam.

Sự kiện TGP Hà Nội mang tính tất yếu của tiến trình lịch sử, đã đến lúc phải nổ ra, nó là hệ quả của nhiều yếu tố tích lũy đã tới hạn… chứ không phải bởi sự chuẩn bị hay nói như chính quyền cộng sản bởi sự "kích động" của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt. Bởi cán bộ cộng sản sử dụng đất không hiệu quả. Hay bởi cộng sản tiền bối sơ xuất về thủ tục hành chính, pháp lý… Tuyệt nhiên không phải vậy! Đức TGM, ngài chỉ là tôi tớ của Chúa, một "con cờ" trong tay Chúa mà thôi, không có Đức TGM này, sẽ có Đức TGM khác…

Nhìn lại lịch sử, đến ông tổ cộng sản còn không tiên liệu được ngày sụp đổ, nguyên nhân sụp đổ của cả hệ thống cộng sản hùng mạnh ở đông Âu, phương chi bậc tiền bối của cộng sản Việt Nam phần lớn là những người không có điều kiện học hành, làm sao mà tiên liệu được ngày hôm nay, để khi đó hoàn thành thủ tục hành chánh, pháp lý???… Quan chức cộng sản thời nay thì tham nhũng bằng chính sách pháp luật, mua như cướp, rồi lừa bán trao tay, cầm tiền mặt… Chứ có phải lao động, làm ăn lương thiện đâu mà nói đến hiệu quả sử dụng đất???

Nếu không nổ ra tại TGP-Hà Nội, sự kiện tương tự sẽ nổ ra ở một nơi nào đó trên nước Việt, chứ không thể không nổ ra… Nói như ông tổ lênin của người cộng sản: "Khi các yếu tố đã tới hạn, cách mạng sẽ nổ ra ở mắt xích yếu nhất - Chứ không phải là nổ ra hay không nổ ra… "

2) Thế giới văn minh lên tiếng và hành động, cộng sản việt nam đào sâu thêm hố ngăn cách, trong khi muốn tồn tại phải cậy nhờ thế giới văn minh:

Sự kiện TGP - Hà Nội không chỉ làm người Công Giáo, người Việt quốc gia, người Việt chân chính "Nín thở"… Mà nó làm cả thế giới văn minh dõi theo lo ngại. Các đòn phép hèn hạ của cộng sản bây giờ thế giới không còn nghi hoặc nữa… Thậm chí nó lộ nguyên hình dưới bàn tay của một thường dân được trợ giúp bởi các thiết bị kỹ thuật bán đầy ngoài thị trường… Vạch mặt chỉ tên các thủ đoạn hèn hạ của bộ máy chính quyền cộng sản bây giờ là việc làm không khó.

Với sự đoàn kết của người Việt quốc gia tỵ nạn cộng sản, các đoàn thể tôn giáo, các tổ chức quốc tế, các chính phủ dân chủ, các nghị viên quốc gia tự do… Đã cùng lúc lên tiếng cảnh báo, ngăn chặn cộng sản tấn công tàn sát dân lành tại TGP Hà Nội… Nghị viện Âu châu kịp thời ra nghị quyết cứng rắn cho phép có các biện pháp chế tài với nhà nước CSVN lần đầu tiên trong lịch sử. Hệ quả của nghị quyết này sẽ là lâu dài và khôn lường đối với người cộng sản.

Lối tuyên truyền bịp bợm của bộ máy tuyên truyền CSVN, không những vô tác dụng trên trường quốc tế, mà còn đẩy người cộng sản lún sâu vào thế là kẻ thù của thế giới tự do… Trong khi lại cần tiền bạc của thế giới tự do trang trải cho bộ máy nhà nước bóc lột dân, hoạt động kinh tế yếu kém, đang trong cơn rối loạn… Nhà nước CSVN không có tư cách, tư thế gì để mặc cả với thế giới văn minh như thời kỳ chiến tranh nữa …

3) Tư tưởng Hồ chí Minh của cộng sản Việt Nam có phải là chỗ dựa lý luận cuối cùng?:

Bị phá sản về học thuyết, việt cộng quay sang chắp vá lý luận, tìm cách cứu vãn tình thế bằng cái gọi là tư tưởng Hồ chí Minh. Trong khi lúc còn sống lãnh tụ Hồ chí Minh từng nhiều lần tuyên bố: Tôi không có tư tưởng gì khác ngoài tư tưởng Mác-lênin. Mặt khác ông Hồ là người hoạt động thực tế chứ không phải nhà lý luận chuyên nghiệp, nên tư duy manh mún, không có năng lực tổng hợp lý luận vấn đề lên hàng tư tưởng. Mặc dù ông Hồ chí Minh luôn có dã tâm đánh bóng tên tuổi "công đức" của mình nhằm đạt được các mục đích đen tối… Nhưng với vấn đề tư tưởng, ông ta không dám nhắm tới, vì như thế quá lố.

Vậy mà sau khi Hồ chí Minh chết đến gần 30 năm, đồng đảng của ông ta không ngần ngại nhặt nhạnh những lời nói "vo" vốn chỉ bịp được người ít học, nhưng lại là rất ẩm ương với người hiểu biết; Hoặc là gán vào mồm ông ta những lời ông ta chưa từng nói… để hình thành lên cái tư tưỏng Hồ chí Minh: Tư tưởng của người khác, những lời ông ta nói, câu văn ông ta viết chỉ là lập luận mà không phải hàng lý luận, ngôn từ ông dùng cũng vụn vặt không thành hệ thống… Nó phải gắn vào hoàn cảnh rất cụ thể người ta mới hiểu được… Hoàn toàn không có tầm phổ quát.

Như thế, tư tưởng của Hồ chí Minh giúp được gì cho những người cộng sản việt nam? Những kẻ chuyên lừa đảo, tưởng rằng không bao giờ bị mắc lừa, nhưng nay lại huyễn hoặc chính mình, thành ra vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân. Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt, chưa từng có thảm cảnh này.

Quả thực, thật là lo lắng khi nghe một phần không nhỏ người dân trong nước Việt luôn nói những câu theo những mô thức "cộng sản" sẵn có. Nhưng suy ngẫm tìm hiểu kỹ thì điều đó không có nghĩa là cộng sản đã chiếm được tư tưởng, tình cảm của người dân. Đây chỉ thuần tuý là "đồ giả", một sản phẩm mà người cộng sản ép ra bằng vũ lực mà thôi. Trường hợp này cũng giống như băng đảng cộng sản, chính quyền "xô viết" được ra đời từ nòng súng… Nhưng sau lại đột tử không hề có tiếng súng… Nếu có chính nghĩa, sao lại "Ra đi không kèn không trống" như thế?

Thực chất những người cộng sản việt nam, là những kẻ không hề có lý tưởng gì, kể cả lý tưởng cộng sản. Có đến hơn 90% đảng viên cộng sản không biết các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác-lênin bao gồm những gì. Hay không thể đọc nổi định nghĩa vật chất của lênin. Càng không thuộc các nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác… Vô sản-Cộng sản chỉ lợi dụng học thuyết Mác xít để xây dựng băng đảng cộng sản mà thôi. Sau khi có được băng đảng với bộ máy cướp bóc, họ đã đưa học thuyết của Mác vào viện nghiên cứu, đưa lãnh tụ "Kiệt xuất" vào "tủ kính"… Rồi mặc sức làm những điều phản nhân mà ông tổ cộng sản chưa từng gợi ý…

Từ chỗ bị phá sản về học thuyết, đến chỗ cố chắp vá dựng lên cái tư tưởng Hồ chí Minh, mà ngay trong hội đồng lý luận trung ương cộng sản VN còn đang cãi lộn… Nhà nước CSVN càng làm càng sai, càng sai càng bị quốc tế, nhân dân lên án… Dân công khai hay ngấm ngầm chống lại… Nhìn sang cái gương tày liếp: Liên Xô – Đông Âu, chắc không khỏi rùng mình… Những dấu hiệu của một cuộc nổi dậy của nhân dân bên trong, hậu thuận của nhân loại tiến bộ bên ngoài… Đang treo lơ lửng. Tỗi lỗi của Việt cộng lớn đến mức không gì có thể biện minh được nữa… Lương dân đã hết kiên nhẫn…

Với quá khứ đã từng gây bao thù oán, nên người cộng sản luôn phải lường trước, phải chuẩn bị đối phó trước hiểm hoạ mới kéo dài được sự tồn tại. Trong khi hệ thống cộng sản trên thế giới đã tan rã, số lẻ còn lại thì không thể thống nhất được với nhau, mỗi nhóm một dã tâm… Với thế giới văn minh ngày càng lớn mạnh, đương nhiên người cộng sản lại càng bất lực, không thể dùng khủng bố để tấn công rồi mặc cả như trước nữa… Cho nên việt cộng không còn cách nào khác là phải tấn công đồng bào, tấn công dân lành, tấn công giáo dân Công Giáo để duy trì sự tồn tại… Nhưng làm như thế, sẽ sống được với ai?

4) Cơ quan thăm dò dư luận giúp được gì cho chính sách "cố sống" của người cộng sản:

Từ sau sự kiện cộng sản đông Âu tan rã, cộng sản việt nam lập ra cơ quan thăm dò dư luận. Hàng tháng, hàng quý, hoặc theo các sự kiện lớn trong xã hội, cơ quan này có nhiệm vụ bí mật tìm hiểu dư luận xã hội… Để trung ương cộng sản lên kế hoạch ra nghị quyết, đề ra chính sách cho toàn xã hội… Nghĩa là tính trung thực của kết quả thăm dò rất quan trọng, quyết định tính đúng sai của chính sách…

Thật là nực cười về cách thăm dò dư luận xã hội của người cộng sản: Thăm dò dư luận xã hội mà cũng phải bí mật. Cơ chế xã hội cộng sản làm cho không một ai, kể cả cán bộ, quan chức cộng sản dám bày tỏ quan điểm một cách trung thực và đầy đủ, vì làm như thế chẳng khác nào tự tròng cái thòng lọng của cộng sản vào cổ… Và thế là kết quả thăm dò sẽ vô nghĩa, nếu căn cứ vào đó mà đề ra chính sách thì sẽ là thảm hoạ…

Lại nữa: Quan chức cộng sản không bao giờ muốn nghe sự thực. Vì luôn gian dối nên rất sợ phải đối mặt với sự thực. Cho nên đám tay chân không dại gì mà nói sự thực với cấp trên… Dù dò ra sự thực, nhưng báo cáo lên mặt bàn quan chức cộng sản vẫn là sự giả dối mà thôi.

Xem lại phiên họp quốc hội bù nhìn của CSVN nửa cuối tháng 10/2008 vừa rồi, được nghe thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng than phiền về việc ký quyết định cấm xuất khẩu gạo gây thiệt hại nhiều tỉ đồng cho nông dân rằng: "Không một báo cáo thống kê nào cho tôi biết vụ tới sẽ được mùa hay mất mùa…" - Thật là thảm hại và mỉa mai thay… Muốn biết sự thực ư? đâu có gì khó? Hãy thiết lập một cơ chế cho phép nói thật, và bảo vệ nói thật. Nhưng thiết lập cái cơ chế này, thì chẳng khác gì cộng sản tự trong thòng lọng vào cổ, rồi nhờ nhân dân kéo lên giùm…

Chính sách gì, biện pháp gì của cộng sản bây giờ có thể cứu nguy được tình thế? Tìm trong học thuyết cộng sản không thấy. Tìm trong cổ học tinh hoa dân tộc không thấy. Thực tế lịch sử thì đã nhãn tiền… Người cộng sản cũng biết vậy. Bánh xe lịch sử thì quay không ngừng. Thế giới ngày càng văn minh luôn bênh vực lẽ phải, nhưng chỉ dân tộc Việt mới có quyền đưa CSVN ra trước toà án, phán xử "công-tội"… Ngày đó cứ dần đến… Người cộng sản tự đặt mình là kẻ thù của cả dân tộc Việt mà lại không nhận ra, không sám hối… Và để kéo dài sự tồn tại, CSVN phải tấn công vào "kẻ thù"… Than ôi! Dân tộc Việt đau thương!

5) Bán đất, bán nước cho ngoại bang có làm cho CSVN trường tồn?:

Sau cuộc chiến tranh biên giới VIỆT-TRUNG, CSVN phải xuống thang xin bình thường hoá quan hệ với "Bành trướng bắc kinh". Và "món quà chuộc lỗi" của họ là tiếp tục chính sách bán đất bán nước cho cộng sản trung quốc (CSTQ). Không chỉ bán đất bán nước, việt cộng còn bán cả đồng chí cấp cao cho CSTQ: Mai chí thọ - bộ trưởng bộ nội vụ, uỷ viên bộ chính trị trung ương đảng cộng sản VN - Bị CSTQ buộc tội là kẻ thi hành chính sách xua đuổi người Hoa tàn độc nhất phải "về vườn" không được giữ bất cứ một chức vụ gì nữa. Đó là một trong những điều kiện CSTQ đưa ra khi bình thường hoá quan hệ. Đến lúc được "nghỉ hưu sớm", Mai chí thọ mới chua chát mà rằng: Phải chọc mù mắt, phải tháo khớp chân tay, căn bệnh của cái đảng này đến hồi vô phương cứu chữa… Rồi ông ta "Đi vào đời sống tâm linh" có mặt, tham kiến cả những sự kiện rõ ràng là dị đoan như "Khu vườn có khả năng chữa bệnh" ở miền tây Nam Bộ… Một sự rối loạn tâm thần vì không còn chỗ dựa???

Thời gian qua, công chúng được chứng kiến sự kiện tranh giành hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa hai đồng chí cộng sản… Rồi thì phát ngôn phản đối nọ kia, bên này thì ra quyết định thành lập khu hành chính, bên kia thì phản đối rồi mời tư bản Anh, Mỹ đến thăm dò khai thác dầu… Lại phản đối… Rồi mời tầu chiến Mỹ, Ấn, Úc đến VN… Tư lệnh hải quân VN đón tiếp tư lệnh hải quân Thái, Ấn, Mỹ… Đi thăm hải quân Malaysia … Cứ như phường chèo vậy.

Thế mà có bao nhiêu học giả của Mỹ, của Úc, của Taiwan… phóng viên của BBC, của AFP… đoán già đoán non nào là ngoại giao Tầu chiến, nào là cảnh cáo nhau, nào là liên kết ASEAN chống lại ảnh hưởng của Tầu cộng… Thật là kém hiểu biết về CSVN.

Đảng cộng sản VN đã phải bán cả sinh mệnh Uỷ viên bộ chính trị cho CSTQ rồi, thì còn có thể cảnh cáo, chống lại gì "Bành trướng bắc kinh" nữa? Biển đảo, đất đai đã ký cả văn tự, công hàm, hiệp định để bán, dù là lạm quyền, nhưng người cộng sản đang chấp chính, ai có thể lôi kéo, kêu gọi họ chống lại CSTQ?

Cộng sản VN không còn quyền uy, không còn tư cách gì để chống lại CSTQ dù trên lời nói… Chính vì thế người ta chỉ được nghe những lời nói " Rất quan ngại… Lấy làm quan ngại…", cùng những việc đón tiếp vớ vẩn trong việc chống Trung Quốc lấn chiếm biển đảo VN… Chỉ có thể phế bỏ chính quyền cộng sản, huỷ bỏ các văn bản lạm quyền, trái luật pháp quốc tế của CSVN, dân tộc Việt mới ngăn chặn được dã tâm của CSTQ.

Cho nên, dù ký giấy bán nước cho ngoại bang chính thức hay "đi đêm", vô tình, người cộng sản lại thêm một lý do nữa để không được phép tồn tại trong lòng dân tộc Việt. CSTQ hay CSVN dù chung tên cộng sản, nhưng vốn phản phúc như nhau, gian manh như nhau, lại muốn ngầm giết nhau… Một ngày nào đó, có khi, chính CSTQ cho bạch hoá tài liệu CSVN "đi đêm" bán đứng dân tộc Việt cho Tàu… Như chúng từng cho bạch hoá tài liệu về đời tư của Bác Hồ chí Minh "Vị cha già dân tộc, cả đời sống độc thân hi sinh cho cách mạng, vì hạnh phúc nhân dân"??? Lúc còn ở Vân Nam Trung Quốc…

CHỈ DỰA VÀO NGOẠI BANG MÀ TỒN TẠI ĐƯỢC Ư?

Tóm lại: cộng sản Việt nam đã tự làm mất khả năng nhận thức, tự đặt mình vào thế kẻ thù của thế giới văn minh. Kẻ thù của dân tộc Việt. Kẻ thù của đồng chí cộng sản Trung Quốc. Trong ba kẻ thù trên, thấy không có khả năng chống lại Thế giới văn minh, không chống được cộng sản Trung Quốc, nên CSVN quay sang tấn công đồng bào mình hòng kéo dài sự tồn tại.
 
Cong Lý
Tú Nạc
06:04 29/11/2008
CONG LÝ
(Lời phát biểu đến phiên tòa xét xử
8 giáo dân Thái Hà ngày 8/12/ 2008)


Công lý các ông đã bẻ cong.
Dân oan vô tội phải ra tòa.
Quan lớn các ông vô số tội,
Mà vẫn nghênh ngang chốn người đông.

Những người đòi đất là "can phạm"(!),
Còn kẻ cướp công "đấng minh quân"(?).
Luật pháp Nước Nam giờ ảm đạm,
Tội lỗi đổ đầu đám dân oan.

Một phường lớn bé trên xuống dưới,
Lấp lửng con đen tráo ngược xuôi,
"Justice" hóa ra là "dốt tịt",
Giấu giếm làm sao cũng lòi đuôi.

Tám người Dân Chúa vì CÔNG LÝ,
Can đảm cất cao gọi CÔNG BÌNH,
Những người tha thiết vì Non Nước,
Luật pháp các ông giải pháp đình.

Những người ông nói "dân tự phát",
Nửa đêm khuya khoắt phá đền thiêng,
Phá rối trị an chúng chẳng kiềng,
Mà ông im thế sao không bắt?
Thôi rồi ông xúi chúng "lệnh riêng".

Cán cân công lý còn đâu nữa,
Tham quan cầm trịch trắng thành đen.
Đèn trời soi xét đàn con đỏ,
Đem lai công bình cho dân Nam.

Ngày mai con Chúa vòng lao lý,
Như lửa thử vàng sáng tinh khôi;
Dẫu trong ngục thất tràn bóng tối,
Ngời sáng niềm tin Chúa Ba Ngôi.
 
Khí phách Thái Hà
Nắng Sài Gòn
06:08 29/11/2008
KHÍ PHÁCH THÁI HÀ
(Xin hiệp thông với 8 bông hoa ưu tú
và tập thể giáo dân Thái Hà trong ngày xử án 8/12/2008)


Đẹp quá Thái Hà ơi!
Tự hào lắm Thái Hà ơi!
Tám bông hoa vừa hé nhụy thật rạng ngời,
Tỏa hương, tỏa sắc cho muôn người chiêm ngắm.

Hoa bình dị, đơn sơ, hoa dịu dàng, đằm thắm
Hoa vươn lên từ gian khổ, nhục nhằn.
Hoa kiên cường vượt thắng mọi khó khăn,
Dù kẻ tàn ác muốn dập vùi hoa tan nát.

Yêu công lý, cõi lòng hoa khao khát,
Yêu hòa bình, hoa cầu nguyện thiết tha.
Dù mưa dầm, dù bão tố phong ba,
Hoa anh dũng, nhìn thẳng mặt trời vươn tới.

Đất Thái Hà máu tiền nhân vun tưới,
Nay trổ sinh hậu duệ thật kiên cường.
Không cúi đầu trước bạo lực, bất lương,
Không thỏa hiệp, không làm tôi hai chủ.

Khí phách Thái Hà trái tim hồng ấp ủ,
Dáng hiên ngang, khí khái trước công đường.
Máu anh hùng tử đạo quyết noi gương,
Nêu gương sáng lưu truyền cho hậu thế.

Chuyện trần gian dẫu cuộc đời dâu bể,
Hoa Thái Hà vẫn mãi mãi xinh tươi.
Vẫn sống mãi trong tim của muôn người,
Khí phách hào hùng,
Thái Hà ngàn năm còn vang vọng.

Đẹp quá Thái Hà ơi!
Hạnh phúc lắm Thái Hà ơi!
 
Đừng sợ tòa án bạo lực
Vũ Công
06:56 29/11/2008
Đừng sợ tòa án bạo lực Ngày mồng 8 tháng 12 này, tòa án nhân dân Hà Nội sẽ đem ra xét xử tám giáo dân giáo xứ Thái Hà. Nguyên nhân khởi tố vụ án, theo tòa án nhân dân Hà Nội, tám giáo dân này đã phá hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng. Đây là một vụ án gây nhiều công phẫn trong quần chúng trong ngoài nước nói chung, với người công giáo Việt nam nói riêng. Một lời cho các giáo dân yêu chuộng công lí này là: “Đừng sợ tòa án bạo lực”. Trở lại một vụ án cách đây gần hai ngàn năm, khi mà tập đoàn kinh sư biệt phái, luật sĩ Do Thái đã tìm mọi lẽ vẫn không có cách gì loại bỏ được Đức Giêsu, họ đã viện đến tòa án La Mã. Nhục nhã thay khi họ là những người lãnh đạo dân mà lại cầu viện kẻ thù giết hại đồng bào mình. Đáng trách hơn khi Philato đã năm lần bảy lượt tìm cách để tha cho Đức Giêsu, vì “không có tội gì” (Lc 23,5); hơn thế ông ta còn khẳng định chắc chắn với họ: “Các người nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các người, mà không thấy người này có tội gì, như các người tố cáo”. (Lc 23,14) thì chính những luật sĩ, biệt phái kia lại gào thét đòi giết Đức Giêsu cho bằng được. Họ đưa ra lí do vì “người này dám xưng mình là vua của chúng tôi, nhưng chúng tôi chỉ có một vua là Cê-za-rê”. Như thế, từ chỗ sợ dân chúng thấy rõ bộ mặt giả tạo, trá hình của mình; lo sợ bị mất những đặc quyền đặc lợi trước dân chúng, họ đã trở thành kẻ phản bội dân tộc, phản bội đức tin tổ tiên, mà nhận kẻ bóc lột mình, bóc lột nhân dân mình là vị vua duy nhất phải tôn kính. Một nỗi oan khiên đến là vậy nhưng Đức Giêsu đã chẳng thốt lên một lời kêu ca phản kháng. Trái lại, Người im lặng, một sự im lặng đến độ cả Phi-la-tô phải kinh ngạc. Nói đúng hơn, Người đã nói những gì cần phải nói, đó chính là “sự thật”, một sự thật mà những kẻ sống giả tạo, tham quyền hãm lợi chẳng bao giờ muốn nghe. Chính vì những lời sự thật ấy mà họ tìm mọi cách để bịt miệng, khử trừ Người. Ngay cả với Phi-la-tô, dù ông có thịnh tình muốn tha bổng cho Đức Giê-su, nhưng vì ông chưa dám từ bỏ quyền lợi của một tổng trấn với nhiều quyền hành và lợi lộc nên chẳng thể hiểu: “Sự thật là cái gì?” (Ga 18,38). Sự thật ấy vượt trên mọi uy quyền mà người La Mã những tưởng là tuyệt đối: “Ngài không quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19,11). Bị lăng nhục mọi bề, hành hạ tàn tệ và cuối cùng là bị treo lên một cách thảm hại, trần trụi trên cây thánh giá, Đức Giêsu vẫn chẳng thốt lên một lời than vãn, kêu trách. Người khiến cho mọi kẻ thù ghét phải tức tối, vì sau tất cả những cực hình tàn bạo nhất, kể cả đặt vào trong sự chết gần kề, họ vẫn không thể làm cho Người vì sĩ diện hay đau đớn mà sợ hãi, tự mình chối bỏ sự thật. Sau ba ngày trong mộ đá, Người đã trỗi dậy từ cõi chết. Giữa lúc đó, bọn Pha-ri-sêu, luật sĩ, biệt phái tìm mọi cách để ém nhẹm sự thật, xuyên tạc sự thật thì Đức Giêsu lại tìm đến với các môn đệ - những người yêu mến sự thật, cho họ mục kích một sự thật trọn vẹn: “Các con đừng sợ chính Thầy đây”. Ngày hôm nay, chính quyền Hà Nội cũng đang làm cái việc đó với các giáo dân yêu chuộng công lý, khát khao sự thật. Không thể nói rằng họ không biết những gì mà người giáo dân đã, đang và sẽ làm là không hề sai trái. Lại càng không thể nói họ không hiểu sức mạnh của niềm tin vào Thiên Chúa luôn vô địch đến mức nào, nhất là với một Giáo hội Việt nam, dù đã trải qua hàng mấy thế kỷ bị bách hại thảm khốc mà vẫn đứng vững kiên cường. Vậy vì sao họ vẫn dùng hình thức trấn áp hèn hạ ấy?. Thưa vì họ cũng chẳng khác những tập đoàn lãnh đạo Do Thái xưa là mấy. Họ sợ bị lột trần bộ mặt dân chủ giả hiệu, sợ mất đi quyền lực cai trị độc đoán và hơn cả là những nguồn lợi béo bở, được rút từ cái gốc nhân dân – những người chủ bị nô bộc. Trước mớ những quyền lợi ấy, thì chính những lời chân lý – lời sự thật mà người ki-tô hữu được nghe và đang thực hành là “vật cản, là viên đá chắn đường”. Nhưng đừng sợ chúng, như xưa Thầy Giêsu đã chiến thắng bằng sức mạnh của sự thật thế nào thì ngày nay, với tinh thần bất bạo động, cộng với sự che chở của Đấng là Chủ Chân lý, chúng ta tin tưởng rằng những anh chị em chúng ta sẽ có đủ sức mạnh để vượt qua mọi trấn áp, mọi mánh khóe mị dân của tập đoàn toàn trị độc đoán. Ngày xử án đang gần kề, hẳn là có nhiều người lo lắng cho những anh chị em giáo dân Thái Hà, sợ họ không đủ khôn khéo để đối phó với tập đoàn giảo hoạt, nhưng chính Thầy Giêsu đã hứa: “Các con đừng lo phải nói gì và nói như thế nào. Vì trong giờ đó Thánh Thần của Cha sẽ nói trong các con”...Điều chúng ta có thể làm bây giờ là tiếp tục cầu nguyện trong phó thác, tin tưởng như chính Thầy Giêsu đã làm, đó là tinh thần “Một theo ý Cha”. Và chúng ta đừng quên cầu nguyện cho những kẻ đang nằm trong bóng tối tăm lầm lạc. Thử hỏi có ai đáng thương hơn những kẻ luôn phải sống trong phập phồng lo sợ vì làm trái tiếng lương tâm. Đó cũng là điều mà Thầy Giêsu đã dạy, đã làm và hằng ao ước: “Ta đến để kêu gọi người tội lỗi”.
 
Bộ Thông Tin CSVN đòi Yahoo giúp bắt đầu xiết Blog thông tin trên Ineternet
Việt Báo
07:15 29/11/2008
HANOI - Nhà nước CSVN bắt đầu xiết các trang blog, nơi trước giờ là nguồn bày tỏ dư luận duy nhất tại quê nhà trong lúc 700 báo và đài từ hơn nửa thế kỷ gần như luôn luôn đóng vai loa kèn cho chế độ. Và không chỉ đơn giản là xiết thông tin, nhà nước CSVN còn đe dọa truy tố hình sự, và sẽ yêu cầu các mạng quốc tế như Yahoo và Google phải hợp tác để bưng bít các luồng thông tin còn để ngỏ này ở VN.

Các báo tại VN hôm Thứ Sáu đã loan tin về buổi họp báo của Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức chiều 27/11 tại Hà Nội. Nội dung buổi họp báo là để nói về dự thảo thông tư mới của Bộ Thông tin-Truyền thông "Xây dựng Thông tư hướng dẫn về hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân (Blog)".

Báo Dân Trí tóm gọn dự thảo trình bày qua lời Ông Đỗ Quý Doãn (Thứ Trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông), đó là, "Thông tin trên blog phải phù hợp thuần phong mỹ tục; nghiêm cấm đưa thông tin xuyên tạc, xúc phạm uy tín của tổ chức; danh dự, nhân phẩm công dân, gây phương hại đến an ninh quốc gia…"

Theo Dân Trí, tường thuật "Blog được dùng để thể hiện những thông tin mang tính chất cá nhân phục vụ nhu cầu lưu trữ hoặc trao đổi, chia sẻ với một nhóm người hoặc với cộng đồng sử dụng dịch vụ Internet. Blog được đăng ký khởi tạo trên Internet bởi chủ thể sở hữu blog. Thông tin trên blog phải phù hợp với thuần phong mỹ tục và các quy định của pháp luật Việt Nam. Nghiêm cấm sử dụng blog với mục đích chống lại nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây phương hại đến an ninh và lợi ích quốc gia; đưa các thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức; danh dự, nhân phẩm công dân…"

Ngôn ngữ mô hồ trên thông tư gây nhiều lo ngại cho những người quan tâm. Bởi vì khi phổ biến hay dịch các bài về dân chủ đa nguyên có phải là "chống lại nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây phương hại đến an ninh và lợi ích quốc gia" hay không?

Bởi vì ước mơ dân chủ thực ra là ước mở đổi từ chế độ dộc đảng sang đa đảng. Khái niệm "an ninh" có thể hiểu là "cấm đăng trên blog các tin về những vụ treo biểu ngữ ở cầu vượt," như các nhà dân chủ từng làm, hay không?

Thế nào là "thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín"? Có phải là cấm các blog đăng hay dịch các bản tin quốc tế về người vợ Tăng Tuyết Minh của ông Hồ Chí Minh?

Nếu hiểu rộng, thông tư này chắc chắn sẽ đưa nhiều nhà viết blog ra tòa về các tội động trời.

Báo Dân Trí cho biết, "Dự kiến, trong tháng 12/2008, Thông tư hướng dẫn về hoạt động cung cấp thông tin trên blog sẽ hoàn thiện và được ban hành."

Đặc biệt, báo VietnamNet ghi nhgay nhan đề "Thứ trưởng Bộ Thông tin -Truyền thông:

Biến thông tin blog thành thông tin báo chí là phạm luật. "

Bản tin này ghi lời ông Doãn: "Yếu tố cá nhân trong blog là yếu tố cơ bản. Yếu tố này quy định blog không đại diện cho một tổ chức hay thông tin chính thống nào. Những blog vượt quá thông tin cá nhân là sai quy định Nếu đã đưa thông tin báo chí thì phải tuân thủ và chịu sự điều chỉnh của Luật Báo chí. Người nào vượt quá phạm vi blog, biến thông tin trên blog thành thông tin báo chí là vi phạm Luật Báo chí Đã là nhật ký cá nhân thì chỉ viết cho mình, cùng lắm là người thân của mình đọc. Nếu đưa ra đại chúng thì không thể là nhật ký mà vô tình biến nó thành trang thông tin điện tử, như vậy phải chịu sự quy định như đối với trang thông tin điện tử".

Và sau cùng, ông Doãn hù dọa là sẽ yêu cầu các mạng quốc tế tiếp tay xiết blog. VietnamNet ghi lời ông Doãn: "Sắp tới, Bộ TT - TT sẽ đặt vấn đề với Google và Yahoo!, đề xuất họ hợp tác trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm, phối hợp với Nhà nước để tạo môi trường hoạt động tốt nhất, lành mạnh nhất cho các blogger."

(Nguồn: Việt Báo Thứ Bảy, 11/29/2008)
 
Bàn về nguyên tắc xét xử công khai
LS Lê Trần Luật
07:19 29/11/2008
BÀN VỀ NGUYÊN TẮC XÉT XỬ CÔNG KHAI Công khai là một trong những thuộc tính quan trọng của xã hội dân chủ. Trong xã hội dân chủ công khai được xem như một tư tưởng xuyên suốt quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. Trong hoạt động tư pháp tư tưởng này cũng được ghi nhận một cách rất cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng. Hiến pháp 1946, Điều 67: “Các phiên tòa phải công khai, trừ trường hợp đặc biệt”. Hiến pháp 1959, Điều 101: “Việc xét xử tại các tòa án nhân dân đều công khai, trừ trường hợp Luật định”. Hiến pháp 1980, Điều 133: “Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp Luật định”. Hiến pháp 1992, Điều 131: “Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp Luật định”. Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (năm 2003) đã cụ thể hóa tư tưởng này tại Điều 18: Xét xử công khai “Việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này qui định. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.” Theo tiến sĩ Luật học Võ Khánh Vinh, “Việc xét xử công khai, một mặt bảo đảm cho nhân dân có thể kiểm tra, giám sát được các hoạt động của Tòa án” (Trang 42 - Bình luận Khoa Học Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự - Nhà xuất bản Công An Nhân Dân). Như vậy, có thể thấy việc xét xử công khai nhằm bảo đảm cơ chế kiểm tra và giám sát của dân đối với hoạt động xét xử. Sự kiểm tra giám sát của dân đối với hoạt động nhà nước nói chung và hoạt động xét xử nói riêng là đòi hỏi cấp bách của một xã hội dân chủ. Mọi hoạt động của Nhà nước không được công khai, triệt tiêu sự giám sát của dân đều có khả năng dẫn đến chuyên quyền, quan liêu và tệ hơn nữa là ở nơi đó “Quốc nạn tham nhũng” được hoành hành. Mặt khác, xét xử công khai là một trong bảo đảm cho hoạt động xét xử được tiến hành đúng đắn, nâng cao trách nhiệm và lương tâm của thẩm phán. Hoạt động xét xử được tiến hành đúng đắn thì bản án phán quyết của Tòa mới được chính xác và được mọi người tôn trọng. Một bản án “đúng người, đúng tội” làm cho những người tham dự phiên Tòa và công luận “Tâm phục, khẩu phục” thì có nghĩa rằng “Công lý đã được thực thi”, “Công lý được thực thi” thì tinh thần thượng tôn pháp luật được nâng cao. Để nguyên tắc công khai được thực thi, điều Luật đã qui định “Xét xử công khai và mọi người (người trên 16 tuổi) có quyền tham dự”. Theo chúng tôi là để nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia phiên tòa, bảo đảm sự giám sát của dân đối với hoạt động xét xử, cũng như bảo đảm tác dụng giáo dục và phòng ngừa của hoạt động xét xử. Để đảm bảo nội dung này, Tòa án phải niêm yết kế hoạch xét xử tại trụ sở của Tòa án để nhân dân biết và tham gia. Đối với những vụ án thu hút sự chú ý của nhân dân, Tòa phải thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân biết và tham gia. Thời gian gần đây, có nhiều phiên Tòa mà số lượng người tham dự rất đông. Thay vì khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tham gia thì lực lượng cảnh sát bảo vệ phiên tòa và Tòa án cố tình ngăn cản không cho người dân tham gia với lý do: - Phòng xử án hẹp, không đủ chỗ. - Tham gia đông không đảm bảo trật tự phiên tòa. - Cá biệt, có Tòa còn yêu cầu người tham gia phải có đơn xin tham dự. Theo chúng tôi, dù với bất cứ lý do nào cũng đều không thể hạn chế số lượng người tham gia vì điều đó là vi phạm Bộ luật tố tụng hình sự và cao hơn nữa là những hành động “vi hiến”. Để khắc phục tình trạng nêu trên và tránh tình trạng vi phạm “Nguyên tắc xét xử công khai” theo chúng tôi Tòa án có thể tiến hành một số giải pháp sau: 1/ Tạo điều kiện thuận lợi cho giới truyền thông tham gia, để những người dân không tham dự trực tiếp có thể xem qua các kênh này. 2/ Phòng xử án hẹp, thiếu chổ, Tòa có thể bố trí loa phát thanh ngoài phòng xử án để người dân không vào phòng xử án có thể nghe những diễn biến của phiên tòa. 3/ Nếu có điều kiện (chúng tôi cho rằng rất khả thi) tòa có thể dùng camera và các màn hình đặt ngoài phòng xử án để người dân trực tiếp theo dõi diễn biến phiên toàn. 4/ Trong trường hợp cần thiết Tòa có thể xử ở nơi khác (ngoài trụ sở Tòa án). Như vậy, Tòa có thể thuê, mượn những nơi có điều kiện hơn như sân vận động, nhà hát hay hội trường lớn.. v.v.. Tòa án và lực lượng bảo vệ phiên Tòa phải có nghĩa vụ tạo mọi điếu kiện thuận lợi cho mọi người tham dự phiên Tòa. Cản trở hoặc hạn chế người dân tham dự các phiên Tòa, theo chúng tôi là hành động vi phạm pháp luật cần phải nghiêm trị. TP Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 11 năm 2008 Lê Trần Luật, Thạc sỹ Luật học
 
Thư Giám Tỉnh gởi anh em Dòng Chúa Cứu Thế
Lm. Vinhsơn Phạm Trung Thành
07:22 29/11/2008
THƯ GIÁM TỈNH GỞI ANH EM DÒNG CHÚA CỨU THẾ

Kính thưa anh em,

Ngày 8 tháng 12 năm 2008, tám anh chị em giáo dân tại Thái Hà có tên sau đây sẽ chịu sự xét xử của Tòa án nhân dân quận Đống Đa:

1. Bà Ngô Thị Dung, sinh năm 1954,
2. Anh Thái Thanh Hải, sinh năm 1987,
3. Anh Nguyễn Đắc Hùng, sinh năm 1977,
4. Bà Lê Thị Hợi, sinh năm 1947,
5. Ông Lê Quang Kiện, sinh năm 1945,
6. Ông Phạm Trí Năng, sinh năm 1959,
7. Bà Nguyễn Thị Nhi, sinh năm 1962,
8. Bà Nguyễn Thị Việt, sinh năm 1949.

Hơn ai hết, chúng ta biết những anh chị em này vô tội, vô tội theo lương tâm của mỗi người và vô tội kể cả về mặt pháp lý, nhưng vẫn bị truy tố và xét xử.

Cách đây hơn hai ngàn năm, cũng có một “tội nhân” bị xét xử trong tình trạng vô tội, nhưng đã bị kết án và bị giết đi chỉ vì “tội nhân” đó cương quyết bảo vệ sự thật.

Trong thời điểm này, chúng ta cùng hiệp thông và cầu nguyện cho những anh chị em phải chịu oan sai. Tám Mối Phúc là lời mời gọi chúng ta cùng với các anh chị em đó chấp nhận mọi nghịch cảnh và phó thác cho Thiên Chúa để Người làm cho mọi sự nên ích lợi cho những ai yêu mến Người.

Mỗi cộng đoàn anh em hãy thiết tha cầu nguyện cho các anh chị em này, cầu nguyện cho các nhà cầm quyền đất nước, cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta.

Nguyện xin Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót nhưng cũng là Đấng công bằng vô cùng, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội thương ban mọi ơn cần thiết cho chúng ta.

Xin nhắc anh em, Đức Maria tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội là Bổn Mạng chính của Hội Dòng chúng ta.

Kính chào anh em trong Chúa Kitô Cứu Thế.

Ngày 28 tháng 11 năm 2008
Lm. Vinhsơn Phạm Trung Thành
Giám Tỉnh DCCT Việt Nam
 
Hungari đối diện với quá khứ cộng sản
John Chang
07:29 29/11/2008
Hungari đối diện với quá khứ cộng sản

Trong năm 2008 qua, thú vị là không phải các tác phẩm văn học hay nghệ thuật được công luận Hungary để ý tới nhất, mà lại là hai cuốn cùng một đề tài lịch sử: hệ thống trại tập trung cải tạo lao động Gulag của Liên Xô cũ

Đó là tác phẩm nghiên cứu của nữ sử gia, một nhà Nga học nổi tiếng Gereben Ágnes, mang tựa đề “Những cuộc trò chuyện về Gulag”, và quyển hồi ký “Những trại tù Gulag, nơi diễn ra sự diệt chủng của chủ nghĩa Bolshevik” của ông Menczer Gusztáv.

Trước nay, đã có nhiều sử liệu về Gulag được công bố, nhưng nghiên cứu của nữ sử gia Gereben Ágnes đặc biệt ở chỗ, nó đã bác bỏ những ý kiến mới đây của nhiều sử gia mang tính bênh vực, bào chữa và “xét lại” khái niệm Gulag, cho rằng Gulag đơn thuần là một hình thức chiêu tập nhân lực để “xây dựng đất nước, nâng cao quốc phòng”.

Cơ hội làm chứng cuối cùng của các nạn nhân..

Đặc biệt, bên cạnh phần nghiên cứu, phân tích tổng quan, một phần đáng kể của cuốn sách là những hồi tưởng, những cuộc trò chuyện với các nhân chứng, đồng thời là nạn nhân của hệ thống Gulag cách đây hơn nửa thể kỷ. Đó là những người sống qua thế giới kinh khủng của hệ ngục tù hà khắc của thể chế Stalinist, và vì lý do tuổi tác, có thể đây là dịp cuối cùng họ có cơ hội thổ lộ những gì đã trải qua thời ấy.

Sử gia Gereben Ágnes, trong phần nghiên cứu, đã cho rằng những so sánh giữa Auschwitz và Gulag - hai hệ thống ngục tù, trại tập trung và lao động của hai thể chế độc tài thế kỷ XX -, là khập khiễng và vô nghĩa, vì ngoài mục đích diệt chủng toàn trị và trừng phạt, hai hệ thống đó không có điểm gì chung đáng kể.

Theo bà Gereben, Gulag không nhằm vào các nhóm dân tộc, sắc tộc, mà nhằm vào những giai tầng xã hội, những người bị coi là “kẻ thù của nhân dân”. Ngay từ khi mới lên nắm quyền, chính thể Bolshevik đã chủ trương đàn áp và trừng phạt không khoan nhượng những người bất đồng chính kiến, không tán thành chính quyền mới và liệt họ vào những giai tầng bị chụp mũ là “kẻ thù”. Sự báo thù được luật hóa trong các sắc lệnh của Nội đồng Dân ủy (chính phủ Liên Xô thời đó), chẳng hạn, sắc lệnh ra ngày 5-9-1918, mang tên “Về khủng bố đỏ”, trong đó Lenin tuyên bố rất rõ ràng: “Cần bắn chết những kẻ chủ trương âm mưu và nổi loạn”, “cần nhốt vào trại tập trung những kẻ thù giai cấp”. Ngày 1-11 cùng năm, trong tờ báo “Khủng bố đỏ”, một lãnh tụ Bolshevik khác là Mikail Lacis bổ sung thêm: “Chúng ta không tuyên chiến với những cá nhân. Chúng ta muốn tiêu diệt bọn tư sản, như một giai cấp. Vì vậy, trong quá trình điều tra, chớ tìm bằng cứ, hiện trạng để cho thấy bị can có lời lẽ hay hành động chống lại chính quyền Xô-viết. Câu hỏi đầu tiên của các đồng chí hãy là, các anh thuộc giai cấp nào ? Đây là ý nghĩa và bản chất của khủng bố đỏ”.

Thanh trừng, đàn áp ở quy mô lớn.

Nghiên cứu của sử gia Gereben cho thấy, sau bức điện tín gửi ngày 9-8-1918 của Lenin, trong đó lần đầu tiên ông nhắc đến khái niệm “trại tập trung”, những cuộc thanh trừng trở nên thông dụng và được tiến hành ở quy mô rất lớn, và Gulag trở thành công cụ ở tầm nhà nước của sự đe dọa và báo thù. Cũng theo bà Gereben, cho dù không nhằm vào các dân tộc và sắc tộc, mà được thực hiện theo từng giai tầng xã hội, tuy nhiên, trong lịch sử tồn tại của mình, đã có 17 sắc tộc bị đày ải hoàn toàn, và 55 sắc tộc bị đày ải một phần.

Những hồi tưởng của các nạn nhân đã cho thấy hiện thực kinh hoàng của Gulag, khi họ nhớ lại những cuộc thanh trừng, xử tử đối với trẻ vị thành niên nam, các thiếu nữ ở độ tuổi 16-20 đơn thuần trở thành “vật dụng” của các chính ủy thời đó. Trong các trại Gulag, bạo lực đối với trẻ vị thành niên xảy ra như cơm bữa, và một hình phạt rất thông dụng là giam trẻ em cùng tù thường phạm, khiến rất ít em nhỏ sống sót.

Tóm lại, cuốn sách của bà Gereben được đánh giá là một tác phẩm sử học đáng giá, đồng thời, cũng là một hồi tưởng động lòng về hệ thống Gulag, gây chấn động đến độc giả hiện tại.

Nếu như nghiên cứu của bà Gereben Ágnes tập trung vào các nạn nhân người Nga của Gulag, thì cuốn hồi tưởng của ông Menczer Gusztáv lại thuật về những năm tháng khủng khiếp của một người ngoại quốc tại địa ngục Gulag. Bởi lẽ, như chúng ta đã biết, sau Đệ nhị Thế chiến, hàng triệu người từ các nước Đông Âu như Hungary, Ba Lan... đã bị đưa sang Liên Xô và đày ải trong các trại tập trung.

Ký ức tang thương, bút pháp nhân hậu.

Hơn nửa thế kỷ trước, ông Menczer Gusztáv đã trải qua 105 tháng trong các trại tập trung của Đế chế Xô-viết, nhưng phải đến đầu năm 2006 ông mới quyết định viết ra giấy những năm tháng đau đớn ấy, với một bút pháp nhân hậu, không hề có sự thù hằn.

Cuộc đời ông Menczer thoạt đầu diễn ra rất yên bình: ông trưởng thành trong một gia đình thị dân, đời sống đầy đủ, hồi nhỏ ông học giỏi các môn Khoa học Tự nhiên, ham đọc sách, thích thể thao, nói thành thạo tiếng Đức và theo học Đại học Y khoa. Menczer không hề quan tâm đến chính trị, tuy nhiên, khi Đệ nhị Thế chiến bùng nổ, Hungary bị cuốn theo phe Đức, Menczer bị điều ra mặt trận trên tư cách người điều khiển điện đài.

Hè năm 1945, ông bị Hồng quân Liên Xô bắt giữ một cách bất ngờ và vô lý. Buổi sáng, mẹ ông nói, lính Nga kiếm ai đó nhưng không thấy, họ sẽ trở lại. Trưa, ông Menczer chạm trán với người Nga nọ, lập tức ông bị dí súng vào hông và giải đi. Nhờ người phiên dịch, ông mới biết mình bị bắt, bị hỏi cung. Hóa ra, ông và nhiều người khác bị nghi là gián điệp, bị hành hạ về thể xác và tinh thần, để rồi đáng mất sự kháng cự cả về đạo đức. Biên bản hỏi cung ông Menczer dày 319 trang, khi tòa tuyên án, ông chỉ nghe được loáng thoáng con số 10, nhưng không hiểu là 10 năm, tháng hay ngày.

Sau đó là những ngày khổ sở khi ông và các đồng hương bị nhốt vào những toa tàu không có cửa và bị chở sang Liên Xô. Chuyến đi kéo dài 3 tuần, các nạn nhân chỉ được nhận món cá ướp muối rất mặn, nhưng không có nước uống.. Ở trại tập trung Kharkov, do khẩu phần ăn bị giảm thiểu, ộng Mencuer kiệt sức và chỉ còn 36 kg. Vào viện, ông có dịp thực hành những kiến thức y học đã học tại đại học và tham gia công việc của các hộ lý.

Nhưng rồi, Menczer lại bị kết tội âm mưu phản loạn và bị chuyển đi hết trại này đến trại khác. Ông đã có mặt tại tuyến đường sắt Baikál – Amur - Magistral, được báo chí đương thời tuyên truyền là do các đoàn viên cộng sản tự nguyện xây dựng. Ông cũng từng bị giam ở Kolyma, trại Gulag khét tiếng nhất, đã trải qua cái lạnh -63 độ, trong đói khát và bệnh tật. Chỉ mãi về sau, ông mới ý thức được bản án 10 năm tù, và mới có ý thức tìm cách để sống sót qua 10 năm dài dằng dặc ấy. Đức tin đã cứu rỗi Menczer, hàng ngày ông cầu nguyện đều đặn 3 lần, để cầm lòng với những gì đang có. Ngoài ra, ông còn cố đọc nhiều sách, học tiếng Nga và nhận làm mọi việc để trở thành người hữu dụng ngày trong cảnh tù đày.

Những câu chuyện của Menczer đặt con người vào tiêu điểm, chúng ta không cảm thấy sự thù hận, căm giận ở ông. Thực chất, ông chỉ không tha thứ được một thượng úy mật vụ, đã tìm mọi cách để triệt hạ ông. Tuy nhiên, khi bắt gặp người sĩ quan này có quan hệ tình dục với một tù binh nữ và nếu tố giác, tay mật vụ có thể bị ít nhất là 15 năm tù, ông đã im lặng, cho qua.

Hồi hương sau 10 năm tù đày.

Được hồi hương sau cái chết mùa xuân năm 1953 của Stalin, khi vừa đặt chân lên đất Hung, Menczer đã mua 1 tờ báo và chợt nhận ra, cứ đọc hai, ba từ thì lại có một từ ông không còn hiểu (Người VN đi tỵ nạn CS và định cư ở ngoại quốc nhiều năm, hoặc bị tù đầy cải tạo, khi quay về có lẽ cũng có kinh nghiệm tương tự. CSVN không những tước đoạt tự do của nhân dân mà còn dã tâm hủy diệt văn hóa tinh ròng của dân tộc VN để thay vào đó văn hóa giáo Mác lưỡi Lê man rợ). Sự tái hội nhập diễn ra rất khó nhọc, nhưng Menczer cho rằng những năm tháng tù đày đã khiến ông trở nên minh triết hơn, khiến nhân cách của ông phát triển và hoàn thiện hơn.

Tại Hungary, sau biến cố 1989, công luận có điều kiện trực diện với quá khứ với rất nhiều đau thương và những vết trắng. Tuy nhiên, 20 năm đã trôi qua mà người dân Hung vẫn cảm thấy rằng, phải trực diện với quá khứ để nắm bắt được hiện tại và tương lai. Đấy là lý do khiến hai cuốn sách kể trên, cho dù đề cập tới một vấn đề đã rất cũ, vẫn được để tâm thích đáng và nhận được nhiều sự chia sẻ từ mọi giai tầng độc giả.

(Nguồn: http://www.rfi.fr/actuvi/articles/107/article_1719.asp, ngày 28/11/2008)
 
Cần phải xử những tên tội đồ bán đất bán biển, hơn là xét xử giáo dân Thái Hà vô tội
Hoàng Quốc
22:44 29/11/2008
CẦN PHẢI XÉT XỬ NHỮNG TỘI ĐỒ BÁN ĐẤT BÁN BIỂN

I. BẢN CHẤT XÉT XỬ GIÁO DÂN THÁI HÀ LÀ XÉT XỬ TÔN GIÁO.

Nhân cơ hội nhà cầm quyền cộng sản sắp đưa ra tòa ngày 5.12.08 xét xử những người giáo dân liên quan đến đòi công bằng và chân lý cho Giáo Xứ Thái Hà, chúng ta cần đặt vấn đề một cách nghiêm túc và nghiêm trọng không phải cho một nhóm người nhưng thật sự liên quan đến mọi tín đồ các tôn giáo và mọi người Việt Nam chân chính.

Một phần đất của Giáo Xứ Thái Hà bị tham quan âm mưu chiếm đoạt chia chác. Những người giáo dân sắp bị đưa ra tòa, là những người đã chỉ làm việc bảo vệ tôn giáo trong khu vực đất có chủ quyền của giáo xứ để giữ lại phần đất thuộc chủ quyền của mình, kiên quyết không để bọn tham quan chiếm đoạt buôn bán. Đấy là những việc làm chính đáng thực hiện quyền tôn giáo của mình.

Vì thế Giáo Dân Hà Nội kiên quyết bảo vệ đất không chỉ còn nằm ở phạm vi đất đai, nhưng là đất sống, nghĩa là bảo vệ chân lý và đòi hỏi công lý, bảo vệ quyền làm người thể hiện trong quyền tự do tôn giáo của mình. Do đó, họ được sự ủng hộ của toàn thể giáo dân Miền Bắc, của cả giáo dân trong nước, ngoài nước, của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và cả cộng đồng Quốc tế.

Như vậy việc xét xử Giáo dân Thái Hà ngày 8.12 tới đây rõ nét là một vụ xét xử tôn giáo, nhằm cảnh cáo và dằn mặt người Công giáo Việt Nam nói riêng và gián tiếp mọi tín đồ các tôn giáo khác nói chung. Ý đồ này đã thể hiện rất rõ ngay trong thời gian giáo dân bắt đầu thắp nến cầu nguyện bất bạo động mấy tháng qua, chính quyền Hà Nội đã – không phải chỉ là kết án mà là – xử án như bắt bớ giam giữ giáo dân sai pháp luật, đưa nhóm côn đồ đến để chửi rủa giáo dân, nhổ nước bọt vào giáo dân và giáo sĩ, xịt hơi cay vào đám đông có nhiều phụ nữ và trẻ em, đánh đập đổ máu giáo dân và phóng viên, kết án công khai và ngang tàng đòi giết hoặc đuổi Đức Tổng Giám Mục trước mặt các quan chức quốc tế, sai phạm cả những qui tắc căn bản của ngoại giao… Đây rõ ràng là một cuộc bách hại tôn giáo, cuộc bách hại này thật ra đã có ngay từ lúc cộng sản vô thần tràn vào Việt Nam, chỉ khác một điều là ngày xưa ít ai biết được, còn ngày nay nhờ các phương tiện truyền thông tối tân, nhiều người nhận ra bộ mặt thật đầy giả dối và hiểm độc của cộng sản vô thần bạo quyền và tham nhũng. Một ví dụ cụ thể như khắp tỉnh Sơn La mấy chục năm qua cho đến nay, giáo dân bị cấm đoán không được tụ họp ngoài gia đình để dự lễ và do đó không có một nhà thờ nào được phép xây dựng trong tỉnh này.

II. TẠI SAO KHÔNG ĐƯA NHỮNG TỘI ĐỒ DÂN TỘC BÁN ĐẤT QUỐC GIA RA XÉT XỬ?

Những người giáo dân Thái Hà là những người hiền lành đầy nhiệt tâm để bảo vệ đất đai và đất sống của mình. Họ chỉ phá vỡ vài thước tường của họ để bảo vệ đất của họ và tôn giáo của họ, thế mà họ đã bị giam giữ trái pháp luật nhiều ngày và vài ngày nữa sẽ bị đưa ra tòa xét xử với tội gây rối trật tự và phá hoại tài sản.

Tôi thắc mắc tự hỏi chính quyền Hà Nội này là của ai? Họ có công lý công bằng không? Tại sao những kẻ phá rối trật tự nghiêm trọng như kẻ xịt hơi cay, những kẻ đánh đập dân đổ máu, những tên côn đồ hò hét đập phá cổng đền Thánh Giêrađô trước mặt công an lớp lớp… lại không bị đưa ra tòa xét xử. Tại sao? Tại sao? Tại sao?

Tuy nhiên vấn đề chính và cực kỳ quan trọng phải được đặt ra cho mọi người, đó là những kẻ hiền lành có lương tâm và trách nhiệm biết lo bảo vệ đất cho mình thì bị đưa ra tòa xét xử, còn đối với những cá nhân và tập thể hiến Đất quê hương, Đất dân tộc, Đất quốc gia cho Trung Quốc thì Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính quyền Cộng sản Hà Nội lại im thin thít, thậm tệ đến nỗi người dân và sinh viên biểu tình phản đối trước tòa Đại sứ Trung Quốc cũng bị công an ngăn chặn.

Ải Nam Quan đã mất, nhiều diện tích biên giới đã mất, dựa trên văn bản ký xác nhận hải lý biên giới của Thủ Tướng Cộng Sản VN, Trung Quốc đã công bố Hoàng Sa đã thuộc về một tỉnh của Trung Quốc, Trường Sa trong tầm tiến của Trung Quốc…

Xưa nay có chính quyền nào, vị vua Việt nào, dù là những ông vua hèn mạt nhất, thử hỏi có ai đã nhường một tấc đất nào cho Trung Quốc?

Xin hỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính quyền Cộng sản Việt Nam có phải là của Dân Tộc Việt Nam, của Đất Nước Việt Nam hay không?

Nếu có phải thì tại sao lại không đưa những đại tội đồ của dân tộc và của đất nước ra xét xử?

Còn nếu không thì chắc chắn Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam muôn đời sẽ là kẻ bán đất quê hương, bán biển quốc gia. Và Đảng cũng như cá nhân các đảng viên cộng sản được gì? Được cái ghế quyền lực để làm giàu cho Đảng và cá nhân đảng viên ư? …

Sao cộng sản Hà Nội lại làm to chuyện nhỏ để phớt lờ và phủ lấp đi chuyện to đùng làm đau lòng mọi người dân Việt muôn thế hệ và là nỗi nhục nhã vô vàn đối với Ông Bà Tổ Tiên đã đổ bao xương máu giữ gìn đất nước Việt Nam yêu dấu này?!

Than ôi ! Mọi người con dân chân chính Viêt Nam, xin hãy thắp một nén nhang tạ tội, hãy đốt một ngọn nến nguyện cầu, hãy thổi bùng ngọn đuốc “quyết chiến” của tinh thần Diên Hồng. Hãy quy tụ tất cả thành ánh sáng và sức mạnh vô biên để chiếu tỏa công lý và chân lý, để bảo vệ quê hương đất nước Việt Nam muôn năm toàn vẹn và bền vững.
 
Vì sao chính quyền ''Nhà Nước Sơn La'' lộng hành? (3)
Song Hà
22:51 29/11/2008
Sơn La: “Nhà nước tự trị về tôn giáo” Kỳ III: VÌ SAO CHÍNH QUYỀN “NHÀ NƯỚC TỰ TRỊ SƠN LA” LỘNG HÀNH? Những tiếng kêu uất nghẹn Những người Công giáo Sơn La khi tiếp xúc với chúng tôi, đều cố gắng thu mình cho nhỏ bé lại, tiếng nói cũng nhỏ hơn, dù trong họ tự do tôn giáo vẫn là khát khao vô bờ bến. Sự sợ hãi bao chục năm nay ngấm vào máu thịt và trở thành những điều hiển nhiên ở người dân Sơn La có đạo đã làm ngạc nhiên nhiều người lần đầu đến đây. Những buổi cầu nguyện âm thầm của họ, những tiếng kêu cầu vang lên từ lâu, họ gửi đến Thiên Chúa Toàn năng để mong được qua cơn thử thách kéo dài này. Tiếc thay, lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa vẫn gặp phải cản trở từ bức tường thành của “Nhà nước Sơn La” nên không thể thành hiện thực. Họ gửi đơn đến chính quyền các cấp “XIN” cái điều tối thiểu cơ bản của cuộc sống con người là Tự do thực hiện việc thờ phụng, đã bị “Nhà nước tự trị Sơn La” cướp mất mấy chục năm nay. Nhưng đáp trả là sự vô cảm, sự trắng trợn và bỉ ổi của nhà cầm quyền bất chấp liêm sỉ, chà đạp nguyện vọng của người dân, chà đạp pháp luật trong một nhà nước pháp quyền(?) Họ cũng đã gửi đến các cấp Giáo quyền những nguyện vọng tâm tư của đàn con xa xôi, lạc lõng và đói khát về Lời Chúa, Thánh Thể và Thánh Lễ. Sơn La nằm dưới sự quản lý của Toà Giám mục Hưng Hoá. Trước đây, Đức Giám mục Antôn Vũ Huy Chương đã gửi đơn xin chính quyền cho phép tiến hành các hoạt động mục vụ tôn giáo cho đàn chiên của mình. Nhưng đơn của Ngài đã được chính quyền đáp trả thẳng thừng: “Sơn La không có nhu cầu tôn giáo”(!?). Kèm theo đó là hàng loạt hành động khủng bố bằng tất cả sức mạnh của hệ thống chính trị, quân đội, cảnh sát của “Nhà nước tự trị về tôn giáo Sơn La” để dằn mặt. Và quả là sự dằn mặt này có tác dụng, đàn chiên cứ thế mà đói khát Thánh Lễ và Thánh Thể, chính quyền cứ thế mà mặc sức tung hoành theo cách nói là “múa tay trong bị”. Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thoại được giao trách nhiệm mục vụ cho đàn chiên này, thỉnh thoảng lên Sơn La, lập tức bị chính quyền huy động lực lượng theo dõi, gây khó dễ và lập biên bản, đàn áp. Đến những nơi có đàn chiên của mình, Ngài vội vàng mắt trước mắt sau để “biến” nếu không muốn được sự quan tâm thái quá của chính quyền. Noel năm ngoái, chính Linh mục Thoại đã bị Công an bắt về đồn và giam giữ tại đó khi đến với Giáo dân ngày Chúa giáng trần. Sự kiện này cả thế giới đã được thông tin. Tiếc thay, những tiếng nói chính thức về sự kiện này, bày tỏ sự hiệp nhất và ủng hộ đàn chiên của Chúa ở Sơn La chưa đủ để những kẻ như “Giáo chủ” Thào Xuân Sùng phải chùn tay bạo quyền với giáo dân và Giáo hội. Giáo dân nơi đây vẫn phải âm thầm chịu đựng, phải nuốt nước mắt vào trong những khi đảng ra rả ca bài ca “ơn đảng, ơn chính phủ”. Tiếng khóc âm thầm, tiếng kêu uất nghẹn của giáo dân Sơn La vẫn vô vọng giữa núi rừng và cao nguyên Mộc Châu rộng lớn. Những hành động của “Nhà nước Sơn La” với giáo dân những năm qua là sự tận diệt, vì họ thừa biết rằng với người công giáo, Thánh Lễ và Thánh Thể là điều không thể thiếu. Cũng chính vì biết điều đó, mà họ đặt ra cái phép “hoàn toàn tự do tôn giáo” nhưng chỉ được “tu tại gia”. Vì sao sự ác vẫn lộng hành? Trước hết, vì Sơn La là vùng rừng núi xa xôi, cách trở, giao thông không thuận tiện. Nhóm giáo dân Sơn La bao gồm nhiều dân tộc, sống không tập trung, nhiều thôn bản sống cách xa nhau, phương tiện thông tin liên lạc không có. Ở đó, chính quyền tha hồ mà hành xử theo luật rừng. Nhận thức của người dân cũng như giáo dân Sơn La về những quyền căn bản của mình không được đề cập đến vì họ vẫn bị nhốt trong hậu quả của chính sách ngu dân. Ở đó, chỉ có một thứ tôn giáo Mác – Lênin được phép ngự trị. Nhiều người không nhận chân được “giá trị” của thứ tôn giáo này và những hậu quả của nó cũng như thái độ của nhân loại đối với nó như thế nào. Người dân trong vòng tối tăm của nó sẽ không biết được những hậu quả ghê gớm của nghề “đấu tranh giai cấp” đã làm băng hoại xã hội ra sao. Ở đó, chỉ có một thứ thần thánh được chính thức đưa lên bàn thờ: Mác - Lênin - Hồ Chí Minh, chỉ có một thứ kinh sách được tha hồ tán phát, nhồi nhét một cách có hệ thống và tốn kém là “Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh” với câu thần chú: “đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản” để bảo vệ tài sản, quyền lợi cho lớp tư bản đỏ - những giáo chủ vào giáo sỹ của nhóm tôn giáo này. Ở đó người dân chưa đủ điều kiện để nhận mặt được thứ thần tượng này hiện đang có vị trí nào trong cộng đồng dân tộc và nhân loại. Họ không biết rằng với thế giới, thần tượng Mác – Lênin đã được những chiếc cần cẩu hạng lớn lật đổ nhào vào sọt rác lịch sử. Ở Việt Nam, đám đông dân chúng biết điều đó, nhiều người đã có kinh nghiệm về CNCS. Người dân đã có những câu thơ như sau: Ông Lênin ở nước Nga Cớ sao lại đến vườn hoa nước mình? Thì ra dân chúng bất bình Nên ông đào tẩu một mình sang đây. Còn Hồ Chí Minh hiện đang được nhóm tôn giáo Mác – Lê ở Việt Nam sơn phết và dựng lên làm chiếc bình phong cho họ ẩn trốn đằng sau mà tha hồ lộng hành kiếm ăn trên nỗi đau người dân. Khi tôn giáo Mác – Lê này tồn tại thành chính thống, các chức sắc của nó đã ra sức thực hiện các chính sách, các đường lối nhằm trấn áp tất cả những cá nhân, tổ chức, tôn giáo nào ảnh hưởng đến sự độc tôn quyền lợi của chúng. Vì vậy “Giáo chủ” Thào Xuân Sùng mới bất chấp pháp luật mà dung túng cho tay chân của ông ta ra những “văn bản đen” nhằm thực hiện chính sách tự trị của mình. Những “giáo chủ” cấp cao ở trung ương cũng sẵn sàng nhắm mắt làm ngơ cho những kẻ như Thào Xuân Sùng được tự do hành động khi không một ai dám lên tiếng. Chính vì vậy, “Nhà nước Sơn La” mới thi hành được chính sách tự trị về tôn giáo của mình. Ở đó, họ coi quyền tự do tôn giáo là một “ân huệ, xin – cho” thật sự. Họ tự định nghĩa tự do tôn giáo theo cách thức riêng của mình. Họ không chấp nhận các nguyên tắc cơ bản của luật pháp Nhà nước Việt Nam đã định nghĩa. Họ sẵn sàng, ngang nhiên dùng bạo lực và nghĩ rằng nơi núi cao, rừng sâu không một ai có thể biết. Phía giáo quyền trong Giáo hội cũng chưa có những phản ứng cần thiết, dù biết rất rõ quyền của mình gắn liền với quyền lợi của mỗi người dân trong nước và hoàn toàn bình đẳng, được pháp luật minh nhiên bảo vệ. Kinh nghiệm cho thấy, những nơi có hàng chủ chăn và giáo sỹ kiên vững, những quyền cơ bản của giáo dân và công dân phần nào được tôn trọng hơn, và đương nhiên là tiếng nói của những chủ chăn này được coi trọng hơn. Ngược lại nơi nào chủ chăn và giáo sỹ hèn đớn khiếp nhược, thì nơi đó tai hoạ luôn rình rập bản thân họ và những giáo dân tha hồ bị bức hại. Toà Giám mục Hưng Hoá, nơi Đức Cha Vũ Huy Chương cai quản, chưa có một sự phản ứng chính thức nào trước công luận để thế giới nghe được những tiếng kêu nghẹn ngào và phẫn uất của cộng đồng giáo dân Sơn La bé mọn. Tất cả những hành động trấn áp, những cuộc bắt bớ giáo sỹ, giáo dân vẫn nằm trong sự im lặng đáng sợ, và qua đó được mặc nhiên coi như là chuyện thường tình. Có lẽ cũng vì thế mà mới đây nhà nước đã tìm được ở Giáo phận Hưng Hoá Linh mục Dương Phú Oanh làm Chủ tịch cái gọi là “Uỷ ban đoàn kết Công giáo thành phố Hà Nội” – Một tổ chức ai cũng hiểu là được nhà nước sinh ra nhằm thành lập một “giáo hội quốc doanh” như ở nước Trung Quốc cộng sản hiện tại, một tổ chức như giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay với cương lĩnh là “đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Chức chủ tịch cái uỷ ban này, được văn bản điều lệ mới quy định: “là người được Đảng, nhà nước và mặt trận tín nhiệm”. Trong khi linh mục Oanh hiện đang được giao Uỷ ban Phụng tự của Giáo phận Hưng Hoá. Vì vậy sự ác cứ lộng hành khi không có một tiếng nói chân chính, công tâm nào ngăn cản hoặc lên án. Ai sẽ chịu trách nhiệm trước những sự lộng hành ngang ngược của “Nhà nước Sơn La”? Chính những kẻ đã dựng nên chính sách tôn giáo tự trị Sơn La phải chịu trách nhiệm về việc đó. Ngoài ra, những kẻ dung túng nó cũng có trách nhiệm liên đới nặng nề. Tất nhiên, không loại trừ trách nhiệm của những người đang bị áp bức và ngay cả các vị chủ chăn đã để cái ác lộng hành như một việc tự nhiên. Cũng chính là trách nhiệm của những người làm tôi hai chủ như linh mục Dương Phú Oanh, Chủ tịch UBĐK Công giáo Hà Nội, người giữ trọng trách ở Giáo phận Hưng Hoá đã không hề có tiếng nói nào để bênh vực công lý, quyền lợi của giáo dân, trong khi vẫn dùng khá nhiều thời gian đi phụng sự một nhóm “quốc doanh” mang tên Công giáo. Phải chăng đây là một hành động “cõng rắn cắn gà nhà”? Không bao giờ con sói tự đổi thay bản chất để thành con cừu, đó là quy luật. Nhưng khi có những tiếng nói mạnh mẽ, hành động của con sói cũng phải đi vào hành lang, vào “lề phải” do chính nó đặt ra để được vào sân chơi chung của thế giới, của nhân loại văn minh. Nếu không, mãi mãi “Nhà nước Sơn La” vẫn cứ thực hiện những biện pháp ngày càng khốc liệt hơn chính sách tự trị về tôn giáo của mình. Và cứ thế, người dân Sơn La nói chung và giáo dân Sơn La nói riêng, mãi mãi vẫn là những kẻ tôi mọi bán xương máu và sức lao động của mình, bị triệt tiêu mọi quyền tự do, mọi khả năng làm người để phục vụ nhóm tín đồ và chức sắc của thứ Tôn giáo Mác – Lênin lỗi thời và phản động. Vì vậy, trách nhiệm của mỗi người công dân, của mỗi giáo dân và đặc biệt là giáo quyền là cần phải có những tiếng nói mạnh mẽ, không thể đồng loã với tội ác. Toàn thể Giáo hội Việt Nam và Giáo hội Hoàn vũ đang nói lên tiếng nói hiệp nhất mạnh mẽ qua phong trào cầu nguyện cho công lý, hoà bình. Những giáo dân, giáo sĩ và chủ chăn của Giáo phận Hưng Hoá cũng cần được sự hiệp nhất của toàn thể tín hữu và mọi người trên toàn thế giới để vượt qua cơn bách hại hiện nay. (Còn tiếp)
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Vó Cá
Lê Trị
00:09 29/11/2008

VÓ CÁ



Ảnh của Lê Trị

Đồng hoang sông vắng cá đâu

Quê hương nghèo khổ mối sầu triền miên!

(Lê Trị)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền