Phụng Vụ - Mục Vụ
Cửa Thánh mở - Niềm vui Chúa ra đời
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
00:21 23/12/2024
SUY NIỆM ĐÊM GIÁNG SINH
(Lc 2, 1-14)
Cửa Thánh mở - Niềm vui Chúa ra đời
Đêm nay là đêm vui nhất không chỉ riêng Giáo Hội Công Giáo mà còn cho toàn thể : nhân loại. Đêm nay thật linh thiêng, vì có tin từ Trời xuống lúc nửa đêm cho các mục đồng : “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân : Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi” (Lc 2,12). Đêm nay Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần loan toàn cho thể nhân loại, cho mọi người và từng người ở thời đại chúng ta.
Tin mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh
Lời của Sứ Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, làm chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2024 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, và cư ngụ giữa chúng ta. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại : “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên” (Tv 84, 11).
“Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đại tin vui được loan báo vang vọng trong đêm đen. Làm sao không mừng được, bởi vì Hài Nhì giáng sinh làm người là một Quà Tặng được Thiên Chúa Cha gửi trực tiếp đến cho các mục đồng trong cánh đồng Belem, cho dân vùng Giuđa lẫn vua Hêrôđê, cho các nhà đạo sĩ từ phương xa vất vả tìm đến, cho Mẹ Maria, Thánh Giuse và cho thế giới. Thiên Chúa đang trực tiếp chỉ tay vào mỗi người chúng ta và nói với chúng ta : Hài Nhi Giêsu là Quà Tặng cho con đó.
Tin mừng Chúa sinh ra đời là tin vui trọng đại cho toàn thế giới, niềm vui ấy là chính Chúa Giêsu, “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chung ta” (). Nhân loại đón nhận niềm vui Giêsu mà Chúa Cha ban tặng: “Nào chúng ta hãy đến Belem” để đón lấy Hài Nhi Giêsu, Đấng Cứu Thế. Người là Qùa Tặng của Cha trên trời gửi tặng mỗi chúng ta trong hoàn cảnh của mình.
Mừng vì Cửa Năm Thánh mở ra
Việc mở Cửa Năm Thánh vào ngày trước Lễ Đêm Giáng sinh cho thấy Năm Thánh là một trong những khoảnh khắc quan trọng, tượng trưng cho một con đường, một sự canh tâm thiêng liêng, và lời mời gọi đón nhận cuộc sống mới được ban cho chúng ta qua chiếm ngắm Hài Nhi, Con Thiên Chúa xuống thế làm người.
Quả thật, Chúa Giêsu sinh xuống làm người để đưa con người ra khỏi bóng đêm tội lỗi. Giải thoát con người khỏi mọi hình thức nô lệ, mở mắt cho người mù, giải phóng những người bị áp bức (x. Lc 4,18-19). Sứ vụ Cứu Thế của Người đã mở rộng ý nghĩa Năm Toàn xá giải quyết mọi hình thức áp bức con người, trở thành một dịp ân sủng để giải thoát những ai đang bị giam cầm của tội lỗi, cam chịu và tuyệt vọng. Năm Thánh là lời mời gọi chữa lành khỏi cái mù nội tâm ngăn cản chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và người khác, giúp chúng ta những Người Hành Hương Hy Vọng, gặp gỡ Chúa, trong hy vọng chứa chan.
Đối diện với những điều không chắc chắn của cuộc sống, con người khao khát vượt qua sự ngờ vực, hoài nghi và tuyệt vọng. Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, đáp lại nỗi khao khát nội tâm này, mời gọi chúng ta tái khám phá niềm vui có Chúa ở cùng. Cuộc gặp gỡ này đổi mới chính cuộc sống. “Có thể thấy rõ rằng đời sống Kitô hữu là một con đường cần những khoảnh khắc mạnh mẽ để nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng như người bạn đồng hành không thể thay thế, cho ta thoáng thấy mục tiêu là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu” (Hy vọng không làm thất vọng, n. 5).
Bước vào Năm Thánh với niềm hy vọng
Cửa Năm Thánh lệ thường đã mở với chủ đề : “Những Người Hành Hương Hy Vọng”. Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, là Tình Yêu đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử.
Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Người sẽ cứu dân Người khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Quả thật, khi chiêm ngắm liên lỉ dung mạo của Chúa Giêsu, chúng ta khám phá được rằng, tình yêu của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng, nghĩa là ở ngay từ một Hài Nhi bé bỏng đã mang đến cho chúng ta một tình yêu không bao giờ vơi cạn, khi chấp nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa, để những ai trong Đêm Giang Sinh dù không có một mái nhà, dù đang đau khổ vì tình yêu bị phản bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi thì nhìn vào mái ấm gia đình ở nơi hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó đồng cảm và thông cảm được với mình.
Lạy Chúa Hài Nhi, Tình Yêu của Chúa Cha, Hoàng tử của Hòa Bình, Ðấng Cứu Chuộc, đã giáng sinh vì chúng con. Trong giai đoạn đầu của Năm Thánh chúng con vừa bước vào, xin Chúa hãy đổ trên chúng con Thánh Thần của Chúa, ngõ hầu ân sủng của Mầu Nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu niềm hy vọng, tích cực dấn thân sống quảng đại hơn, phù hợp với sự sống mới do bí tích Rửa tội trao ban. Xin hãy đồng hành với Giáo hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo hội bước đi trong Năm Thánh! Amen.
(Lc 2, 1-14)
Cửa Thánh mở - Niềm vui Chúa ra đời
Đêm nay là đêm vui nhất không chỉ riêng Giáo Hội Công Giáo mà còn cho toàn thể : nhân loại. Đêm nay thật linh thiêng, vì có tin từ Trời xuống lúc nửa đêm cho các mục đồng : “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân : Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi” (Lc 2,12). Đêm nay Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần loan toàn cho thể nhân loại, cho mọi người và từng người ở thời đại chúng ta.
Tin mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh
Lời của Sứ Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, làm chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2024 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, và cư ngụ giữa chúng ta. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại : “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên” (Tv 84, 11).
“Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đại tin vui được loan báo vang vọng trong đêm đen. Làm sao không mừng được, bởi vì Hài Nhì giáng sinh làm người là một Quà Tặng được Thiên Chúa Cha gửi trực tiếp đến cho các mục đồng trong cánh đồng Belem, cho dân vùng Giuđa lẫn vua Hêrôđê, cho các nhà đạo sĩ từ phương xa vất vả tìm đến, cho Mẹ Maria, Thánh Giuse và cho thế giới. Thiên Chúa đang trực tiếp chỉ tay vào mỗi người chúng ta và nói với chúng ta : Hài Nhi Giêsu là Quà Tặng cho con đó.
Tin mừng Chúa sinh ra đời là tin vui trọng đại cho toàn thế giới, niềm vui ấy là chính Chúa Giêsu, “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chung ta” (). Nhân loại đón nhận niềm vui Giêsu mà Chúa Cha ban tặng: “Nào chúng ta hãy đến Belem” để đón lấy Hài Nhi Giêsu, Đấng Cứu Thế. Người là Qùa Tặng của Cha trên trời gửi tặng mỗi chúng ta trong hoàn cảnh của mình.
Mừng vì Cửa Năm Thánh mở ra
Việc mở Cửa Năm Thánh vào ngày trước Lễ Đêm Giáng sinh cho thấy Năm Thánh là một trong những khoảnh khắc quan trọng, tượng trưng cho một con đường, một sự canh tâm thiêng liêng, và lời mời gọi đón nhận cuộc sống mới được ban cho chúng ta qua chiếm ngắm Hài Nhi, Con Thiên Chúa xuống thế làm người.
Quả thật, Chúa Giêsu sinh xuống làm người để đưa con người ra khỏi bóng đêm tội lỗi. Giải thoát con người khỏi mọi hình thức nô lệ, mở mắt cho người mù, giải phóng những người bị áp bức (x. Lc 4,18-19). Sứ vụ Cứu Thế của Người đã mở rộng ý nghĩa Năm Toàn xá giải quyết mọi hình thức áp bức con người, trở thành một dịp ân sủng để giải thoát những ai đang bị giam cầm của tội lỗi, cam chịu và tuyệt vọng. Năm Thánh là lời mời gọi chữa lành khỏi cái mù nội tâm ngăn cản chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và người khác, giúp chúng ta những Người Hành Hương Hy Vọng, gặp gỡ Chúa, trong hy vọng chứa chan.
Đối diện với những điều không chắc chắn của cuộc sống, con người khao khát vượt qua sự ngờ vực, hoài nghi và tuyệt vọng. Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, đáp lại nỗi khao khát nội tâm này, mời gọi chúng ta tái khám phá niềm vui có Chúa ở cùng. Cuộc gặp gỡ này đổi mới chính cuộc sống. “Có thể thấy rõ rằng đời sống Kitô hữu là một con đường cần những khoảnh khắc mạnh mẽ để nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng như người bạn đồng hành không thể thay thế, cho ta thoáng thấy mục tiêu là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu” (Hy vọng không làm thất vọng, n. 5).
Bước vào Năm Thánh với niềm hy vọng
Cửa Năm Thánh lệ thường đã mở với chủ đề : “Những Người Hành Hương Hy Vọng”. Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, là Tình Yêu đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử.
Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Người sẽ cứu dân Người khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Quả thật, khi chiêm ngắm liên lỉ dung mạo của Chúa Giêsu, chúng ta khám phá được rằng, tình yêu của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng, nghĩa là ở ngay từ một Hài Nhi bé bỏng đã mang đến cho chúng ta một tình yêu không bao giờ vơi cạn, khi chấp nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa, để những ai trong Đêm Giang Sinh dù không có một mái nhà, dù đang đau khổ vì tình yêu bị phản bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi thì nhìn vào mái ấm gia đình ở nơi hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó đồng cảm và thông cảm được với mình.
Lạy Chúa Hài Nhi, Tình Yêu của Chúa Cha, Hoàng tử của Hòa Bình, Ðấng Cứu Chuộc, đã giáng sinh vì chúng con. Trong giai đoạn đầu của Năm Thánh chúng con vừa bước vào, xin Chúa hãy đổ trên chúng con Thánh Thần của Chúa, ngõ hầu ân sủng của Mầu Nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu niềm hy vọng, tích cực dấn thân sống quảng đại hơn, phù hợp với sự sống mới do bí tích Rửa tội trao ban. Xin hãy đồng hành với Giáo hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo hội bước đi trong Năm Thánh! Amen.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:32 23/12/2024
5. Lúc nào con nói đủ rồi thì lúc đó con sẽ bị thương vong.
(Thánh Augustine)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:36 23/12/2024
21. NÓI ĐÙA QUÁ NHẠT
Có một quan chức văn võ trong mạc phủ tên là Vương Tượng ở Toàn Châu tỉnh Quảng Tây, sở trường là nói chuyện tiếu lâm.
Một hôm, các quan võ tập họp lại, xúi Vương Tượng nói chuyện tiếu, lại cố ý hạ thấp ông ta, vì xúi không được nên bình phẩm giá trị của ông ta:
- “Lời nói đùa này quá nhạt”, (ý nói là không có hứng thú.)
Vương Tượng liền nói:
“Sáng nay tôi nhìn thấy nơi cổng thành có một người gánh phân, vì không cẩn thận nên sẩy chân, một gánh phân rơi trên đất”.
Các võ quan nói:
- “Cũng là nhạt”.
Vương Tượng nói tiếp:
- “Các ông đều chưa nếm qua, sao lại biết là nhạt chứ?”
Mọi người cười hô hô.
(Tuyết Đào Hài Sử)
Suy tư 21:
Phê bình chỉ trích người khác là bệnh bất trị của con người, nhất là phê bình chỉ trích những người tài giỏi, nếu những người tài giỏi này là những người mà họ có thành kiến thì họ lại phê bình chỉ trích cách bạo hơn, nguyên nhân đơn giản là vì họ không có sự khiêm tốn mà lại có tình ghen ghét.
Bệnh chỉ trích bất trị này không chừa một ai, bởi vì ai cũng là con người nên ai cũng cảm thấy mình bị “xúc phạm” khi cái thằng cha nghèo kiết xác ấy bây giờ có con làm linh mục; càng cảm thấy mình bị “xúc phạm” hơn khi cái gia đình của con mẹ ấy không ra gì mà con cái đều học hành đến nơi đến chốn !? Thiên Chúa là tình yêu, mọi người Ki-tô hữu đều biết điều ấy, nhưng vì không đào sâu tình yêu của Thiên Chúa thể hiện trên mỗi tạo vật, nhất là trên mỗi một con người là hình ảnh của Ngài, nên có những người Ki-tô hữu cảm thấy bị “sốc” khi nghe tin người anh em này thành đạt, người chị em kia trở thành nổi tiếng...
Không ai đi nếm phân để coi nó mặn hay nhạt, thì cũng đừng ai phê bình chỉ trích đánh giá bề ngoài của một con người, vì như thế là bày tỏ chúng ta có một tâm hồn ích kỷ ghét ghen và kiêu ngạo, vì như thế chẳng khác chi là chưa nếm phân sao lại biết phân nhạt !?
Ai có tâm hồn biết phản tỉnh thì hiểu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Có một quan chức văn võ trong mạc phủ tên là Vương Tượng ở Toàn Châu tỉnh Quảng Tây, sở trường là nói chuyện tiếu lâm.
Một hôm, các quan võ tập họp lại, xúi Vương Tượng nói chuyện tiếu, lại cố ý hạ thấp ông ta, vì xúi không được nên bình phẩm giá trị của ông ta:
- “Lời nói đùa này quá nhạt”, (ý nói là không có hứng thú.)
Vương Tượng liền nói:
“Sáng nay tôi nhìn thấy nơi cổng thành có một người gánh phân, vì không cẩn thận nên sẩy chân, một gánh phân rơi trên đất”.
Các võ quan nói:
- “Cũng là nhạt”.
Vương Tượng nói tiếp:
- “Các ông đều chưa nếm qua, sao lại biết là nhạt chứ?”
Mọi người cười hô hô.
(Tuyết Đào Hài Sử)
Suy tư 21:
Phê bình chỉ trích người khác là bệnh bất trị của con người, nhất là phê bình chỉ trích những người tài giỏi, nếu những người tài giỏi này là những người mà họ có thành kiến thì họ lại phê bình chỉ trích cách bạo hơn, nguyên nhân đơn giản là vì họ không có sự khiêm tốn mà lại có tình ghen ghét.
Bệnh chỉ trích bất trị này không chừa một ai, bởi vì ai cũng là con người nên ai cũng cảm thấy mình bị “xúc phạm” khi cái thằng cha nghèo kiết xác ấy bây giờ có con làm linh mục; càng cảm thấy mình bị “xúc phạm” hơn khi cái gia đình của con mẹ ấy không ra gì mà con cái đều học hành đến nơi đến chốn !? Thiên Chúa là tình yêu, mọi người Ki-tô hữu đều biết điều ấy, nhưng vì không đào sâu tình yêu của Thiên Chúa thể hiện trên mỗi tạo vật, nhất là trên mỗi một con người là hình ảnh của Ngài, nên có những người Ki-tô hữu cảm thấy bị “sốc” khi nghe tin người anh em này thành đạt, người chị em kia trở thành nổi tiếng...
Không ai đi nếm phân để coi nó mặn hay nhạt, thì cũng đừng ai phê bình chỉ trích đánh giá bề ngoài của một con người, vì như thế là bày tỏ chúng ta có một tâm hồn ích kỷ ghét ghen và kiêu ngạo, vì như thế chẳng khác chi là chưa nếm phân sao lại biết phân nhạt !?
Ai có tâm hồn biết phản tỉnh thì hiểu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Khoảng lặng cần
Lm Minh Anh
15:08 23/12/2024
KHOẢNG LẶNG CẦN
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel!”.
Richard Wurmbrand - sau 14 năm chịu giam cầm - chia sẻ trong “Ở Tù Với Chúa”, “Mes Prisons Avec Dieu”. Có lúc quá tuyệt vọng, ông suýt mất đức tin đến nỗi chỉ muốn tự tử, vì xem ra Chúa đã bỏ ông! Cho đến một ngày kia, qua khe hở của trần nhà, ông thấy một tổ chim. Kìa, chim mẹ đang bón mồi cho mấy chú chim con! Ông chợt bừng tỉnh, Chúa không bao giờ bỏ rơi ông; nhà tù là ‘khoảng lặng cần’ để ông hiểu biết Chúa hơn!
Kính thưa Anh Chị em,
Như Wurmbrand, cha của Gioan - Zacharia - cũng có một trải nghiệm tương tự. Lời Chúa sáng 24/12 tiết lộ, chín tuần trăng bị câm của Zacharia là một trong những ‘khoảng lặng cần’ đã đem người cha tội nghiệp này đến gần Thiên Chúa và hiểu biết Ngài hơn!
Trong thời gian buộc phải lặng thinh, có lẽ, thoạt đầu Zacharia cảm thấy bức bối, khó chịu; nhưng dần dần, nhờ kiên trì đón nhận sự cô tịch, ông đã bắt đầu yêu thích nó và cảm nhận được sự thử thách cần thiết mà Chúa muốn ông trải qua. Cũng thế, đau khổ của chúng ta chỉ có thể có một ý nghĩa tích cực - một giá trị cứu rỗi - khi chúng ta dám ôm lấy nó, tháp nó vào thập giá Chúa Kitô! Chính lời cầu nguyện và sự im lặng đã đưa và sẽ đưa con người đến gần Thiên Chúa và hiểu biết Ngài sâu sắc hơn. Đó là những ‘khoảng lặng cần’ để con người đạt được sự thân mật với Ngài khi nó khám phá ra cách thức Ngài giáo dục!
Và cuối cùng, sự im lặng ‘thánh thiện’ cần thiết này đã bùng lên những gì phải bùng lên! Zacharia hẳn đã nhớ lại lời thiên sứ, “Này đây, ông sẽ bị câm cho đến ngày các điều ấy xảy ra!”. Và "ngày các điều ấy" đã đến! Zacharia đã có chín tháng chuẩn bị cho bài ca Benedictus bất hủ của mình. Lời đầu tiên ông thốt ra khi lưỡi được buông lỏng không phải là một lời ta thán Đấng khiến ông khổ đau mà là một bài thánh ca ngợi khen lòng thương xót của Ngài; không chỉ với ông, gia đình ông, dân tộc ông nhưng với cả một nhân loại đáng thương, “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel!”. Lời ca đó ứng với những gì đã được hứa cho Đavít, “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững” - bài đọc một. Tâm tình của Zacharia, một lần nữa, hoà với tâm tình của Đavít qua Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng!”.
Anh Chị em,
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel!”. Chín tháng nín thinh là ‘khoảng lặng cần’ của Zacharia; cũng thế, hang đá Bêlem là ‘khoảng lặng cần’ của Con Thiên Chúa. Tối hôm nay, chúng ta sẽ Mừng Chúa Giáng Sinh, kỷ niệm Đấng Cứu Độ xuống thế ôm lấy những ‘khoảng lặng cần’ đầu tiên của Ngài. Không chỉ ẩn cư, lặng thinh, Ngài còn trở nên vô danh, rốt hết đến nỗi chấp nhận cái chết lặng lẽ trên thập giá. Tất cả chỉ vì tình yêu! Bao thử thách đã xảy ra với Wurmbrand, Zacharia và cả với Chúa Giêsu trong những những ‘khoảng lặng cần’ này. Chúa Giêsu đã vượt qua, Wurmbrand, Zacharia đã vượt qua; niềm hy vọng nơi họ lớn hơn những thử thách. Điều tương tự cũng sẽ xảy ra với chúng ta nếu chúng ta biết trông chờ vào lòng trung thành của Thiên Chúa, để khi “ngày các điều ấy” đến, bạn và tôi cũng sẽ cất lên ‘những bài ca Benedictus’ đẹp đẽ tương tự!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dạy con biết tận dụng những ‘khoảng lặng cần’, biến chúng thành thời khắc sám hối, biến đổi, hầu con cũng có thể đến gần Chúa và hiểu biết Chúa hơn!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel!”.
Richard Wurmbrand - sau 14 năm chịu giam cầm - chia sẻ trong “Ở Tù Với Chúa”, “Mes Prisons Avec Dieu”. Có lúc quá tuyệt vọng, ông suýt mất đức tin đến nỗi chỉ muốn tự tử, vì xem ra Chúa đã bỏ ông! Cho đến một ngày kia, qua khe hở của trần nhà, ông thấy một tổ chim. Kìa, chim mẹ đang bón mồi cho mấy chú chim con! Ông chợt bừng tỉnh, Chúa không bao giờ bỏ rơi ông; nhà tù là ‘khoảng lặng cần’ để ông hiểu biết Chúa hơn!
Kính thưa Anh Chị em,
Như Wurmbrand, cha của Gioan - Zacharia - cũng có một trải nghiệm tương tự. Lời Chúa sáng 24/12 tiết lộ, chín tuần trăng bị câm của Zacharia là một trong những ‘khoảng lặng cần’ đã đem người cha tội nghiệp này đến gần Thiên Chúa và hiểu biết Ngài hơn!
Trong thời gian buộc phải lặng thinh, có lẽ, thoạt đầu Zacharia cảm thấy bức bối, khó chịu; nhưng dần dần, nhờ kiên trì đón nhận sự cô tịch, ông đã bắt đầu yêu thích nó và cảm nhận được sự thử thách cần thiết mà Chúa muốn ông trải qua. Cũng thế, đau khổ của chúng ta chỉ có thể có một ý nghĩa tích cực - một giá trị cứu rỗi - khi chúng ta dám ôm lấy nó, tháp nó vào thập giá Chúa Kitô! Chính lời cầu nguyện và sự im lặng đã đưa và sẽ đưa con người đến gần Thiên Chúa và hiểu biết Ngài sâu sắc hơn. Đó là những ‘khoảng lặng cần’ để con người đạt được sự thân mật với Ngài khi nó khám phá ra cách thức Ngài giáo dục!
Và cuối cùng, sự im lặng ‘thánh thiện’ cần thiết này đã bùng lên những gì phải bùng lên! Zacharia hẳn đã nhớ lại lời thiên sứ, “Này đây, ông sẽ bị câm cho đến ngày các điều ấy xảy ra!”. Và "ngày các điều ấy" đã đến! Zacharia đã có chín tháng chuẩn bị cho bài ca Benedictus bất hủ của mình. Lời đầu tiên ông thốt ra khi lưỡi được buông lỏng không phải là một lời ta thán Đấng khiến ông khổ đau mà là một bài thánh ca ngợi khen lòng thương xót của Ngài; không chỉ với ông, gia đình ông, dân tộc ông nhưng với cả một nhân loại đáng thương, “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel!”. Lời ca đó ứng với những gì đã được hứa cho Đavít, “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững” - bài đọc một. Tâm tình của Zacharia, một lần nữa, hoà với tâm tình của Đavít qua Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng!”.
Anh Chị em,
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel!”. Chín tháng nín thinh là ‘khoảng lặng cần’ của Zacharia; cũng thế, hang đá Bêlem là ‘khoảng lặng cần’ của Con Thiên Chúa. Tối hôm nay, chúng ta sẽ Mừng Chúa Giáng Sinh, kỷ niệm Đấng Cứu Độ xuống thế ôm lấy những ‘khoảng lặng cần’ đầu tiên của Ngài. Không chỉ ẩn cư, lặng thinh, Ngài còn trở nên vô danh, rốt hết đến nỗi chấp nhận cái chết lặng lẽ trên thập giá. Tất cả chỉ vì tình yêu! Bao thử thách đã xảy ra với Wurmbrand, Zacharia và cả với Chúa Giêsu trong những những ‘khoảng lặng cần’ này. Chúa Giêsu đã vượt qua, Wurmbrand, Zacharia đã vượt qua; niềm hy vọng nơi họ lớn hơn những thử thách. Điều tương tự cũng sẽ xảy ra với chúng ta nếu chúng ta biết trông chờ vào lòng trung thành của Thiên Chúa, để khi “ngày các điều ấy” đến, bạn và tôi cũng sẽ cất lên ‘những bài ca Benedictus’ đẹp đẽ tương tự!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dạy con biết tận dụng những ‘khoảng lặng cần’, biến chúng thành thời khắc sám hối, biến đổi, hầu con cũng có thể đến gần Chúa và hiểu biết Chúa hơn!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Lễ Vọng Giáng Sinh (C)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:02 23/12/2024
LỄ GIÁNG SINH
(Lễ vọng)
Tin Mừng: Lc 2, 1-14
“Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em”
Bạn thân mến,
Hôm nay, toàn thể nhân loại vui mừng hân hoan mừng lễ giáng sinh của Đức Chúa Giê-su Ki-tô –vị cứu tinh nhân loại- ngày nhân loại đợi chờ đã đến, Ngài đã đến trong hang đá Bê-lem nghèo nàn, với những con người nghèo nàn chất phác là các mục đồng chăn chiên...
Hôm nay, tất cả mọi dân nước trên địa cầu cất tiếng hoan ca mừng ngày Con Thiên Chúa giáng trần, với những cung điệu vang vang vui tai và thánh thiện...
Hôm nay, trên mọi nẻo đường trong thành phố nhộn nhịp hơn mọi khi, người người tuôn đến nơi những thánh đường để hát mừng Con Thiên Chúa làm người, với tất cả tâm tình hân hoan, hạnh phúc trong tâm hồn...
Hôm nay, trong thành phố có những con đường không ánh điện, không nhạc mừng, không hoan ca, bởi vì nơi đó còn có rất nhiều người bất hạnh đang co ro trong cái rét của mùa đông của trời đất, mùa đông của xã hội và mùa đông của tâm hồn...
Hôm nay, bên cạnh những mâm cỗ thịnh soạn được chuẩn bị cho ngày Chúa giáng sinh trong gia đình, thì bên ngoài đường vẫn còn có những Hài Nhi Giê-su nho nhỏ đang đứng nhìn người qua lại, bụng đói meo và hy vọng nơi lòng bố thí của mọi người đang tuôn đến nhà thờ...
Bạn thân mến,
Lời của các thiên thần loan báo cho các mục đồng mà chúng ta vừa đang nghe trong bài Tin mừng hôm nay: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” vẫn mãi mãi là điệp khúc nhắc nhở chúng ta rằng: Đấng Cứu Độ đã đến, đang đứng ngoài cửa nhà co ro vì lạnh đang chờ chúng ta mời vào nhà, cùng chia vui với niềm vui chung của nhân loại trong đêm huyền nhiệm này.
Đấng Cứu Thế đã sinh ra để chúng ta cùng đến chiêm ngưỡng và phục vụ Ngài, Ngài đang hóa thân làm em bé mồ côi đang nằm bên hiên nhà bên vệ đường, Ngài đang hóa thân làm người hành khất, âm thầm trong đêm tối trở về căn nhà vắng lặng vì không đủ tiền để trả tiền điện, Ngài đến rồi, đang đứng đó bên cổng nhà thờ, bên gốc cây tủi nhục, nơi xó chợ hôi tanh...
Bạn thân mến.
Nhìn vào hang đá, chúng ta thấy nổi bật lên những ánh đèn điện chớp nháy vui mắt đẹp đẽ, những cây thông thật và giả với muôn vẻ màu sắc của dây kim tuyến lấp lánh, lòng chúng ta rộn lên niềm vui ngày Chúa giáng trần. Nhưng niềm vui ấy sẽ dâng đầy nếu đêm nay chúng ta tự nguyện trở thành một thiên thần, đem vật chất và tinh thần đến phân phát cho những Giê-su Hài Nhi mồ côi, những Ma-ri-a và Giu-se nghèo khổ bên cạnh chúng ta...
Xin Chúa Hài Nhi ban muôn phúc lành cho chúng ta trong đêm thánh này...Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
(Lễ vọng)
Tin Mừng: Lc 2, 1-14
“Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em”
Bạn thân mến,
Hôm nay, toàn thể nhân loại vui mừng hân hoan mừng lễ giáng sinh của Đức Chúa Giê-su Ki-tô –vị cứu tinh nhân loại- ngày nhân loại đợi chờ đã đến, Ngài đã đến trong hang đá Bê-lem nghèo nàn, với những con người nghèo nàn chất phác là các mục đồng chăn chiên...
Hôm nay, tất cả mọi dân nước trên địa cầu cất tiếng hoan ca mừng ngày Con Thiên Chúa giáng trần, với những cung điệu vang vang vui tai và thánh thiện...
Hôm nay, trên mọi nẻo đường trong thành phố nhộn nhịp hơn mọi khi, người người tuôn đến nơi những thánh đường để hát mừng Con Thiên Chúa làm người, với tất cả tâm tình hân hoan, hạnh phúc trong tâm hồn...
Hôm nay, trong thành phố có những con đường không ánh điện, không nhạc mừng, không hoan ca, bởi vì nơi đó còn có rất nhiều người bất hạnh đang co ro trong cái rét của mùa đông của trời đất, mùa đông của xã hội và mùa đông của tâm hồn...
Hôm nay, bên cạnh những mâm cỗ thịnh soạn được chuẩn bị cho ngày Chúa giáng sinh trong gia đình, thì bên ngoài đường vẫn còn có những Hài Nhi Giê-su nho nhỏ đang đứng nhìn người qua lại, bụng đói meo và hy vọng nơi lòng bố thí của mọi người đang tuôn đến nhà thờ...
Bạn thân mến,
Lời của các thiên thần loan báo cho các mục đồng mà chúng ta vừa đang nghe trong bài Tin mừng hôm nay: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” vẫn mãi mãi là điệp khúc nhắc nhở chúng ta rằng: Đấng Cứu Độ đã đến, đang đứng ngoài cửa nhà co ro vì lạnh đang chờ chúng ta mời vào nhà, cùng chia vui với niềm vui chung của nhân loại trong đêm huyền nhiệm này.
Đấng Cứu Thế đã sinh ra để chúng ta cùng đến chiêm ngưỡng và phục vụ Ngài, Ngài đang hóa thân làm em bé mồ côi đang nằm bên hiên nhà bên vệ đường, Ngài đang hóa thân làm người hành khất, âm thầm trong đêm tối trở về căn nhà vắng lặng vì không đủ tiền để trả tiền điện, Ngài đến rồi, đang đứng đó bên cổng nhà thờ, bên gốc cây tủi nhục, nơi xó chợ hôi tanh...
Bạn thân mến.
Nhìn vào hang đá, chúng ta thấy nổi bật lên những ánh đèn điện chớp nháy vui mắt đẹp đẽ, những cây thông thật và giả với muôn vẻ màu sắc của dây kim tuyến lấp lánh, lòng chúng ta rộn lên niềm vui ngày Chúa giáng trần. Nhưng niềm vui ấy sẽ dâng đầy nếu đêm nay chúng ta tự nguyện trở thành một thiên thần, đem vật chất và tinh thần đến phân phát cho những Giê-su Hài Nhi mồ côi, những Ma-ri-a và Giu-se nghèo khổ bên cạnh chúng ta...
Xin Chúa Hài Nhi ban muôn phúc lành cho chúng ta trong đêm thánh này...Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Sứ điệp Giáng Sinh
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
16:15 23/12/2024
SỨ ĐIỆP GIÁNG SINH
Bà con lương dân, anh chị em khác niềm tin, tôn giáo hầu như đều nhìn nhận Đức Giêsu là nhân vật lịch sử. Kitô hữu thì tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa đã giáng trần vào năm thứ nhất của Công Nguyên, nghĩa là cách đây khoảng 2024 năm. Theo các Tin Mừng tường thuật thì Chúa Giêsu giáng sinh vào một đêm đông giá lạnh tại cánh đồng quê Bê Lem, xứ Giuđêa. Tuy nhiên để có câu trả lời cho câu hỏi rằng vì sao Con Thiên Chúa lại giáng sinh, Ngài xuống thế làm người để làm gì thì xem ra có một vài thay đổi. Đã từng một thời gian khá dài Kitô hữu trả lời đó là Thiên Chúa giáng sinh làm người để cứu chuộc nhân loại. Và như thế nguyên nhân là vì loài người đã phạm tội. Câu trả lời này không sai nhưng có phần hạn chế vì rất dễ hiểu lầm rằng việc Thiên Chúa làm người là “kế hoạch thứ hai”, một thời gian sau khi sáng tạo vũ trụ đất trời và loài người. Ngày nay Kitô hữu chúng ta tin nhận việc Thiên Chúa làm người là chương trình có từ ngàn đời ngay từ buỗi sáng tạo vũ trụ đất trời. Vậy cần phải hiểu mục đích của việc Thiên Chúa giáng trần theo một chiều kích phổ quát và hoàn hảo hơn.
Thiết nghĩ rằng không gì hơn là hãy tập chú vào chính những lời Chúa Giêsu, Đấng làm người đã trực tiếp nói về việc Người giáng trần làm người. Trong thời gian rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu đã từng nói về mục đích đến thế gian của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ người ta và hiến dâng mạng sống là giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,45) và “Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa nhưng gì đã hư mất” (Lc 19,10). Tuy nhiên trước khi chịu khổ hình thập giá, trước mặt Philatô thì Người đã minh nhiên khẳng định: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai hâm mộ sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37)
Có thể nói rằng lời khẳng định sau là đủ đầy và hoàn hảo hơn. Khi sai các tông đồ đi rao giảng thì Chúa Giêsu căn dặn các vị đừng đi đến với anh em lương dân mà tốt hơn là đến với các chiên lạc nhà Israel (Mt 10,5). Tuy nhiên khi từ cõi chết sống lại thì Người lại truyền cho các tông đồ và môn đệ: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi thụ tạo” (Mc 16,15).
Chân lý cứu độ mà Chúa Kitô tỏ bày là chính trọn cuộc đời của Người khởi đi từ mầu nhiệm nhập thế, nhập thế giáng sinh cho đến khi chịu tử nạn và phục sinh, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha và trao ban Thánh Thần. Hạ sinh trong hang lừa, được bọc trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ, Hài Nhi Giêsu dù chưa biết nói nhưng lại mạc khải cho nhân loại chúng ta một trong những chân lý nền tàng đem ơn cứu độ, nghĩa là dẫn đưa nhân loại đến hạnh phúc vĩnh tồn.
1.Dù không được tạo thành nhưng Hài Giêsu đã được sinh ra. Để tồn tại và phát triển Hài Nhi Giêsu lại còn rất cần đến ân tình của mẹ cha, cần đến ân tình của những người chăn chiên, cần đến hơi ấm của bò lừa và của cả nắm rơm khô. Không một ai trong loài người chúng ta tự làm nên chính mình. Chúng ta vừa được tạo thành vừa được sinh ra. Như thế có thể nói rằng chúng ta là những hiện hữu bởi và hiện hữu nhờ. Nghĩa là chúng ta có mặt ở đời này là do bởi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa qua sự cộng tác của mẹ cha. Chúng ta sống, tồn tại và phát triển là nhờ công sức và ân tình của rất nhiều người gần xa.
2.Là tạo vật thì việc sống theo ý lời của Đấng Tạo Thành chính là điều căn bản để tạo vật thực sự là chính mình. Chúa Giêsu đã minh nhiên nói rằng việc thực thi thánh ý Cha trên trời mới đem lại hạnh phúc vĩnh tồn cho chúng ta và đó là cách thế chúng ta trở nên người nghĩa thiết của Người. Khi ý thức mình được sống, tồn tại và phát triển là nhờ tha nhân thì chúng ta phải biết sống với, sống cùng và sống cho tha nhân, nghĩa là có những ai đó nhờ chúng ta mà tồn tại, phát triển và được hạnh phúc. Chúa Kitô đã tóm gọn chân lý này vào giới luật vàng: “Hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình” (Mt 7,12).
Đôi tay Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ mở ra vừa là dấu chỉ của sự đón nhận vừa là dấu chỉ của sự trao ban. Cái máng cỏ vừa là dấu chỉ bao bọc che chở Hài nhi Giêsu vừa là dấu chỉ cho thấy Hài Nhi chính là lương thực được trao ban cho nhân trần.
Mừng kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh chúng ta giăng kết đèn hoa lung linh là việc nên làm, chúng ta trang trí máng cỏ rực rỡ cũng là việc nên làm, chúng ta tổ chức các buỗi diễn nguyện cũng thật nên làm. Tuy nhiên điều đáng làm trên hết đó là đón nhận sứ điệp Giáng Sinh thật ý nghĩa và hữu ích. Chúa xuống thế làm người là để nhân loại chúng ta biết cách làm người theo thánh ý Đấng Tối Cao. Mong sao mỗi lần đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong hang đá, chúng ta thêm xác tin rằng mình có mặt ở đời này là do bởi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, mình tồn tại và phát triển được là nhờ ân tình của rất nhiều người. Chính vì thế chúng ta phải biết lấy thánh ý Cha trên trời làm lẽ sống và đồng thời phải biết sống với, sống cùng và sống cho những ai đó đang cần nhờ chúng ta để họ được tốn tại và hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.
Ban Mê Thuột
Bà con lương dân, anh chị em khác niềm tin, tôn giáo hầu như đều nhìn nhận Đức Giêsu là nhân vật lịch sử. Kitô hữu thì tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa đã giáng trần vào năm thứ nhất của Công Nguyên, nghĩa là cách đây khoảng 2024 năm. Theo các Tin Mừng tường thuật thì Chúa Giêsu giáng sinh vào một đêm đông giá lạnh tại cánh đồng quê Bê Lem, xứ Giuđêa. Tuy nhiên để có câu trả lời cho câu hỏi rằng vì sao Con Thiên Chúa lại giáng sinh, Ngài xuống thế làm người để làm gì thì xem ra có một vài thay đổi. Đã từng một thời gian khá dài Kitô hữu trả lời đó là Thiên Chúa giáng sinh làm người để cứu chuộc nhân loại. Và như thế nguyên nhân là vì loài người đã phạm tội. Câu trả lời này không sai nhưng có phần hạn chế vì rất dễ hiểu lầm rằng việc Thiên Chúa làm người là “kế hoạch thứ hai”, một thời gian sau khi sáng tạo vũ trụ đất trời và loài người. Ngày nay Kitô hữu chúng ta tin nhận việc Thiên Chúa làm người là chương trình có từ ngàn đời ngay từ buỗi sáng tạo vũ trụ đất trời. Vậy cần phải hiểu mục đích của việc Thiên Chúa giáng trần theo một chiều kích phổ quát và hoàn hảo hơn.
Thiết nghĩ rằng không gì hơn là hãy tập chú vào chính những lời Chúa Giêsu, Đấng làm người đã trực tiếp nói về việc Người giáng trần làm người. Trong thời gian rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu đã từng nói về mục đích đến thế gian của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ người ta và hiến dâng mạng sống là giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,45) và “Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa nhưng gì đã hư mất” (Lc 19,10). Tuy nhiên trước khi chịu khổ hình thập giá, trước mặt Philatô thì Người đã minh nhiên khẳng định: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai hâm mộ sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37)
Có thể nói rằng lời khẳng định sau là đủ đầy và hoàn hảo hơn. Khi sai các tông đồ đi rao giảng thì Chúa Giêsu căn dặn các vị đừng đi đến với anh em lương dân mà tốt hơn là đến với các chiên lạc nhà Israel (Mt 10,5). Tuy nhiên khi từ cõi chết sống lại thì Người lại truyền cho các tông đồ và môn đệ: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi thụ tạo” (Mc 16,15).
Chân lý cứu độ mà Chúa Kitô tỏ bày là chính trọn cuộc đời của Người khởi đi từ mầu nhiệm nhập thế, nhập thế giáng sinh cho đến khi chịu tử nạn và phục sinh, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha và trao ban Thánh Thần. Hạ sinh trong hang lừa, được bọc trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ, Hài Nhi Giêsu dù chưa biết nói nhưng lại mạc khải cho nhân loại chúng ta một trong những chân lý nền tàng đem ơn cứu độ, nghĩa là dẫn đưa nhân loại đến hạnh phúc vĩnh tồn.
1.Dù không được tạo thành nhưng Hài Giêsu đã được sinh ra. Để tồn tại và phát triển Hài Nhi Giêsu lại còn rất cần đến ân tình của mẹ cha, cần đến ân tình của những người chăn chiên, cần đến hơi ấm của bò lừa và của cả nắm rơm khô. Không một ai trong loài người chúng ta tự làm nên chính mình. Chúng ta vừa được tạo thành vừa được sinh ra. Như thế có thể nói rằng chúng ta là những hiện hữu bởi và hiện hữu nhờ. Nghĩa là chúng ta có mặt ở đời này là do bởi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa qua sự cộng tác của mẹ cha. Chúng ta sống, tồn tại và phát triển là nhờ công sức và ân tình của rất nhiều người gần xa.
2.Là tạo vật thì việc sống theo ý lời của Đấng Tạo Thành chính là điều căn bản để tạo vật thực sự là chính mình. Chúa Giêsu đã minh nhiên nói rằng việc thực thi thánh ý Cha trên trời mới đem lại hạnh phúc vĩnh tồn cho chúng ta và đó là cách thế chúng ta trở nên người nghĩa thiết của Người. Khi ý thức mình được sống, tồn tại và phát triển là nhờ tha nhân thì chúng ta phải biết sống với, sống cùng và sống cho tha nhân, nghĩa là có những ai đó nhờ chúng ta mà tồn tại, phát triển và được hạnh phúc. Chúa Kitô đã tóm gọn chân lý này vào giới luật vàng: “Hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình” (Mt 7,12).
Đôi tay Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ mở ra vừa là dấu chỉ của sự đón nhận vừa là dấu chỉ của sự trao ban. Cái máng cỏ vừa là dấu chỉ bao bọc che chở Hài nhi Giêsu vừa là dấu chỉ cho thấy Hài Nhi chính là lương thực được trao ban cho nhân trần.
Mừng kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh chúng ta giăng kết đèn hoa lung linh là việc nên làm, chúng ta trang trí máng cỏ rực rỡ cũng là việc nên làm, chúng ta tổ chức các buỗi diễn nguyện cũng thật nên làm. Tuy nhiên điều đáng làm trên hết đó là đón nhận sứ điệp Giáng Sinh thật ý nghĩa và hữu ích. Chúa xuống thế làm người là để nhân loại chúng ta biết cách làm người theo thánh ý Đấng Tối Cao. Mong sao mỗi lần đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong hang đá, chúng ta thêm xác tin rằng mình có mặt ở đời này là do bởi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, mình tồn tại và phát triển được là nhờ ân tình của rất nhiều người. Chính vì thế chúng ta phải biết lấy thánh ý Cha trên trời làm lẽ sống và đồng thời phải biết sống với, sống cùng và sống cho những ai đó đang cần nhờ chúng ta để họ được tốn tại và hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.
Ban Mê Thuột
Tặng phẩm dâng Chúa Hài Nhi
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
18:33 23/12/2024
TẶNG PHẨM DÂNG CHÚA HÀI NHI (Lễ Giáng Sinh)
Hằng năm ngày Lễ Sinh Nhật của Đấng Cứu Thế lại về thì thiên hạ tổ chức lễ lạc thật “hoành tráng”. Không chỉ lễ lạc linh đình với trang trí đèn sắc muôn màu, người ta còn tiệc tùng, ăn uống và tặng quà cho nhau. Thế mà Người, Giêsu Kitô, người được mừng sinh nhật thì ít ai đoái hoài. Có đó rất nhiều người đến bên các hang đá chiêm ngắm, cầu nguyện, nhưng rồi cũng thường để thầm xin điều này điều kia cho chính họ, cho gia đình. Cũng có không ít người sử dụng cảnh hang đá như cảnh phông để chụp hình, để làm nổi rõ bản thân, làm đẹp cho mình. Hai bàn tay của Hài nhi Giêsu qua cái tượng nhỏ bé trong máng cỏ vẫn mãi mở ra mà hầu như ít thấy người đời dâng tặng quà gì.
Giáng Sinh lại về, xin một lần nữa khẳng định với nhau đây là sinh nhật của Chúa Giêsu. Thế thì Người phải là nhân vật trung tâm của cuộc Lễ, của mọi tổ chức và chính Chúa Giêsu là người mà chúng ta phải kính dâng phẩm vật. Đã biết bao lần Giáng Sinh đi qua, thầm hỏi tôi đã tặng dâng Chúa Giêsu điều gì? Món quà mà người được mừng sinh nhật ưa thích nhất đó những gì nói lên căn tính và sứ mạng cao cả của người ấy hoặc là những gì giúp người ấy thể hiện căn tính đồng thời thực thi sứ mạng của mình. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Giêsu nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Theo thiển ý, hai tặng phẩm sau đây có lẽ sẽ được Đấng mà thiên hạ mừng sinh nhật Người hôm nay mĩm cười đón nhận.
1.Món quà thứ nhất: Đón nhận Hài Nhi Giêsu như là nguồn sống và là hạnh phúc vĩnh tồn của chúng ta. Thiên Chúa là căn nguyên của mọi hiện hữu. Chính nhờ Người mà mọi vật mọi loài được tác thành. Không có Người thì không có sự gì hiện diện trên dương gian này (x.Ga 1,3). Vàng, nhủ hương hay mộc dược tuy là cao quý nhưng món quà mà Giêsu muốn chúng ta dâng cho Người hơn đó là đón nhận chính Người như là nguồn sống và là hạnh phúc vĩnh tồn của chúng ta. “Không một ai có thể đến được với Chúa Cha, nghĩa là được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng, mà không qua Giêsu Kitô” (x.Ga 14,6). Chúng ta có thực sự xác tín chân lý như thế nào đây?
Khi chúng ta mở rộng con tim, mở cõi lòng, mở rộng vòng tay đón nhận các anh chị em nghèo hèn, khổ đau, bất hạnh, đón nhận những thân phận đau thương dập nát… là chúng ta đang đón nhận chính Hài Nhi Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: “Khi các ngươi làm một nghĩa cử cao đẹp cho một trong các anh em bé mọn nhất là ngươi đã làm cho chính Ta” (x.Mt 25, 31-46). Đón nhận Thiên Chúa như là nguồn sống là điều dễ tin. Nhưng xin cho chúng ta có được chút niềm tin rằng để có thể sống và sống có ý nghĩa, chúng ta không thể không đón nhận tha nhân, đặc biệt những người trong thân phận nghèo hèn, bé mọn.
2.Món quà thứ hai: Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu không phải với đèn điện lung linh rực rỡ như ngày nay mà là trong máng cỏ tanh hôi ngoài đồng vắng để chúng ta biết tìm lẽ sống và cách sống như Hài Nhi Giêsu. Đó là bước đi trong cuộc đời với tâm tình phó thác và với sự khó nghèo tận căn để cho tha nhân được nên sang giàu. Xét về bản năng sinh tồn thì con người dường như thua xa các loài vật, đặc biệt lúc mới ra khỏi lòng mẹ. Hài nhi bé bỏng không thể tự mình tìm đến bầu sữa mẹ, chẳng có thể tự di chuyển hay đứng đi…tất cả đều phải cậy dựa vào mẹ cha hay tha nhân. Khi đi rao giảng, Chúa Giêsu thường nhấn mạnh đến niềm tin yêu phó thác vào Cha trên trời. Chẳng một ai tự quyết định việc làm người, ngày chào đời hay hoàn cảnh chào đời của mình. Mẹ cha là những người góp phần dệt cho chúng ta một tấm thân xác, những chính Thiên Chúa mới là Đấng phú ban cho chúng ta tấm linh hồn. Chúng ta có thực sự xác tín lời của Chúa Giêsu khẳng định rằng Đấng quyết định cho ta làm người vẫn hằng chăm sóc cả đến từng sợi tóc của chúng ta không? (x.Mt 8,25-34).
Làm một hài nhi sơ sinh trong cảnh cô quạnh lạnh giá, không cửa, không nhà, không giường và cũng chẳng có nôi. Hài nhi Giêsu bé bỏng được đặt nằm trong máng cỏ. Cái máng là một loại đồ vật chứa thức ăn cho loài vật. Đấng làm người đã sống khiêm hạ tận căn để trở nên lương thực trường sinh cho nhân trần. Khi đi rao giảng Tin Mừng, dẫu cho chồn có hang chim có tổ nhưng Chúa Giêsu đã tự nguyện mang kiếp “không có chỗ tựa đầu”(Lc 9,28). Người ý thức Người vào trần gian này không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ tha nhân và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Đôi tay Hài nhi Giêsu trong máng cỏ vẫn mãi mở ra đợi chờ chúng ta mỗi lần sinh nhật của Người lại về. Ước gì chúng ta có một chút quà kính dâng để bày tỏ niềm tin rằng căn tính của Người là nguồn sống mọi loài và sứ mạng của Người là trao ban sự sống đời đời cho muôn người mọi thời, mọi nơi. Chính khi biết đón nhận Chúa Giêsu, cách đặc biệt qua các anh chị em bé mọn và chính khi biết sống trong tình phó thác và sống tự do với nhiều thiện hảo đời này để cho tha nhân được nên sang giàu, được sống và sống dồi dào thì đó là món quà đẹp nhất mà chúng ta kính dâng Chúa Giêsu trong ngày mừng sinh nhật của Người vậy.
Ban Mê Thuột
Hằng năm ngày Lễ Sinh Nhật của Đấng Cứu Thế lại về thì thiên hạ tổ chức lễ lạc thật “hoành tráng”. Không chỉ lễ lạc linh đình với trang trí đèn sắc muôn màu, người ta còn tiệc tùng, ăn uống và tặng quà cho nhau. Thế mà Người, Giêsu Kitô, người được mừng sinh nhật thì ít ai đoái hoài. Có đó rất nhiều người đến bên các hang đá chiêm ngắm, cầu nguyện, nhưng rồi cũng thường để thầm xin điều này điều kia cho chính họ, cho gia đình. Cũng có không ít người sử dụng cảnh hang đá như cảnh phông để chụp hình, để làm nổi rõ bản thân, làm đẹp cho mình. Hai bàn tay của Hài nhi Giêsu qua cái tượng nhỏ bé trong máng cỏ vẫn mãi mở ra mà hầu như ít thấy người đời dâng tặng quà gì.
Giáng Sinh lại về, xin một lần nữa khẳng định với nhau đây là sinh nhật của Chúa Giêsu. Thế thì Người phải là nhân vật trung tâm của cuộc Lễ, của mọi tổ chức và chính Chúa Giêsu là người mà chúng ta phải kính dâng phẩm vật. Đã biết bao lần Giáng Sinh đi qua, thầm hỏi tôi đã tặng dâng Chúa Giêsu điều gì? Món quà mà người được mừng sinh nhật ưa thích nhất đó những gì nói lên căn tính và sứ mạng cao cả của người ấy hoặc là những gì giúp người ấy thể hiện căn tính đồng thời thực thi sứ mạng của mình. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Giêsu nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Theo thiển ý, hai tặng phẩm sau đây có lẽ sẽ được Đấng mà thiên hạ mừng sinh nhật Người hôm nay mĩm cười đón nhận.
1.Món quà thứ nhất: Đón nhận Hài Nhi Giêsu như là nguồn sống và là hạnh phúc vĩnh tồn của chúng ta. Thiên Chúa là căn nguyên của mọi hiện hữu. Chính nhờ Người mà mọi vật mọi loài được tác thành. Không có Người thì không có sự gì hiện diện trên dương gian này (x.Ga 1,3). Vàng, nhủ hương hay mộc dược tuy là cao quý nhưng món quà mà Giêsu muốn chúng ta dâng cho Người hơn đó là đón nhận chính Người như là nguồn sống và là hạnh phúc vĩnh tồn của chúng ta. “Không một ai có thể đến được với Chúa Cha, nghĩa là được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng, mà không qua Giêsu Kitô” (x.Ga 14,6). Chúng ta có thực sự xác tín chân lý như thế nào đây?
Khi chúng ta mở rộng con tim, mở cõi lòng, mở rộng vòng tay đón nhận các anh chị em nghèo hèn, khổ đau, bất hạnh, đón nhận những thân phận đau thương dập nát… là chúng ta đang đón nhận chính Hài Nhi Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: “Khi các ngươi làm một nghĩa cử cao đẹp cho một trong các anh em bé mọn nhất là ngươi đã làm cho chính Ta” (x.Mt 25, 31-46). Đón nhận Thiên Chúa như là nguồn sống là điều dễ tin. Nhưng xin cho chúng ta có được chút niềm tin rằng để có thể sống và sống có ý nghĩa, chúng ta không thể không đón nhận tha nhân, đặc biệt những người trong thân phận nghèo hèn, bé mọn.
2.Món quà thứ hai: Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu không phải với đèn điện lung linh rực rỡ như ngày nay mà là trong máng cỏ tanh hôi ngoài đồng vắng để chúng ta biết tìm lẽ sống và cách sống như Hài Nhi Giêsu. Đó là bước đi trong cuộc đời với tâm tình phó thác và với sự khó nghèo tận căn để cho tha nhân được nên sang giàu. Xét về bản năng sinh tồn thì con người dường như thua xa các loài vật, đặc biệt lúc mới ra khỏi lòng mẹ. Hài nhi bé bỏng không thể tự mình tìm đến bầu sữa mẹ, chẳng có thể tự di chuyển hay đứng đi…tất cả đều phải cậy dựa vào mẹ cha hay tha nhân. Khi đi rao giảng, Chúa Giêsu thường nhấn mạnh đến niềm tin yêu phó thác vào Cha trên trời. Chẳng một ai tự quyết định việc làm người, ngày chào đời hay hoàn cảnh chào đời của mình. Mẹ cha là những người góp phần dệt cho chúng ta một tấm thân xác, những chính Thiên Chúa mới là Đấng phú ban cho chúng ta tấm linh hồn. Chúng ta có thực sự xác tín lời của Chúa Giêsu khẳng định rằng Đấng quyết định cho ta làm người vẫn hằng chăm sóc cả đến từng sợi tóc của chúng ta không? (x.Mt 8,25-34).
Làm một hài nhi sơ sinh trong cảnh cô quạnh lạnh giá, không cửa, không nhà, không giường và cũng chẳng có nôi. Hài nhi Giêsu bé bỏng được đặt nằm trong máng cỏ. Cái máng là một loại đồ vật chứa thức ăn cho loài vật. Đấng làm người đã sống khiêm hạ tận căn để trở nên lương thực trường sinh cho nhân trần. Khi đi rao giảng Tin Mừng, dẫu cho chồn có hang chim có tổ nhưng Chúa Giêsu đã tự nguyện mang kiếp “không có chỗ tựa đầu”(Lc 9,28). Người ý thức Người vào trần gian này không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ tha nhân và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Đôi tay Hài nhi Giêsu trong máng cỏ vẫn mãi mở ra đợi chờ chúng ta mỗi lần sinh nhật của Người lại về. Ước gì chúng ta có một chút quà kính dâng để bày tỏ niềm tin rằng căn tính của Người là nguồn sống mọi loài và sứ mạng của Người là trao ban sự sống đời đời cho muôn người mọi thời, mọi nơi. Chính khi biết đón nhận Chúa Giêsu, cách đặc biệt qua các anh chị em bé mọn và chính khi biết sống trong tình phó thác và sống tự do với nhiều thiện hảo đời này để cho tha nhân được nên sang giàu, được sống và sống dồi dào thì đó là món quà đẹp nhất mà chúng ta kính dâng Chúa Giêsu trong ngày mừng sinh nhật của Người vậy.
Ban Mê Thuột
Giáng Sinh: Yêu mến, tặng quà, chia quà
Lm Nguyễn Xuân Trường
22:10 23/12/2024
GIÁNG SINH: YÊU MẾN, TẶNG QUÀ, NHẬN QUÀ, CHIA QUÀ
Phụng vụ Lời Chúa các thánh lễ Giáng Sinh làm nổi bật tình Chúa yêu thương nên đã trao tặng Con Một Ngài là món quà quý giá nhất cho nhân loại. Và Chúa cũng cần con người mở lòng nhận quà và chia quà.
1. YÊU MẾN. Các bài đọc Lễ Vọng cho thấy “Chúa đem lòng sủng ái” loài người đến độ muốn “lập hôn ước”, muốn cưới nhân loại. Thế nên, Chúa đã trở thành Em-ma-nu-en để “ở-cùng-chúng-ta”. Từ đó, nhân loại phải thốt lên lời đáp ca “Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng.”
2. TẶNG QUÀ. Đã yêu thì luôn muốn tặng quà. Các bài đọc lễ Ban Đêm cho thấy Chúa đã “ban tặng người con” là Đấng Cứu Độ cho chúng ta. Đó là “một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân”. Qua người Con, Chúa tặng ban “bình an” cho nhân thế.
3. NHẬN QUÀ. Quà cần có trao có nhận. Chúa đã tặng quà thì cũng cần con người nhận quà. Bài Phúc Âm lễ Rạng Đông cho thấy nhân loại hân hoan hớn hở nhận quà Chúa ban: “những người chăn chiên bảo nhau: “Nào ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.” Họ liền hối hả ra đi và gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.”
4. CHIA QUÀ. Nhận được quà quý giá không chỉ giữ cho riêng mình, mà cần chia sẻ quà cho niềm vui nhân lên. Bài đọc 1 lễ Ban Ngày cho thấy “Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ”, nhờ đó, “Toàn cõi đất xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”
Niềm vui vĩ đại của lễ Giáng Sinh là niềm vui vì được Chúa yêu thương tặng quà, là niềm vui được nhận quà quý giá nhất là chính Chúa Giêsu, và niềm vui chia sẻ món quà ấy cho toàn nhân loại. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa các thánh lễ Giáng Sinh làm nổi bật tình Chúa yêu thương nên đã trao tặng Con Một Ngài là món quà quý giá nhất cho nhân loại. Và Chúa cũng cần con người mở lòng nhận quà và chia quà.
1. YÊU MẾN. Các bài đọc Lễ Vọng cho thấy “Chúa đem lòng sủng ái” loài người đến độ muốn “lập hôn ước”, muốn cưới nhân loại. Thế nên, Chúa đã trở thành Em-ma-nu-en để “ở-cùng-chúng-ta”. Từ đó, nhân loại phải thốt lên lời đáp ca “Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng.”
2. TẶNG QUÀ. Đã yêu thì luôn muốn tặng quà. Các bài đọc lễ Ban Đêm cho thấy Chúa đã “ban tặng người con” là Đấng Cứu Độ cho chúng ta. Đó là “một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân”. Qua người Con, Chúa tặng ban “bình an” cho nhân thế.
3. NHẬN QUÀ. Quà cần có trao có nhận. Chúa đã tặng quà thì cũng cần con người nhận quà. Bài Phúc Âm lễ Rạng Đông cho thấy nhân loại hân hoan hớn hở nhận quà Chúa ban: “những người chăn chiên bảo nhau: “Nào ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.” Họ liền hối hả ra đi và gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.”
4. CHIA QUÀ. Nhận được quà quý giá không chỉ giữ cho riêng mình, mà cần chia sẻ quà cho niềm vui nhân lên. Bài đọc 1 lễ Ban Ngày cho thấy “Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ”, nhờ đó, “Toàn cõi đất xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”
Niềm vui vĩ đại của lễ Giáng Sinh là niềm vui vì được Chúa yêu thương tặng quà, là niềm vui được nhận quà quý giá nhất là chính Chúa Giêsu, và niềm vui chia sẻ món quà ấy cho toàn nhân loại. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ngày 24 tháng 12 tôn vinh Tất cả các Thánh Tổ của Chúa Giêsu Kitô
Vũ Văn An
13:50 23/12/2024
Philip Kosloski của tạp chí mạng Aleteia, ngày 22/12/24, cho hay: Sách Tử đạo Rôma năm 2004 đề cập đến một lễ kỷ niệm đặc biệt vào ngày 24 tháng 12 có nguồn gốc từ một lễ kỷ niệm cũ hơn có từ thời Trung cổ.
Thực vậy, trong suốt mùa phụng vụ Mùa Vọng, Giáo hội tưởng nhớ mọi thứ và mọi người đã dọn đường cho Chúa.
Chủ đề tâm linh này đã là một phần trung tâm của Mùa Vọng trong nhiều thế kỷ, có từ thời Trung cổ.
Đặc biệt, các Ki-tô hữu thời trung cổ kỷ niệm "Ngày A- đam và E-và" vào ngày 24 tháng 12.
Để kỷ niệm ngày lễ độc đáo này, người ta đã khai triển một "Vở kịch Thiên đường", kể lại câu chuyện về A- đam và E-và trong Sáng thế ký. Một phần trung tâm của vở kịch là “Cây Thiên Đường” tượng trưng cho cây trong vườn Địa Đàng.
Trên cây, mọi người treo trái cây và một số người tin rằng cây này và sự gần gũi của nó với Giáng sinh là một dạng ban đầu của cây Giáng sinh.
Tất cả các Thánh Tổ của Chúa Giêsu Kitô
Giáo hội không hoàn toàn từ bỏ lễ tưởng niệm cổ xưa này. Khi Sổ Tử đạo Rôma được sửa đổi vào năm 2004, ngày 24 tháng 12 đã được ghi nhận như sau:
Kỷ niệm tất cả các Thánh Tổ của Chúa Giêsu Kitô, con trai của Đa-vít, con trai của Áp-ra-ham, hoặc những người cha đã làm đẹp lòng Chúa và được coi là công chính, ngay cả khi không nhận được những lời hứa, nhưng chỉ nhìn họ và chào đón họ từ xa, đã chết trong đức tin: từ họ, Chúa Kitô, là Đấng trên hết mọi tạo vật, Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời, đã được sinh ra theo xác thịt.
Kỷ niệm này cũng bao gồm tất cả những người đã sống công chính trước khi nhập thể.
Giáo hội tiếp tục tưởng nhớ A- đam và E-và, và tất cả những người đến sau họ, mặc dù theo cách nhẹ nhàng hơn so với thời Trung cổ.
Bất kể Giáo hội tưởng nhớ tổ tiên của Chúa Giêsu như thế nào, Mùa Vọng là thời điểm hoàn hảo trong năm để nhớ lại lịch sử thế giới và cách toàn thể tạo vật đang chờ đợi một vị cứu tinh.
Thời Trung cổ định hình lễ hội Giáng sinh như thế nào
Theo Daniel Esparza, trên Aleteia ngày 18/12/24, bằng cách đan xen các phong tục ngoại giáo cổ xưa với đức tin Ki-tô giáo, thời Trung cổ đã mang đến cho chúng ta một mùa lễ vượt thời gian và đoàn kết mọi người trong việc cử hành
Nhiều truyền thống mà chúng ta trân trọng trong mùa Giáng sinh — hát thánh ca, trang trí bằng cây xanh và trao đổi quà tặng — có nguồn gốc lâu đời hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Những phong tục được yêu thích này có nguồn gốc sâu xa từ thời Trung cổ, thời điểm mà các hoạt động của Cơ đốKi-tô giáo đan xen với các hoạt động ngoại giáo cổ xưa để tạo nên mùa lễ hội mà chúng ta biết đến ngày nay. Từ việc áp dụng cây trường xuân cho đến giai điệu của những bài thánh ca đầu tiên, giai đoạn biến đổi này trong lịch sử đã định hình cách thức kỷ niệm Giáng sinh, kết hợp ý nghĩa thiêng liêng với truyền thống văn hóa.
Medievalists.net nêu bật năm ảnh hưởng chính của thời trung cổ tiếp tục định hình các lễ kỷ niệm ngày lễ của chúng ta.
• Ngày đông chí và ngày hội thần Xa-tuya ( Solstice và Saturnalia)
Rất lâu trước khi Giáng sinh được tổ chức, các lễ hội giữa mùa đông đã đánh dấu những ngày đen tối nhất của mùa. Người La Mã cổ đại tôn vinh Saturnalia bằng lễ hội Saturnalia sôi động. Các bữa tiệc xa hoa, tặng quà và các phong tục vui tươi là trọng tâm của các lễ kỷ niệm.
Trong khi đó, ở các vùng Celt, các truyền thống đông chí tôn vinh lời hứa về sự trở lại của ánh sáng. Những phong tục này đã đặt nền tảng cho các lễ hội Giáng sinh sau này, khi các Ki-tô hữu đầu tiên điều chỉnh các tập tục hiện có để tuyên bố Chúa Kitô là ánh sáng của thế giới.
Lựa chọn ngày 25 tháng 12
Các sách Tin mừng không ghi lại ngày sinh của Chúa Giêsu, nhưng đến đầu thế kỷ thứ 4, ngày 25 tháng 12 đã được chọn làm ngày lễ cho Lễ Giáng sinh của Chúa Kitô. Ngày này phù hợp với cả ngày đông chí của La Mã và lý luận thần học: nó rơi vào chín tháng sau ngày 25 tháng 3, Lễ Truyền tin, được cho là đánh dấu sự thụ thai của Chúa Kitô.
Lễ hội thời Trung cổ: Đức tin gặp gỡ truyền thống dân gian
Đến thời Trung cổ, Giáng sinh đã được xác lập vững chắc trong lịch Ki-tô giáo, bao quanh bởi một mùa lễ kỷ niệm bao gồm một số ngày lễ khác nhau. Tuy nhiên, ảnh hưởng của ngoại giáo vẫn tồn tại.
Các phong tục tiền Ki-tô giáo, bao gồm ca hát và nhảy múa theo phong cách ngoại giáo, dần dần được Ki-tô giáo hóa, phát triển thành các yếu tố được trân trọng của mùa Giáng sinh.
Các vở kịch và bài hát mừng Giáng sinh
Các yếu tố thị quan và kịch tính của các buổi lễ Giáng sinh thời trung cổ cuối cùng đã làm nảy sinh các vở kịch Giáng sinh trên toàn thị trấn. Các tác phẩm này đã làm sống lại Chúa giáng sinh, kết hợp giữa kể chuyện thánh thiêng với giải trí. Medievalists.net nêu bật ví dụ đáng chú ý về vở kịch Shepherds' Plays từ Wakefield vào thế kỷ 15, đã mở rộng 11 câu thơ từ Tin mừng của Luca thành các buổi biểu diễn sân khấu.
Thời kỳ trung cổ cũng chứng kiến sự trỗi dậy của các bài hát mừng Giáng sinh. Ban đầu, các bài hát mừng là các bài hát mừng lễ hội kèm theo điệu nhảy, thường được biểu diễn theo vòng tròn.
Truyền thống cây trường xuân
Cây trường xuân (evergreen), biểu tượng của sự sống vĩnh cửu, có ý nghĩa quan trọng trong cả nền văn hóa ngoại giáo và Ki-tô giáo. Vào thời Trung cổ, các nhà thờ trang trí cây ngoài trời với những trái táo vào đêm Giáng sinh, kỷ niệm "Ngày A-đam và E-và". Theo thời gian, những cây trường xuân này trở thành trung tâm của lễ hội Giáng sinh. Ở Đức thời trung cổ, cây linh sam được diễu hành qua các thị trấn và được trang trí bằng đồ trang trí trước khi bị đốt cháy theo nghi lễ. Tương tự như vậy, nhà cửa và nhà thờ được trang trí bằng cây nhựa ruồi và cây trường xuân, làm bừng sáng những ngày đen tối nhất của mùa đông bằng biểu tượng của sự sống và hy vọng.
Di sản sống
Những truyền thống mà chúng ta tận hưởng ngày nay phản ảnh lịch sử phong phú về giao lưu và thích nghi văn hóa. Bằng cách đan xen các phong tục ngoại giáo cổ xưa với đức tin Ki-tô giáo, thời Trung cổ đã mang đến cho chúng ta một mùa vượt thời gian và đoàn kết mọi người trong việc cử hành. Cho dù chúng ta tụ tập quanh một cây, hát thánh ca hay chia sẻ quà tặng, chúng ta đều là một phần của câu chuyện hàng thế kỷ vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho niềm vui và cộng đồng.
Nguồn gốc quyến rũ của truyền thống cây thông Noel
Cũng theo Daniel Esparza, trên Aleteia ngày 14/12/23, những đề cập rải rác về cây thông Noel ở thời Trung cổ cho thấy cây thông này dần dần được đưa vào các lễ kỷ niệm theo mùa trên khắp Bắc Âu vào thế kỷ 15.
Truyền thống được trân trọng là trang trí cây thông Noel bằng đồ trang trí lễ hội và đặt quà dưới cành cây chắc chắn là một dấu ấn của mùa lễ, hầu như trên khắp hành tinh. Nhưng bạn đã bao giờ tự hỏi về nguồn gốc của hoạt động mang tính biểu tượng này chưa? Trong cuốn sách Inventing the Christmas Tree của mình, Bernd Brunner đã đi sâu vào hồ sơ lịch sử để tìm hiểu nguồn gốc của truyền thống cây thông Noel.
Đánh giá về cuốn sách do Medievalists.net xuất bản giải thích cách những đề cập rải rác về cây thông Noel ở thời Trung cổ cho thấy cây thông này dần dần được đưa vào các lễ kỷ niệm theo mùa trên khắp Bắc Âu vào thế kỷ 15.
Những trường hợp đầu tiên được ghi chép về cây thông Noel vẫn còn gây nhiều tranh cãi trong lịch sử, với Brunner đã xem xét bằng chứng từ Đức, Anh và vùng Baltic.
Ai là người đầu tiên làm điều đó?
Nghiên cứu của Brunner chỉ ra Freiburg ở Tây Nam nước Đức là một ứng cử viên tiềm năng, với các hồ sơ từ năm 1419 mô tả một cây thông được trang trí bằng táo, bánh quế, bánh gừng và kim tuyến tại bệnh viện địa phương, do Brotherhood of Baker's Apprentices cung cấp.
Tuy nhiên, một tuyên bố cạnh tranh từ Tallinn, Estonia, tuyên bố rằng cây thông Noel đầu tiên đã trang trí tòa thị chính vào năm 1441 trong một điệu nhảy lễ hội, mặc dù việc sử dụng từ "bom" trong tiếng Đức Trung Hạ gây ra sự mơ hồ vì nó có thể ám chỉ một cột hoặc cột buồm được trang trí. Điều thú vị là vẫn còn rất nhiều khúc gỗ Giáng sinh khác nhau được sử dụng để chào mừng mùa lễ. Ví dụ, hãy nghĩ đến tió de Nadal của Catalan-Occitan hoặc Bûche de Noël của Pháp.
Mặc dù nhiều tài liệu lịch sử về cây thông Noel đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ 16, nhưng rõ ràng là những truyền thống này có nguồn gốc sâu xa hơn.
Medievalists.net giải thích cách Brunner ghi lại những trường hợp chính quyền địa phương ban hành luật để bảo vệ cây khỏi bị chặt bừa bãi để tổ chức lễ kỷ niệm theo mùa. Ở Thượng Alsace, một luật năm 1561 cho phép người dân chỉ được lấy "một cây thông dài bằng tám chiếc giày" từ khu rừng.
Đến thế kỷ 16, toàn bộ cây hoặc cành cây đã tìm đường vào nhiều ngôi nhà, đánh dấu sự phổ biến lâu dài của truyền thống cây thông Noel. Ngày nay, khi chúng ta tiếp tục trang trí và thắp sáng cây thông Noel, chúng ta tôn vinh một truyền thống đã gắn kết chúng ta với tinh thần ngày lễ trong nhiều thế kỷ.
Khi nào Chúa Kitô sẽ trở lại?
Vũ Văn An
14:22 23/12/2024
Randall Smith, trên The Catholic Thing thứ Hai, ngày 23 tháng 12 năm 2024, kể lại: Trong bộ phim Fiddler on the Roof, khi người Do Thái ở thị trấn hư cấu Anatevka bị chính phủ Nga đuổi khỏi nhà một cách bi thảm, một trong số họ đã hỏi vị giáo sĩ Do Thái được yêu mến của thị trấn: "Thưa giáo sĩ, chúng tôi đã chờ đợi Đấng Mê-xi-a cả đời. Đây không phải là thời điểm tốt để Ngài đến sao?" Vị giáo sĩ Do Thái trả lời: "Chúng tôi sẽ phải chờ Ngài ở một nơi khác. Trong khi đó, chúng ta hãy bắt đầu đóng gói đồ đạc".
Các Ki-tô hữu có thể thấy buồn khi có những người không công nhận sự xuất hiện đầu tiên của Đấng Mê-xi-a, nhưng chúng ta cũng có thể vô cùng kính trọng bất cứ ai có thể thành thật nói rằng, giữa tất cả những thử thách và đau khổ, cuộc sống của họ đã dành trọn cho việc theo dõi và chờ đợi Đấng Mê-xi-a.
Tôi hy vọng mình sẽ không có vẻ quá giống Grinch nếu tôi nhắc nhở mọi người rằng Mùa Vọng không chỉ là về lần Chúa Kitô đến lần đầu tiên. Bất cứ ai lắng nghe các bài đọc trong Thánh lễ đều biết rằng Giáo hội trong mùa này chủ yếu hướng sự chú ý của chúng ta đến sự xuất hiện của Người vào thời điểm tận thế khi “Con Người” sẽ đến trong đám mây với quyền năng và vinh quang lớn lao (Mc 13:26).
Chỉ thị hai chiều mà chúng ta được đưa ra nhiều lần về điều này là chúng ta phải “tỉnh thức” vì “không ai biết ngày hay giờ”, và “ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong đêm”. (Kh 16:15; Mt 24:43; 1 Tx 5:2-4; Mc 13:24-37)
Khi chủ đề về Sự tái lâm xuất hiện trong lớp, tôi nhắc nhở học sinh của mình rằng, vì “không ai biết ngày hay giờ”, và nó sẽ đến “như kẻ trộm trong đêm”, thành thật mà nói – và tôi nói nghiêm túc – Người có thể đến trước khi kết thúc lớp học.
Tương tự như vậy, tôi nói với họ, vì như thư 2 Pr 3:8 đã nói với chúng ta, một ngàn năm đối với chúng ta giống như một ngày đối với Chúa, nếu điều đó xảy ra trong một tuần theo thời gian của Chúa, thì đó sẽ là bảy ngàn năm. Vì vậy, tốt hơn hết là họ nên tiếp tục và học cho kỳ thi cuối kỳ.
Nhưng hãy cảnh giác.
Đôi khi tôi hỏi học sinh của mình rằng họ muốn Chúa Kitô thấy họ đang làm gì khi Người trở lại? Đang âm mưu điều ác? Lướt web vô nghĩa? Xem một chương trình truyền hình nhàm chán? Truyền bá thêm tin đồn trên iPhone của họ? Chúng ta sẽ nói gì nếu Chúa Kitô hỏi, "Vậy, con của ta, con đang làm gì với cuộc sống và tất cả những hồng phúc mà ta đã ban cho con?" "Những người ở Hoa Kỳ, ta đã để lại cho các ngươi 10,000 nén bạc. Các ngươi đã làm gì với chúng?" Chúng ta có thực sự muốn phải nói rằng: "Ờ, ừm, chúng ở đâu đó ở đây - tôi nghĩ vậy."
Cá nhân tôi thích ngủ trưa một giấc ngắn. Đôi khi tôi lo rằng Chúa sẽ đến vào lúc đó. Ý tôi là, có vẻ như đó là một trong những thời điểm phổ biến nhất để mọi người làm phiền tôi, vì vậy điều đó hoàn toàn có thể. Và nếu Người đến, tôi sẽ trả lời thế nào nếu Người hỏi: "Con đang làm gì vậy? Ta đã không nói đi nói lại rằng, Hãy tỉnh thức!"
Tôi muốn Chúa thấy tôi đang tận tụy rửa bát cho vợ hoặc chấm bài cho sinh viên và sau đó tôi có thể nghe: "Tôi tớ tốt lành và trung tín." Nhưng điều đó không có khả năng xảy ra bằng việc Người thấy tôi đang ngủ trưa hoặc trì hoãn để tránh rửa bát hoặc chấm bài cho sinh viên. Và lúc đó tôi sẽ nói gì? "Nhưng Chúa ơi, Ngài biết mọi thứ; Ngài biết con ghét làm những điều đó." Bởi vì khi đó tôi có thể được nhắc nhở: "Ta đã không nói rằng, 'Hãy vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta’ sao?"
Ồ, đúng rồi.
Các học giả đôi khi sẽ nói rằng, trong Giáo hội sơ khai, đã có sự nhầm lẫn về việc liệu sự tái lâm của Chúa Kitô - Parousia - sẽ diễn ra ngay sau khi Người chết hay sẽ mất một thời gian. Vì vậy, ví dụ, một bài viết năm 2018 của Mark Keown bắt đầu như sau:
Người ta thường cho rằng trong nền học giả Tân Ước, có sự kỳ vọng về một sự tái lâm sắp xảy ra trong thế hệ đầu tiên của giáo hội. Ví dụ, I. H. Marshall, viết vào năm 1970, tuyên bố rằng, "về điểm này có sự đồng thuận hoàn toàn giữa các học giả." Người ta thường cho rằng hy vọng này đã bị dập tắt và các tác phẩm sau này... phản ảnh việc giáo hội giải quyết điều gọi là "sự trì hoãn của Parousia." Sự kỳ vọng về một sự tái lâm sắp xảy ra đặc biệt dành cho Tin mừng Mác-cô (đặc biệt là Mc 9:1; 13:30) và các Thư tín của Thánh Phao-lô không thể tranh cãi (ví dụ: Rô-ma 13:12; 1 Cô-rinh-tô 7:26; Phi-líp 4:5).
Keown phản biện quan điểm này, khẳng định rằng, mặc dù có khả năng ít nhất một số Ki-tô hữu cho rằng Parousia sắp xảy ra (ví dụ: 2 Tx 2:1–2; 2 Pr 3:4), “không có khả năng các tác giả của Mác-cô và bộ thư Phao-lô giữ quan điểm về một Parousia sắp xảy ra”. Giáo sư Keown lưu ý rằng ông không phải là người duy nhất phản biện về một Parousia sắp xảy ra trong Mác-cô và Phao-lô và trích dẫn một loạt các nguồn học giả để ủng hộ chủ trương đó. Vì vậy, tôi đoán là không có “sự đồng thuận hoàn toàn”.
Nhưng tôi ít quan tâm đến cuộc thảo luận đó ngay tại thời điểm này hơn là giá trị của việc chúng ta không rõ ràng về câu hỏi. Chúa Kitô đã nói rõ, “không ai biết ngày hay giờ”. Nó sẽ đến “như kẻ trộm trong đêm”. Vì vậy, chúng ta cần phải cảnh giác. Chúng ta muốn Chúa Kitô thấy chúng ta đang làm gì với cuộc sống của mình nếu Người trở lại ngay bây giờ - trước khi ngày hôm nay kết thúc không? Sự tái lâm có thể sắp xảy ra hơn nhiều so với bạn nghĩ.
Mặt khác, vẫn có thể mất một thời gian. Vì vậy, chúng ta nên tập trung vào công việc của mình. Hay nói chính xác hơn, chúng ta nên tập trung vào công việc của Người. Tôi cho rằng đó chính là mục đích của mùa Vọng.
Việc nhận ra rằng niềm vui trọn vẹn nhất vẫn chưa đến không làm giảm đi niềm vui của Giáng sinh. Không phải thế giới này hoàn toàn tốt đẹp. Vẫn còn nhiều việc phải làm. Đấng Mê-xi-a đã đến - Ngôi Lời đã trở thành xác thịt - sẽ trở lại. Người nên thấy chúng ta đang làm thẳng con đường
Đức Hồng Y Bo hết nhiệm kỳ Chủ tịch Hội đồng Giám mục Á châu và ĐHY chia sẻ: Chúng ta đã tạo nên những di sản
Thanh Quảng sdb
17:18 23/12/2024
Đức Hồng Y Bo hết nhiệm kỳ Chủ tịch Hội đồng Giám mục Á châu và ĐHY chia sẻ: 'Chúng ta đã tạo nên những di sản'
Đức Hồng Y Charles Maung Bo đã gừi lời chia tay khi kết thúc nhiệm kỳ ba năm lần thứ hai và cũng là nhiệm kỳ cuối cùng của ngài với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC), trong đó ngài bày tỏ lòng biết ơn đối với những thành công khác nhau đã 'tạo nên di sản' và nồng nhiệt chào đón người kế nhiệm là Đức Hồng Y Felipe Neri Ferrão của Ấn Độ.
(Tin Vatican - Deborah Castellano Lubov)
Đức Hồng Y Charles Maung Bo của Yangon, Myanmar đã ban hành thông điệp chia tay khi kết thúc nhiệm kỳ ba năm lần thứ hai với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Châu Á, Ngài chia sẻ với "tràn đầy lòng biết ơn sâu sắc và sự khiêm nhường, Hành trình chung của chúng ta là hành trình trưởng thành sâu sắc, học hỏi và cam kết chung đối với các giá trị Kitô giáo liên kết chúng ta".
Khi cảm ơn tất cả những người đóng góp các vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC) theo nghĩa này, ngài lưu ý rằng "chúng ta đã được thúc đẩy bởi Chúa Giêsu và tầm nhìn Kitô học đối với Châu Á".
Những bước tiến đáng kể
"Thông qua những nỗ lực chung của chúng ta", Đức Hồng Y Bo nhận xét, "chúng ta đã có những bước tiến đáng kể trong việc hoàn thành sứ mệnh của mình".
"Trong số những thành tựu lớn nhất của chúng ta là hành trình công nghị đang diễn ra, nơi chúng ta đã nắm bắt được tinh thần hợp tác, đối thoại và hiểu biết lẫn nhau", ngài nói, đồng thời nói thêm rằng điều này "không chỉ củng cố mối quan hệ trong Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC) mà còn cho phép chúng ta nhận ra rõ hơn tầm nhìn và mục đích chung của chúng ta".
Hơn nữa, ngài khen ngợi sự tham gia liên tục của Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC) "trong các cuộc trao đổi đầy ý nghĩa đã dẫn đến các hành động cụ thể trong nhiều lĩnh vực, đảm bảo rằng đức tin của chúng ta sống động và thích nghi trong thế giới đương đại".
Đức Hồng Y Bo nhớ lại rằng, trong suốt sáu năm qua, nhiều điều đã đạt được và nhiều tiến bộ đã hoàn thành.
Chào mừng nồng nhiệt vị tân Chủ tịch
Trong thông điệp của mình, vị Chủ tịch sắp mãn nhiệm đã nồng nhiệt chào đón người kế nhiệm của mình, Đức Hồng Y Phillip Neri, Tổng giám mục Goa và Damão, Ấn Độ và là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ấn (CCBI).
"Tôi rất vui mừng", Đức Hồng Y Bo nói, "được chào đón Đức Hồng Y Phillip Neri làm vị lãnh đạo mới của chúng ta. Với tài năng trí tuệ, sự nhạy bén trong xã hội và phẩm chất lãnh đạo tiên tri của ngài thực sự sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta".
"Khả năng đưa ra quyết định sáng suốt và có dự tính của ngài, cùng với đức tin sâu sắc và tầm nhìn lấy Chúa Kitô làm trung tâm", ngài tiếp tục, "mang đến lời hứa to lớn cho tương lai của chúng ta".
"Khả năng chấp nhận rủi ro táo bạo nhưng chu đáo của ngài", Đức Hồng Y Bo tuyên bố, "chắc chắn sẽ mở ra một kỷ nguyên mới về tiến bộ và tác động, thúc đẩy công việc chúng ta đã bắt đầu và mở rộng phạm vi tiếp cận của chúng ta nhưng vượt xa trí tưởng tượng hiện tại của chúng ta".
Lời chúc Giáng sinh và Năm mới
"Sự cống hiến không ngừng nghỉ, những đóng góp sáng tạo, lời cầu nguyện và sự ủng hộ của các bạn", ngài nhấn mạnh, "đã đóng vai trò quan trọng cho những thành công của hành trình này".
Khi nhiệm kỳ kết thúc, Đức Hồng Y đã gửi lời chúc nồng nhiệt nhất của mình cầu chúc tất cả một mùa Giáng sinh vui vẻ và một Năm mới thịnh vượng.
"Cùng nhau", ngài khen ngợi, "chúng ta đã tạo nên một di sản sẽ trường tồn, và tôi tin rằng chúng ta sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn khi chúng ta tiến về phía trước trong Chúa Thánh Thần".
Đức Hồng Y Bo kết luận bằng lời cầu nguyện xin cho hòa bình, niềm vui và suy tư này sẽ mang lại sức mạnh và hy vọng mới cho anh chị em và các tín hữu trên khắp vùng Châu Á.
Đức Hồng Y Charles Maung Bo đã gừi lời chia tay khi kết thúc nhiệm kỳ ba năm lần thứ hai và cũng là nhiệm kỳ cuối cùng của ngài với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC), trong đó ngài bày tỏ lòng biết ơn đối với những thành công khác nhau đã 'tạo nên di sản' và nồng nhiệt chào đón người kế nhiệm là Đức Hồng Y Felipe Neri Ferrão của Ấn Độ.
(Tin Vatican - Deborah Castellano Lubov)
Đức Hồng Y Charles Maung Bo của Yangon, Myanmar đã ban hành thông điệp chia tay khi kết thúc nhiệm kỳ ba năm lần thứ hai với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Châu Á, Ngài chia sẻ với "tràn đầy lòng biết ơn sâu sắc và sự khiêm nhường, Hành trình chung của chúng ta là hành trình trưởng thành sâu sắc, học hỏi và cam kết chung đối với các giá trị Kitô giáo liên kết chúng ta".
Khi cảm ơn tất cả những người đóng góp các vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC) theo nghĩa này, ngài lưu ý rằng "chúng ta đã được thúc đẩy bởi Chúa Giêsu và tầm nhìn Kitô học đối với Châu Á".
Những bước tiến đáng kể
"Thông qua những nỗ lực chung của chúng ta", Đức Hồng Y Bo nhận xét, "chúng ta đã có những bước tiến đáng kể trong việc hoàn thành sứ mệnh của mình".
"Trong số những thành tựu lớn nhất của chúng ta là hành trình công nghị đang diễn ra, nơi chúng ta đã nắm bắt được tinh thần hợp tác, đối thoại và hiểu biết lẫn nhau", ngài nói, đồng thời nói thêm rằng điều này "không chỉ củng cố mối quan hệ trong Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC) mà còn cho phép chúng ta nhận ra rõ hơn tầm nhìn và mục đích chung của chúng ta".
Hơn nữa, ngài khen ngợi sự tham gia liên tục của Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC) "trong các cuộc trao đổi đầy ý nghĩa đã dẫn đến các hành động cụ thể trong nhiều lĩnh vực, đảm bảo rằng đức tin của chúng ta sống động và thích nghi trong thế giới đương đại".
Đức Hồng Y Bo nhớ lại rằng, trong suốt sáu năm qua, nhiều điều đã đạt được và nhiều tiến bộ đã hoàn thành.
Chào mừng nồng nhiệt vị tân Chủ tịch
Trong thông điệp của mình, vị Chủ tịch sắp mãn nhiệm đã nồng nhiệt chào đón người kế nhiệm của mình, Đức Hồng Y Phillip Neri, Tổng giám mục Goa và Damão, Ấn Độ và là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ấn (CCBI).
"Tôi rất vui mừng", Đức Hồng Y Bo nói, "được chào đón Đức Hồng Y Phillip Neri làm vị lãnh đạo mới của chúng ta. Với tài năng trí tuệ, sự nhạy bén trong xã hội và phẩm chất lãnh đạo tiên tri của ngài thực sự sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta".
"Khả năng đưa ra quyết định sáng suốt và có dự tính của ngài, cùng với đức tin sâu sắc và tầm nhìn lấy Chúa Kitô làm trung tâm", ngài tiếp tục, "mang đến lời hứa to lớn cho tương lai của chúng ta".
"Khả năng chấp nhận rủi ro táo bạo nhưng chu đáo của ngài", Đức Hồng Y Bo tuyên bố, "chắc chắn sẽ mở ra một kỷ nguyên mới về tiến bộ và tác động, thúc đẩy công việc chúng ta đã bắt đầu và mở rộng phạm vi tiếp cận của chúng ta nhưng vượt xa trí tưởng tượng hiện tại của chúng ta".
Lời chúc Giáng sinh và Năm mới
"Sự cống hiến không ngừng nghỉ, những đóng góp sáng tạo, lời cầu nguyện và sự ủng hộ của các bạn", ngài nhấn mạnh, "đã đóng vai trò quan trọng cho những thành công của hành trình này".
Khi nhiệm kỳ kết thúc, Đức Hồng Y đã gửi lời chúc nồng nhiệt nhất của mình cầu chúc tất cả một mùa Giáng sinh vui vẻ và một Năm mới thịnh vượng.
"Cùng nhau", ngài khen ngợi, "chúng ta đã tạo nên một di sản sẽ trường tồn, và tôi tin rằng chúng ta sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn khi chúng ta tiến về phía trước trong Chúa Thánh Thần".
Đức Hồng Y Bo kết luận bằng lời cầu nguyện xin cho hòa bình, niềm vui và suy tư này sẽ mang lại sức mạnh và hy vọng mới cho anh chị em và các tín hữu trên khắp vùng Châu Á.
Hồng Y mới được tấn phong ở Iran thảo luận về hòa bình trong bối cảnh căng thẳng ở Trung Đông
Vũ Văn An
19:19 23/12/2024
Edward Pentin của National Catholic Register vừa phỏng vấn Đức Tân Hồng Y Dominique Mattieu của Teheran, Iran. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn, phổ biến ngày 20 tháng 12, 2024:
Từ việc ngắm sao đến phục vụ, Hồng Y Mathieu thảo luận về cách vượt qua nhiều thách thức mà đất nước của mình phải đối diện trong bối cảnh biến động chính trị.
Hồng Y Dominique Mathieu, Tổng giám mục nghi lễ Latinh của Tehran-Isfahan, Iran, người được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nâng lên hàng Hồng Y vào đầu tháng này, thấy mình ở trung tâm của một khu vực ngày càng bất ổn.
Không chỉ vị Hồng Y dòng Phanxicô, người phục vụ với tư cách là giám mục nghi lễ Latinh duy nhất của Iran, phải điều hướng các mối quan hệ tế nhị với Iran, một quốc gia hiện đang là tâm điểm của căng thẳng và thù địch với Israel, mà còn là sự sụp đổ gần đây của chế độ Assad ở nước láng giềng Syria.
Trong cuộc phỏng vấn qua email ngày 18 tháng 12 với Register, Hồng Y Mathieu giải thích cách ngài đang nỗ lực thúc đẩy “đối thoại và hiểu biết” với quốc gia Ba Tư, đồng thời cũng nỗ lực vì một thế giới tốt đẹp hơn trong bối cảnh biến động chính trị như vậy.
Là một công dân Bỉ, Hồng Y Mathieu tiếp tục suy gẫm về ý nghĩa của việc trở thành Hồng Y đối với ngài, tầm quan trọng của tấm gương của Thánh Phanxicô thành Assisi trong cuộc gặp gỡ của thánh nhân với Quốc vương Malik al-Kamil vào thế kỷ 13 và lý do tại sao ngài coi tính đồng nghị có tiềm năng củng cố Giáo Hội Công Giáo. Là một nhà thiên văn học sắc sảo trong quá khứ, ngài giải thích cách nghiên cứu vũ trụ đã “nâng cao linh đạo của ngài”.
Hồng Y Mathieu được bổ nhiệm làm tổng giám mục của Tehran-Isfahan vào năm 2021 sau nhiều năm tòa giám mục bị bỏ trống. Ngài phục vụ một nhóm nhỏ (chỉ gồm 9,000 người theo Vatican vào năm 2022) trong số 91 triệu người Hồi giáo chủ yếu Shiite của Iran.
Thưa Đức Hồng Y, ngài đã suy gẫm gì về việc được thăng lên Hồng Y đoàn? Điều đó có ý nghĩa gì đối với bản thân ngài?
Bản thân tôi chưa bao giờ hình dung mình sẽ đảm nhận những trách nhiệm được giao phó. Tuy nhiên, tôi nhận ra rằng mọi sự diễn ra trước khoảnh khắc này đã chuẩn bị cho tôi, vì Thiên Chúa là người dẫn dắt các bước chân của tôi. Tôi coi chức Hồng Y là lời mời gọi để thánh hóa bản thân hơn nữa và cống hiến hết mình, cả thể xác lẫn linh hồn, cho Thiên Chúa và dân Người.
Việc bổ nhiệm ngài làm tổng giám mục Tehran-Ispahan vào năm 2021 được coi là quan trọng để tăng cường đối thoại với Iran, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng đang diễn ra ở Trung Đông. Ngài mong đợi việc được thăng chức Hồng Y sẽ giúp ích gì cho ngài trong vai trò đó?
Giám mục đoàn phải tập trung chủ yếu vào việc cung cấp cho cộng đồng Công Giáo Latinh nhỏ bé ở Iran một người chăn dắt, hướng dẫn họ trở lại với cộng đồng rộng lớn hơn của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thể hiện tinh thần hòa nhập, không chỉ đối với các nhóm thiểu số bị thiệt thòi, chẳng hạn như người Công Giáo — những người chỉ chiếm chưa đến 0,0025% dân số — mà còn đối với nhóm đa số Shiite Mười hai dòng cai trị Cộng hòa Hồi giáo Iran. Trích lời Đức Thánh Cha nói với những người tham gia cuộc đối thoại do Bộ Đối thoại Liên tôn tổ chức vào ngày 20 tháng 11: “Quyết định [nâng Tổng giám mục Tehran-Ispahan lên Hồng Y đoàn] thể hiện sự gần gũi và quan tâm của tôi đối với Giáo hội tại Iran, và ngược lại tôn vinh toàn thể đất nước”.
Sau khi Tổng thống Syria Bashar al-Assad bị lật đổ vào ngày 8 tháng 12, ngài thấy tình hình trong khu vực và đặc biệt là mối quan hệ giữa Syria và Iran diễn biến như thế nào? Theo quan điểm của ngài, đâu là chìa khóa cho hòa bình trong khu vực và ngài có thấy cơ hội để giúp làm trung gian cho hòa bình tại đó không?
Chúa chưa bao giờ ngừng nói về thập giá mà chúng ta phải mang. Để chống chọi với bão tố, người ta phải xây nhà trên đá là Chúa Kitô chứ không phải trên cát lún. Ách của Người được thiết kế để giúp chúng ta mang gánh nặng của thế giới này, và là con trai của một người thợ mộc, được điều chỉnh theo khả năng của chúng ta để nó không đè nặng lên chúng ta. Hòa bình bắt đầu bằng sự hoán cải bên trong, biến đổi trái tim chai đá của chúng ta thành xác thịt ban sự sống. Bằng cách thể hiện phẩm chất của muối, men tươi và ánh sáng hữu hình trong bóng tối, chúng ta có thể đóng góp — dù có khó khăn đến đâu — vào việc tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, một ngôi nhà chung nơi chúng ta đều là anh chị em, bất chấp những khác biệt của chúng ta.
Là một Hồng Y dòng Phanxicô, tinh thần Phanxicô quan trọng như thế nào trong công việc mà ngài làm, đặc biệt là ví dụ về cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Thánh Phanxicô và Quốc vương vào thế kỷ 13?
Đối với Thánh Phanxicô, tình huynh đệ là điều cốt yếu. Nó bao gồm việc chiêm ngưỡng công trình của Thiên Chúa trong mọi tạo vật và trong toàn bộ tạo vật. Mọi thứ đã được giao phó cho chúng ta, nhưng không có gì thực sự thuộc về chúng ta.
Là "anh em hèn mọn", chúng ta phải tiếp cận thế giới bằng sự khiêm nhường. Sự đơn sơ thường có thể làm người khôn ngoan bối rối. Chúng ta được kêu gọi trở nên trong sáng, như trẻ thơ, như Chúa đã dạy chúng ta. Chính Người đã mang thân phận của một đứa trẻ để bước vào một thế giới thường khinh thường Người, nhưng cũng tôn thờ Người. Cuộc gặp gỡ của Thánh Phanxicô với Quốc vương có thể không được coi là thành công theo tiêu chuẩn thế gian, vì nó không chấm dứt ngay lập tức xung đột. Tuy nhiên, nó đã chứng minh rằng có thể giao lưu với các nhà lãnh đạo vĩ đại và lay động họ trong khi vẫn giữ được sự giản dị và chân thực. Cuộc gặp gỡ này là một ví dụ sâu sắc về cách sự khiêm nhường và tình anh em có thể thúc đẩy đối thoại và hiểu biết, ngay cả trong thời kỳ chia rẽ.
Tòa thánh, theo lịch sử, có mối quan hệ tương đối tốt với Iran về việc hình thành mặt trận thống nhất trong việc phản đối các chính sách chống lại sự sống tại các tổ chức như Liên hiệp quốc. Mối quan hệ của ngài với các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị Shiite của Iran như thế nào và ngài có tham gia vào công tác phản kháng như vậy không?
Trên thực tế, mối quan hệ của chúng ta vẫn đang trong giai đoạn phôi thai và đang dần được phát triển. Những nỗ lực giao lưu với các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị Shiite của Iran vẫn đang được tiến hành và chúng ta cam kết thúc đẩy đối thoại và hiểu biết. Trong khi khuôn khổ hợp tác vẫn đang trong quá trình định hình, mục tiêu của chúng ta là cùng nhau làm việc hữu hiệu để phản đối các chính sách chống lại sự sống và ủng hộ phẩm giá của mọi cá nhân.
Quan điểm của ngài về các cải cách của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đặc biệt tính đồng nghị, là gì? Ngài có tin rằng tính đồng nghị sẽ giúp mang đức tin đến với mọi người, giúp Giáo hội bớt tự tham chiếu hay ngài có chia sẻ mối lo ngại rằng nó là phương tiện cho sự dị giáo có thể làm suy yếu cấu trúc phẩm trật của Giáo hội và qua đó làm suy yếu thẩm quyền tinh thần của Giáo hội không?
Tính đồng nghị là một khía cạnh cơ bản của bản sắc Giáo hội và đại diện cho một quá trình năng động đòi hỏi phải liên tục đổi mới các cấu trúc ra quyết định của mình trong khi vẫn duy trì thẩm quyền về tín lý. Vì đức tin là một hồng phúc của Thiên Chúa, tính đồng nghị có thể nâng cao cách chúng ta sống đức tin này. Nó tạo ra cơ hội để tham gia sâu hơn vào các tín lý của Giáo hội và thúc đẩy một môi trường bao gồm nhiều hơn, có thể giúp mang đức tin đến với nhiều đối tượng hơn. Thay vì làm suy yếu cấu trúc phẩm trật của Giáo hội, tính đồng nghị có tiềm năng củng cố nó bằng cách khuyến khích sự hợp tác và hiệp thông giữa tất cả các thành viên của Giáo hội.
Ngài nghĩ gì về những vấn đề sau đây có vẻ như đang được mở ra để thảo luận: nữ phó tế, quy tắc độc thân của giáo sĩ, giáo huấn về biện pháp tránh thai, giáo lý về đồng tính luyến ái và Rước lễ cho những người ly hôn tái hôn theo luật dân sự? Ngài có ủng hộ việc thay đổi cách tiếp cận đối với từng vấn đề này không và nếu có thì như thế nào?
Những câu hỏi này chủ yếu phản ảnh mối quan tâm phổ biến trong bối cảnh phương Tây, nhưng chúng không liên quan nhiều đến khu vực tôi sống. Những thách thức mà Giáo hội ở khu vực của tôi phải đối diện thường khác biệt đáng kể so với những thách thức ở phương Tây.
Quan điểm của ngài về Traditionis Custodes là gì và ngài có cử hành Thánh lễ theo Nghi lễ Cũ không?
Bức tông thư dưới dạng tự sắc khá rõ ràng. Là một người con của Công đồng Vatican II, tôi luôn cử hành Thánh lễ theo Sách lễ Rôma được thiết lập sau cuộc cải cách năm 1970.
Ngài có thể cho chúng tôi biết thêm về niềm đam mê thiên văn học của ngài không? Điều gì đã thu hút ngài đến với lĩnh vực này và nó liên quan như thế nào đến linh đạo của riêng ngài?
Niềm đam mê thiên văn học của tôi là thứ mà tôi đã gác lại phần nào kể từ khi trở thành giám mục. Tôi luôn bị mê hoặc bởi vẻ đẹp lộng lẫy của bầu trời sâu thẳm và những điều bí ẩn của vũ trụ bao la. Tôi bắt đầu bằng cách quan sát bầu trời bằng mắt thường, và cuối cùng đi sâu hơn, sử dụng các thiết bị thiên văn chuyên dụng để quan sát bầu trời sâu thẳm và thực hành chụp ảnh thiên văn. Sở thích này bao gồm nhiều lĩnh vực, bao gồm quang học, cơ học, khoa học máy tính, nhiếp ảnh, v.v. Nó đại diện cho một hành trình liên tục học các kỹ thuật mới và khám phá một loạt các điều kỳ diệu vô tận, mỗi điều đều đáng chú ý hơn điều trước. Sự tham gia của tôi vào thiên văn học làm tăng cường nền linh đạo của tôi, khi tôi kinh ngạc trước sự vĩ đại của Tạo hóa và suy gẫm về nghệ thuật thần linh hiển hiện trong vũ trụ.
Cựu Thống đốc Nineveh phủ nhận vụ ám sát Đức Thánh Cha Phanxicô trong chuyến thăm Iraq năm 2021
Đặng Tự Do
20:50 23/12/2024
Cựu Thống đốc Nineveh Najm Al-Jubouri đã phản hồi tiết lộ gần đây của Đức Thánh Cha Phanxicô về một vụ ám sát trong chuyến thăm Iraq của ngài vào năm 2021, phủ nhận mọi sự việc như vậy đã xảy ra.
Al-Jubouri tuyên bố rằng “chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng vào tháng 3 năm 2021 đã được lên kế hoạch tỉ mỉ mà không có bất kỳ mối đe dọa hoặc sự việc an ninh nào. Chuyến thăm đã được lên kế hoạch trước ở cao cấp nhất, với nhiều nhóm đến trước nhiều ngày để bảo đảm an toàn cho Giáo hoàng từ khi vào Nineveh, trong suốt chuyến thăm thành phố cổ và các chuyến đi đến Alqosh và Hamdaniya”.
“Các nhóm bao gồm nhân sự từ Nineveh, Baghdad, các nhóm an ninh Anh và Mỹ, và một nhóm tình báo chuyên trách của Iraq.”
Ông nói thêm, “Không có báo cáo nào cho thấy có mối đe dọa nào đến tính mạng của Đức Giáo Hoàng, và mọi hoạt động và chỉ thị an ninh ở Nineveh đều được ban hành dưới sự giám sát trực tiếp của tôi.”
Al-Jubouri nói thêm rằng nếu có bất kỳ mối đe dọa nào đối với một nhân vật quan trọng như Giáo hoàng, các nghi thức an ninh quốc tế sẽ đòi hỏi phải hủy chuyến thăm, nhưng điều đó đã không xảy ra, chứng tỏ không có mối đe dọa nào cả.
Ông lưu ý rằng “Nineveh có mức độ an ninh và ổn định cao trong thời gian đó, cho phép Đức Giáo Hoàng đến thăm thành phố một cách thoải mái. Chuyến thăm của Giáo hoàng không phải là chuyến thăm duy nhất; tiếp theo là chuyến thăm của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, người đã tham quan thành phố cổ và đến thăm một số địa điểm mà không có bất kỳ sự việc an ninh nào.”
“Những lời đồn về một vụ ám sát có thể xuất phát từ nỗ lực của một số cơ quan an ninh nhằm thu hút sự chú ý của giới truyền thông, hoặc có thể là do thông tin tình báo không chính xác đến được với Đức Giáo Hoàng.”
“Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói hoặc nhìn thấy bất kỳ bằng chứng nào về nỗ lực bị cáo buộc này, và thật đáng ngạc nhiên khi những tuyên bố như vậy lại được đưa ra vào thời điểm này, đặc biệt là khi chúng tôi ở Iraq không hề biết về những tin đồn này”, ông kết luận.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiết lộ rằng ngài là mục tiêu của “một vụ đánh bom tự sát” trong chuyến thăm Iraq của ông cách đây ba năm. Trong một đoạn trích được công bố hôm thứ Ba từ cuốn tự truyện sắp ra mắt của mình, Đức Giáo Hoàng cho biết cảnh sát đã thông báo với ông rằng “ít nhất hai kẻ đánh bom tự sát đã biết đang nhắm vào một sự kiện mà ông được cho là sẽ tham dự”.
Theo đoạn trích được đăng trên tờ báo Ý Corriere della Sera, Đức Giáo Hoàng đã viết, “Một người phụ nữ mang theo thuốc nổ, một kẻ đánh bom liều chết trẻ tuổi, đang trên đường đến Mosul để kích nổ bom tự sát trong chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng, và một chiếc xe tải nhỏ cũng đang phóng nhanh với cùng mục đích đó.”
Đức Giáo Hoàng cho biết tình báo Anh đã thông báo cho Vatican về vụ ám sát. Ngày hôm sau, ngài hỏi một viên chức an ninh về những gì đã xảy ra với những kẻ đánh bom liều chết tiềm năng. “Vị chỉ huy trả lời ngắn gọn: Họ không còn ở đó nữa; cảnh sát Iraq đã chặn lại và vô hiệu hóa họ”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết.
Source:Shahaq
Vụ xả súng ở trường Abundant Life: Trường học Kitô Giáo có bị nhắm tới không?
Đặng Tự Do
20:51 23/12/2024
Vụ xả súng tại trường Abundant Life Christian School hay Trường Sự Sống Dồi Dào Kitô Giáo đã làm dấy lên mối lo ngại trên mạng xã hội về việc các trường học Kitô giáo bị tấn công bởi bạo lực súng đạn. Dữ liệu cho thấy đây là vụ xả súng thứ hai tại một trường Kitô Giáo trong năm nay dẫn đến thương tích hoặc tử vong.
Sau vụ xả súng tại Trường Kitô giáo Abundant Life ở Madison, Wisconsin, vào hôm thứ Hai 16 Tháng Mười Hai, Đức Tổng Giám Mục Jerome Listecki nghỉ hưu của Tổng giáo phận Milwaukee lo ngại rằng các trường học Kitô giáo đang bị tấn công Một giáo viên và một học sinh tuổi teen đã thiệt mạng trong vụ xả súng. Nhiều học sinh bị thương, bao gồm hai em bị thương nguy hiểm đến tính mạng.
Theo hãng thông tấn Associated Press, trích dẫn nguồn tin từ cơ quan thực thi pháp luật, nghi phạm xả súng, một nữ sinh 17 tuổi đang theo học tại trường, đã được tìm thấy chết tại hiện trường, dường như đã tự tử.
Cho đến nay, hầu hết các vụ xả súng được báo cáo đều xảy ra ở trường công lập.
Vào ngày 4 tháng 12, Glenn Litton, 56 tuổi, đã nổ súng tại Trường Feather River Adventist ở Oroville, California. Hai trẻ em, đều là học sinh mẫu giáo, đã bị thương trong vụ nổ súng. Litton được phát hiện đã chết tại hiện trường do vết thương dường như do tự bắn.
Các viên chức cho biết Litton đã theo học tại một trường Seventh-Day Adventist ở Paradise khi còn nhỏ và có thể có một thành viên trong gia đình đã theo học tại trường Feather River nhiều năm trước. Các viên chức không tin rằng anh ta có bất kỳ mối liên hệ nào hiện tại với trường.
Các viên chức tìm thấy một tuyên bố được cho là do Litton viết, trong đó nêu rằng “các vụ hành quyết trẻ em” được áp dụng tại trường học để đáp trả “sự tham gia của Mỹ vào cuộc diệt chủng và đàn áp người Palestine” và các cuộc tấn công ở Yemen. Ông ta cũng nói rằng ông ta tấn công trường học thay mặt cho “Liên minh quốc tế”, nhưng các viên chức không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào về sự tồn tại của tổ chức này.
Cựu ứng cử viên quốc hội Jack Lombardi II, trên X: “Liệu vụ xả súng khủng khiếp này có được coi là tội ác thù hận hay chúng ta sẽ hành động như thể các Kitô hữu không bị tấn công! Trẻ em và [gia đình] luôn trong trái tim và lời cầu nguyện của chúng tôi.”
Thống đốc Wisconsin Tony Evers đã phát biểu: “Không có từ ngữ nào có thể diễn tả được sự tàn phá và đau lòng mà chúng ta cảm thấy ngày hôm nay sau vụ xả súng tại trường Abundant Life Christian ở Madison sáng nay.”
Thị trưởng Madison Satya Rhodes-Conway, tại cuộc họp báo chiều thứ Hai: “Nếu bất kỳ ai cần hỗ trợ sức khỏe tâm thần do sự việc này và phạm vi đưa tin về sự cố, tôi khuyến khích họ liên hệ với 988 qua điện thoại hoặc tin nhắn để nhận được sự hỗ trợ sức khỏe tâm thần mà họ cần.”
Source:Newsweek
Tin Giáo Hội Việt Nam
Nhóm Bông Hồng Xanh thăm và tặng quà Noel Gx Trà Ôn Gp Vĩnh Long
Maria Vũ Loan
03:45 23/12/2024
Nhóm ctxh Bông Hồng Xanh chia quà Noel tại giáo xứ Trà Ôn, giáo phận Vĩnh Long
Xem hình
Ngày Chúa nhật 22/12/2024, Nhóm Bông Hồng Xanh đã đến giáo xứ Trà Ôn, giáo phận Vĩnh Long để chia quà cho trẻ em và những người lao động nghèo, trong khuôn viên giáo xứ.
Từ 5 giờ00 sáng, chúng tôi đã khởi hành và đi qua "ba chặng cao tốc” để đến khu 5 Đốc Phủ Yên, thị trấn Trà Ôn, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, để vào nhà thờ của họ đạo như đã hẹn.
Vì là thị trấn nên xung quanh nhà thờ là "phố chợ” có phần đông đúc, người ta ở san sát nhau. Khi vào trong sân rộng, có nhiều trẻ em và một số người lớn như đang đợi chúng tôi. Quang cảnh họ đạo rộng rãi, đẹp vì cách trang trí Noel rất bắt mắt. Chúng tôi bắt tay vào việc chia quà cho trẻ em ngay vì sau đó chúng tôi được gặp gỡ người lao động nghèo trong nơi “Chén Cơm Tình Thương” của họ đạo.
Trẻ em và thanh thiếu niên ở đây hiền lành ngoan ngoãn. Việc chia quà có sự hân hoan trao nhận nhịp nhàng, làm niềm vui trong chúng tôi được nhân đôi. Khi chụp hình chung, các em còn hát nữa làm cho bầu khí ở đây "rất Noel”. Cha sở Giuse Nguyễn Hữu Nha cũng có mặt chứng kiến niềm vui dành cho thiếu nhi học giáo lý và cả trẻ em ở bên ngoài vào. Các em lớp giáo lý lớn còn được phát thêm mấy tờ tiền để đi uống trà sữa nữa. Chúng tôi không thể trò chuyện gì với các em vì phải có mặt khi người lớn tụ tập dùng cơm trưa phía sau đầu nhà thờ, ở khu ấy có tấm bảng “Chén Cơm Tình thương”.
Khi chúng tôi vào, người lớn đã ngồi đầy các bàn tròn, còn những người khuyết tật ngồi trên xe lăn của mình mà dùng cơm phần riêng. Cha xứ phát biểu xong thì bữa ăn mới dọn ra. Vì lu bu công việc, thú thật, chúng chẳng nhớ được cha xứ đã nói gì, nhưng chắc chắn đó là lời vui mừng cho buổi gặp gỡ hôm nay và lời cảm ơn cho đoàn công tác chúng tôi. Sau bữa ăn, chúng tôi mang những đĩa bánh kẹo ra mời bà con. Nhiều người thích ăn bánh quế, kẹo mềm. Đi từng bàn cùng Ông già Noel, chúng tôi thấy một niềm hạnh phúc khó tả trong lòng. Còn những người dùng bữa cũng thấy vui lạ trong lòng chăng? Vì vào ngày thứ sáu hàng tuần, giáo xứ có mời những người lao động nghèo đến dùng bữa cơm trưa, số người dùng "Chén Cơm Tình Thương” tại đây giao động từ 70 đến 80 người. Hôm nay, bữa ăn của ngày thứ sáu dời sang trưa Chúa nhật và nghe nói có phát quà Noel nên “có thêm” hơn hai mươi người nữa đến dự bữa trưa nên chúng tôi tất bật đi đổi tiền để chia thêm.
Sau đó, đang ngồi dùng cơm với Cha sở, cha phó, ông chánh trương và ông trùm khu, một vài người bán vé số ở bên ngoài “đi tự nhiên” vào gặp chúng tôi. Nhìn và nói chuyện với họ, không trao tặng tiền là “có lỗi” rõ ràng, chúng tôi thầm nghĩ vậy nên “vét hết” trong túi mình. Chúng tôi cũng không quên tặng “tổ nấu ăn hàng tuần” một số tiền chung để các bà các chị vui Noel. Có hai “ông bà cố tương lai” có con đang tu tập ở dòng Mến Thánh Giá cũng được tặng quà riêng. Ít hay nhiều, từ cha phó đến “thần dân” ai cũng có quà nên lòng chúng tôi tràn ngập niềm vui. Chắc là hai thiên thần của “nhà thánh Martino trên thiên đàng” còn vui hơn chúng tôi nữa!
Được biết, giáo xứ sinh hoạt rất nhịp nhàng. Vào ngày 03/12/2024 vừa qua, giáo xứ đã khánh thành giáo điểm Lục Sĩ Thành với 40 giáo dân. Họ đạo nhỏ Rạch Chiếc cũng là nhánh của họ đạo Trà Ôn vẫn sinh hoạt đều đặn với mấy chục giáo dân. Ở vùng này, giáo dân mưu sinh khá vất vả vì nhiều người không có đất, kể cả dân địa phương; còn trồng tỉa thì “lúc được lúc không”. Đặc biệt, giáo xứ có Hội Thiện Tử, khi gia đình nào có đám tang, Hội lo đầy đủ việc mai táng và một gia đình chỉ cần đóng 400 ngàn đồng (16 Usd) mỗi năm là được lo cho từng người trong gia đình. Mỗi tháng, họ đạo có thể đi hành hương bốn địa điểm là Nhà Thờ Chánh Tòa Vĩnh Long, Trung tâm hành hương Đức Mẹ La Mã Bến Tre, Trung tâm hành hương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Đình Khao và Trung tâm hành hương Đức Mẹ Fatima Vĩnh Long.
Chuyến công tác thành công tốt đẹp. Ban đầu, chúng tôi dự định cho cụ già Noel đi “lưu diễn” từ Vĩnh Long sang Trà Vinh, từ Trà Vinh xuống Cà Mau rồi “bay” về Sài gòn nhưng vì ít “thiên thần” đến thăm quá nên đoàn chúng tôi về nhà khi nắng vừa tắt. Hẹn miền tây một dịp khác nữa chăng!?
Vài hàng tiểu sử giáo xứ Trà Ôn.
Giáo xứ Trà Ôn là một họ đạo có từ lâu đời của Địa phận Nam Kỳ mà người được rửa tội đầu tiên là vào năm 1896. Nhà thờ đầu tiên được cất lên bằng vật liệu nhẹ như vách là ván gỗ, mái bằng ngói tại Xóm “Cơm Quán” (bây giờ gọi là Xóm Lưới) nằm dọc sông Hậu Giang thuộc thị Trấn Trà Ôn.
Vào năm 1896 đó, có ông Tổng Bền, là người đạo dòng, đến đây lập cư nên Cha Soullard (Sáng) đã có ý lập họ đạo và cha Laurenso Tống Thành Mỹ đã khổ công lập thành họ đạo mới (Dựa theo tư liệu Nam Kỳ Địa Phận, số ra ngày 10 tháng 7 năm 1929). Và cha sở tiên khởi cũng chính là cha Laurenso Tống Thành Mỹ với số bổn đạo đầu tiên là 40 người của 12 gia đình. Sau đó là một hành trình dài mà số giáo dân hiện nay là 1.300 người với những sinh hoạt sống động của một họ đạo.
Xem hình
Ngày Chúa nhật 22/12/2024, Nhóm Bông Hồng Xanh đã đến giáo xứ Trà Ôn, giáo phận Vĩnh Long để chia quà cho trẻ em và những người lao động nghèo, trong khuôn viên giáo xứ.
Từ 5 giờ00 sáng, chúng tôi đã khởi hành và đi qua "ba chặng cao tốc” để đến khu 5 Đốc Phủ Yên, thị trấn Trà Ôn, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, để vào nhà thờ của họ đạo như đã hẹn.
Vì là thị trấn nên xung quanh nhà thờ là "phố chợ” có phần đông đúc, người ta ở san sát nhau. Khi vào trong sân rộng, có nhiều trẻ em và một số người lớn như đang đợi chúng tôi. Quang cảnh họ đạo rộng rãi, đẹp vì cách trang trí Noel rất bắt mắt. Chúng tôi bắt tay vào việc chia quà cho trẻ em ngay vì sau đó chúng tôi được gặp gỡ người lao động nghèo trong nơi “Chén Cơm Tình Thương” của họ đạo.
Trẻ em và thanh thiếu niên ở đây hiền lành ngoan ngoãn. Việc chia quà có sự hân hoan trao nhận nhịp nhàng, làm niềm vui trong chúng tôi được nhân đôi. Khi chụp hình chung, các em còn hát nữa làm cho bầu khí ở đây "rất Noel”. Cha sở Giuse Nguyễn Hữu Nha cũng có mặt chứng kiến niềm vui dành cho thiếu nhi học giáo lý và cả trẻ em ở bên ngoài vào. Các em lớp giáo lý lớn còn được phát thêm mấy tờ tiền để đi uống trà sữa nữa. Chúng tôi không thể trò chuyện gì với các em vì phải có mặt khi người lớn tụ tập dùng cơm trưa phía sau đầu nhà thờ, ở khu ấy có tấm bảng “Chén Cơm Tình thương”.
Khi chúng tôi vào, người lớn đã ngồi đầy các bàn tròn, còn những người khuyết tật ngồi trên xe lăn của mình mà dùng cơm phần riêng. Cha xứ phát biểu xong thì bữa ăn mới dọn ra. Vì lu bu công việc, thú thật, chúng chẳng nhớ được cha xứ đã nói gì, nhưng chắc chắn đó là lời vui mừng cho buổi gặp gỡ hôm nay và lời cảm ơn cho đoàn công tác chúng tôi. Sau bữa ăn, chúng tôi mang những đĩa bánh kẹo ra mời bà con. Nhiều người thích ăn bánh quế, kẹo mềm. Đi từng bàn cùng Ông già Noel, chúng tôi thấy một niềm hạnh phúc khó tả trong lòng. Còn những người dùng bữa cũng thấy vui lạ trong lòng chăng? Vì vào ngày thứ sáu hàng tuần, giáo xứ có mời những người lao động nghèo đến dùng bữa cơm trưa, số người dùng "Chén Cơm Tình Thương” tại đây giao động từ 70 đến 80 người. Hôm nay, bữa ăn của ngày thứ sáu dời sang trưa Chúa nhật và nghe nói có phát quà Noel nên “có thêm” hơn hai mươi người nữa đến dự bữa trưa nên chúng tôi tất bật đi đổi tiền để chia thêm.
Sau đó, đang ngồi dùng cơm với Cha sở, cha phó, ông chánh trương và ông trùm khu, một vài người bán vé số ở bên ngoài “đi tự nhiên” vào gặp chúng tôi. Nhìn và nói chuyện với họ, không trao tặng tiền là “có lỗi” rõ ràng, chúng tôi thầm nghĩ vậy nên “vét hết” trong túi mình. Chúng tôi cũng không quên tặng “tổ nấu ăn hàng tuần” một số tiền chung để các bà các chị vui Noel. Có hai “ông bà cố tương lai” có con đang tu tập ở dòng Mến Thánh Giá cũng được tặng quà riêng. Ít hay nhiều, từ cha phó đến “thần dân” ai cũng có quà nên lòng chúng tôi tràn ngập niềm vui. Chắc là hai thiên thần của “nhà thánh Martino trên thiên đàng” còn vui hơn chúng tôi nữa!
Được biết, giáo xứ sinh hoạt rất nhịp nhàng. Vào ngày 03/12/2024 vừa qua, giáo xứ đã khánh thành giáo điểm Lục Sĩ Thành với 40 giáo dân. Họ đạo nhỏ Rạch Chiếc cũng là nhánh của họ đạo Trà Ôn vẫn sinh hoạt đều đặn với mấy chục giáo dân. Ở vùng này, giáo dân mưu sinh khá vất vả vì nhiều người không có đất, kể cả dân địa phương; còn trồng tỉa thì “lúc được lúc không”. Đặc biệt, giáo xứ có Hội Thiện Tử, khi gia đình nào có đám tang, Hội lo đầy đủ việc mai táng và một gia đình chỉ cần đóng 400 ngàn đồng (16 Usd) mỗi năm là được lo cho từng người trong gia đình. Mỗi tháng, họ đạo có thể đi hành hương bốn địa điểm là Nhà Thờ Chánh Tòa Vĩnh Long, Trung tâm hành hương Đức Mẹ La Mã Bến Tre, Trung tâm hành hương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Đình Khao và Trung tâm hành hương Đức Mẹ Fatima Vĩnh Long.
Chuyến công tác thành công tốt đẹp. Ban đầu, chúng tôi dự định cho cụ già Noel đi “lưu diễn” từ Vĩnh Long sang Trà Vinh, từ Trà Vinh xuống Cà Mau rồi “bay” về Sài gòn nhưng vì ít “thiên thần” đến thăm quá nên đoàn chúng tôi về nhà khi nắng vừa tắt. Hẹn miền tây một dịp khác nữa chăng!?
Vài hàng tiểu sử giáo xứ Trà Ôn.
Giáo xứ Trà Ôn là một họ đạo có từ lâu đời của Địa phận Nam Kỳ mà người được rửa tội đầu tiên là vào năm 1896. Nhà thờ đầu tiên được cất lên bằng vật liệu nhẹ như vách là ván gỗ, mái bằng ngói tại Xóm “Cơm Quán” (bây giờ gọi là Xóm Lưới) nằm dọc sông Hậu Giang thuộc thị Trấn Trà Ôn.
Vào năm 1896 đó, có ông Tổng Bền, là người đạo dòng, đến đây lập cư nên Cha Soullard (Sáng) đã có ý lập họ đạo và cha Laurenso Tống Thành Mỹ đã khổ công lập thành họ đạo mới (Dựa theo tư liệu Nam Kỳ Địa Phận, số ra ngày 10 tháng 7 năm 1929). Và cha sở tiên khởi cũng chính là cha Laurenso Tống Thành Mỹ với số bổn đạo đầu tiên là 40 người của 12 gia đình. Sau đó là một hành trình dài mà số giáo dân hiện nay là 1.300 người với những sinh hoạt sống động của một họ đạo.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt Hài Nhi Giesu trong hang chuồng xúc vật.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
00:37 23/12/2024
Khuôn mặt Hài Nhi Giesu trong hang chuồng xúc vật.
Từ hơn 20 thế kỷ nay, hằng năm người Công giáo, và những tôn giáo tin vào Chúa Giêsu Kitô vào ngày 25.12. mừng sinh nhật Ngài là Đấng cứu thế, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người.
Theo phúc âm Thánh Luca thuật lại ( Lc 2,1/214) Chúa Giêsu Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh khó nghèo giữa cánh đồng ở Bethlehem. Và chỉ có các mục đồng là những người đầu tiên biết đến biến cố lịch sử thánh đức giữa hào quang ánh sáng của các Thiên Thần Chúa hiện đến báo tin cho: “ Các Bạn đừng sợ, đây ta mang đến cho các Bạn một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ.”
Trong đời sống đức tin xưa nay không biết bao nhiêu lần chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh và đã nghe đọc đi đọc lại. Nhưng đã đón nhận tin mừng này như thế nào?
Tin mừng độc nhất này chúng ta đã nghe, đã đọc. Dẫu vậy nó không mấy lưu lại ở trong tai nghe, cùng cả trong trí óc. Vì tin mừng này là một tin mừng cho tâm hồn trái tim tình yêu mến. Tin mừng mang đến âm vang chạm vào trái tim tâm hồn sâu thẳm con người. Và từ bình điện đó cũng lan toả vào tâm trí suy nghĩ và liên kết với lòng tin. Tin mừng Chúa giáng sinh sâu xa hơn là tin mừng tình yêu, mà Thiên Chúa nới tỏ với con người trần gian.
Hiện tại những gì đang xảy diễn ra trên trái đất nơi chúng ta đang sinh sống là những chao đảo lộn xộn mất trất tự, tàn phá đe dọa sự sống: chiến tranh bên Ukraina, bên vùng Gaza, bên nước Libano, bên nước Syria, đoàn l;ũ những người di cư tìm đường đi tỵ nạn qua đường đi bộ, qua đường vượt biển cả nguy hiểm, cảnh khủng hoảng khí hậu tàn phá thiên nhiên, khủng hoảng về năng lượng, cảnh nghèo đó bệnh tật lan rộng nơi các đất nước trên thế giới, và cả trong đời sống tinh thần của Giáo hội Công Giáo gặp khủng hoảng nơi nhiều đất nước nhất là bên Âu châu đang vướng mắc vào cơn chao đảo đảo khủng hoảng như mất định hướng. Đó là thực tế đời sống ngày hôm nay ngay giữa ngày mừng lễ Hài nhi Giêsu giáng sinh, Con Thiên Chúa, được xưng tụng là Đấng Cứu Thế cho trần gian.
Và cảnh chao đảo khủng hoảng, mất trật tự, đe dọa cũng đã diễn xảy ra trong xã hội thời xưa lúc Chúa Giêsu sinh ra, cách đây hơn hai ngàn năm: chiến tranh, sự thống trị chèn ép, đời sống xã hội không có công bình, bị áp bức bóc lột. Vì lúc đó đế quốc Roma thống trị từ vùng Âu châu lan sang cả các đất nước bên vùng Trung Đông, trong đó cả nước Do Thái, nơi là quê hương sinh ra, lớn lên của Chúa Giêsu Kitô. Theo sử sách ghi lại một phần tư dân chúng trong đế quốc Roma lúc thời đó sống trong hoàn cảnh đời làm nô lệ cho những lớp quyền qúi quyền lực.
Sách các Tiên tri và những nhà viết lịch sử viết để lại diễn tả chính trong hoàn cảnh đó con người rất mong đợi sự cứu chuộc, sự giải phóng, sự an ủi chữa lành.
Chính sự trông mong chờ đợi như thế, thời sự ngày hôm nay con người chúng ta đang có trong trái tim tâm hồn. Một sự trông mong chờ đợi cho toàn thế giới, cho khung cảnh thế giới nhỏ bé riêng tư của mình được chữa lành, có bình an, có công bằng chính trực.
Lễ mừng Hài nhi Giêsu giáng sinh trên trần gian là câu trả lời cho sự trông mong chờ đợi của con người, cho nhu cầu đời sống cần có bằng an trong tâm hồn và bên ngoài xã hội. Đó là điều diễn tả gía trị cao cả của Kitô giáo chúng ta. Như ca đoàn các Thiên Thần Chúa trên cánh đồng Bethlehem, nơi hài nhi Giêu sinh ra trong chuồng xúc vật, xướng hát lời ca tụng mừng kính: Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao thẳm và bình an dưới trần gian cho con người.” ( Lc 2,14).
Những người mục đồng hôm đó là những người đầu tiên đã nghe lời các Thiên Thần loan báo ca hát về biến cố lịch sử thánh sự sinh ra của Hài Nhi Giêsu trong hang chuồng xúc vật. Họ đã hiểu và tin tưởng vào tin mừng đó. Và với tình yêu họ đã rủ nhau: ” nào ta cùng đến Bethlem, xem sự thể tận mắt, rồi tường thuật loan báo rộng rãi cho mọi người cùng biết đến mầu nhiệm lạ lùng trong đêm thánh vô cùng: Thiên Chúa giáng sinh làm người là một hài nhi.
Những người mục đồng, có thể nói được, họ là những Kitô hữu đầu tiên. Vì họ đã nhận ra ngay nơi ngày Chúa giáng sinh Hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, và họ đã cảm nhận nơi hài nhi Giêsu tình yêu của Thiên Chúa.
Những người mục đồng này là những người thuộc về lễ giáng sinh. Vì họ không chỉ giữ lại cho riêng mình biến cố mầu nhiệm giáng sinh lạ lùng mà họ đã nghe, đã thấy, nhưng đã tường thuật kể tiếp loan truyền cho mọi người cùng biết đến.
Những người mục đồng này là những con người có đời sống đơn giản. Phải, khó nghèo nàn thuộc vào lớp bần cùng như sống bên lề ngoài xã hội xa hoa quyền lực. Nhưng họ đã có can đảm, loan truyền tình yêu Thiên Chúa trong một xã hội phức tạp đầy nguy hiểm, cùng trong toàn thế giới đế quốc Roma tôn thờ nhiều thần thánh khác nhau.
Những người mục đồng này đã có đủ năng lượng sức mạnh cảm nhận ra được tin mừng Chúa Giêsu giáng sinh, và qua đó tìm thấy nơi đó bản chất con người của chính mình. Họ đã hiểu ra, hài nhi sinh ra trong hang chuồng xúc vật đó là câu trả lời cho những thắc mắc về đời sống.
Câu trả lời đó xảy ra năm xưa ngày hôm qua, và cũng vẫn có gía trị cho ngày hôm nay. Vì câu trả lời đó có năng lượng sức mạnh làm thay đổi lòng con người, và biến đổi từ hận thù áp bức sang thành tình yêu lòng quảng đại nhân ái.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ hơn 20 thế kỷ nay, hằng năm người Công giáo, và những tôn giáo tin vào Chúa Giêsu Kitô vào ngày 25.12. mừng sinh nhật Ngài là Đấng cứu thế, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người.
Theo phúc âm Thánh Luca thuật lại ( Lc 2,1/214) Chúa Giêsu Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh khó nghèo giữa cánh đồng ở Bethlehem. Và chỉ có các mục đồng là những người đầu tiên biết đến biến cố lịch sử thánh đức giữa hào quang ánh sáng của các Thiên Thần Chúa hiện đến báo tin cho: “ Các Bạn đừng sợ, đây ta mang đến cho các Bạn một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ.”
Trong đời sống đức tin xưa nay không biết bao nhiêu lần chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh và đã nghe đọc đi đọc lại. Nhưng đã đón nhận tin mừng này như thế nào?
Tin mừng độc nhất này chúng ta đã nghe, đã đọc. Dẫu vậy nó không mấy lưu lại ở trong tai nghe, cùng cả trong trí óc. Vì tin mừng này là một tin mừng cho tâm hồn trái tim tình yêu mến. Tin mừng mang đến âm vang chạm vào trái tim tâm hồn sâu thẳm con người. Và từ bình điện đó cũng lan toả vào tâm trí suy nghĩ và liên kết với lòng tin. Tin mừng Chúa giáng sinh sâu xa hơn là tin mừng tình yêu, mà Thiên Chúa nới tỏ với con người trần gian.
Hiện tại những gì đang xảy diễn ra trên trái đất nơi chúng ta đang sinh sống là những chao đảo lộn xộn mất trất tự, tàn phá đe dọa sự sống: chiến tranh bên Ukraina, bên vùng Gaza, bên nước Libano, bên nước Syria, đoàn l;ũ những người di cư tìm đường đi tỵ nạn qua đường đi bộ, qua đường vượt biển cả nguy hiểm, cảnh khủng hoảng khí hậu tàn phá thiên nhiên, khủng hoảng về năng lượng, cảnh nghèo đó bệnh tật lan rộng nơi các đất nước trên thế giới, và cả trong đời sống tinh thần của Giáo hội Công Giáo gặp khủng hoảng nơi nhiều đất nước nhất là bên Âu châu đang vướng mắc vào cơn chao đảo đảo khủng hoảng như mất định hướng. Đó là thực tế đời sống ngày hôm nay ngay giữa ngày mừng lễ Hài nhi Giêsu giáng sinh, Con Thiên Chúa, được xưng tụng là Đấng Cứu Thế cho trần gian.
Và cảnh chao đảo khủng hoảng, mất trật tự, đe dọa cũng đã diễn xảy ra trong xã hội thời xưa lúc Chúa Giêsu sinh ra, cách đây hơn hai ngàn năm: chiến tranh, sự thống trị chèn ép, đời sống xã hội không có công bình, bị áp bức bóc lột. Vì lúc đó đế quốc Roma thống trị từ vùng Âu châu lan sang cả các đất nước bên vùng Trung Đông, trong đó cả nước Do Thái, nơi là quê hương sinh ra, lớn lên của Chúa Giêsu Kitô. Theo sử sách ghi lại một phần tư dân chúng trong đế quốc Roma lúc thời đó sống trong hoàn cảnh đời làm nô lệ cho những lớp quyền qúi quyền lực.
Sách các Tiên tri và những nhà viết lịch sử viết để lại diễn tả chính trong hoàn cảnh đó con người rất mong đợi sự cứu chuộc, sự giải phóng, sự an ủi chữa lành.
Chính sự trông mong chờ đợi như thế, thời sự ngày hôm nay con người chúng ta đang có trong trái tim tâm hồn. Một sự trông mong chờ đợi cho toàn thế giới, cho khung cảnh thế giới nhỏ bé riêng tư của mình được chữa lành, có bình an, có công bằng chính trực.
Lễ mừng Hài nhi Giêsu giáng sinh trên trần gian là câu trả lời cho sự trông mong chờ đợi của con người, cho nhu cầu đời sống cần có bằng an trong tâm hồn và bên ngoài xã hội. Đó là điều diễn tả gía trị cao cả của Kitô giáo chúng ta. Như ca đoàn các Thiên Thần Chúa trên cánh đồng Bethlehem, nơi hài nhi Giêu sinh ra trong chuồng xúc vật, xướng hát lời ca tụng mừng kính: Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao thẳm và bình an dưới trần gian cho con người.” ( Lc 2,14).
Những người mục đồng hôm đó là những người đầu tiên đã nghe lời các Thiên Thần loan báo ca hát về biến cố lịch sử thánh sự sinh ra của Hài Nhi Giêsu trong hang chuồng xúc vật. Họ đã hiểu và tin tưởng vào tin mừng đó. Và với tình yêu họ đã rủ nhau: ” nào ta cùng đến Bethlem, xem sự thể tận mắt, rồi tường thuật loan báo rộng rãi cho mọi người cùng biết đến mầu nhiệm lạ lùng trong đêm thánh vô cùng: Thiên Chúa giáng sinh làm người là một hài nhi.
Những người mục đồng, có thể nói được, họ là những Kitô hữu đầu tiên. Vì họ đã nhận ra ngay nơi ngày Chúa giáng sinh Hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, và họ đã cảm nhận nơi hài nhi Giêsu tình yêu của Thiên Chúa.
Những người mục đồng này là những người thuộc về lễ giáng sinh. Vì họ không chỉ giữ lại cho riêng mình biến cố mầu nhiệm giáng sinh lạ lùng mà họ đã nghe, đã thấy, nhưng đã tường thuật kể tiếp loan truyền cho mọi người cùng biết đến.
Những người mục đồng này là những con người có đời sống đơn giản. Phải, khó nghèo nàn thuộc vào lớp bần cùng như sống bên lề ngoài xã hội xa hoa quyền lực. Nhưng họ đã có can đảm, loan truyền tình yêu Thiên Chúa trong một xã hội phức tạp đầy nguy hiểm, cùng trong toàn thế giới đế quốc Roma tôn thờ nhiều thần thánh khác nhau.
Những người mục đồng này đã có đủ năng lượng sức mạnh cảm nhận ra được tin mừng Chúa Giêsu giáng sinh, và qua đó tìm thấy nơi đó bản chất con người của chính mình. Họ đã hiểu ra, hài nhi sinh ra trong hang chuồng xúc vật đó là câu trả lời cho những thắc mắc về đời sống.
Câu trả lời đó xảy ra năm xưa ngày hôm qua, và cũng vẫn có gía trị cho ngày hôm nay. Vì câu trả lời đó có năng lượng sức mạnh làm thay đổi lòng con người, và biến đổi từ hận thù áp bức sang thành tình yêu lòng quảng đại nhân ái.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khuôn mặt địa lý nơi Chúa giáng sinh: Bethlehem
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
00:38 23/12/2024
Khuôn mặt địa lý nơi Chúa giáng sinh: Bethlehem
Phúc âm Thánh sử Luca (2,15/20) tường thuật chi tiết quang cảnh thi vị, hoàn cảnh nghèo khó thương tâm hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa sinh ra làm người. Ngoài cha mẹ hài nhi Giêsu. Mẹ Maria và thánh Giuse, còn có các mục đồng canh giữ đàn xúc vật nơi đó đã chứng kiến quang cảnh hài nhi Giêsu sinh ra làm người.
Khi nghe tin Thiên Thần Chúa báo tin Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cứu thế sinh ra nơi hang chuồng xúc vật, họ liền bảo nhau: Nào chúnng ta cùng đi đến Bethlehem!( Lc 2,15)
Câu nói của họ bây trở thành thời danh, thành lời rủ nhau đến kính viếng thờ lạy hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa nơi hang đá giáng sinh, nơi Thánh đường, cùng trẩy đi hành hương đến Bethlehem, nơi ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu đã sinh ra trên trần gian.
Câu nói này của họ đã trở thành nguồn cảm hứng đề tài cho bản nhạc thánh ca thời danh mừng Chúa giáng sinh: Transeamus usque Bethlehem! Bằng tiếng Latinh ở vùng miền Schlesien bên nước Balan.
Bethlehem ở phía nam nước Do Thái, cách thủ đô Jerusalem nước Do Thái hơn kém 9 cây số. Địa danh Bethlehem được nói đến trong Kinh Thánh từ thời cựu ước có hơn 5000 năm lịch sử. Nơi đây là quê hương của Vua David, tổ tiên của Chúa Giêsu Kitô. Cũng tại nơi đây David được Tiên tri Samuel xức dầu phong làm vua dân Do Thái.Ông đã trở thành niềm hy vọng lớn cho dân Do Thái.
Địa danh này trong qúa khứ đã trải qua nhiều lần bị những sức mạnh quyền thế chính trị quân sự ngoại bang khác nhau thay đổi nhau thống trị. Nguyên thủy Bethlehem là một địa điểm nhỏ với nhiều làng chung quanh liền sát nhau.
Và Bethlehem dần trở thành nổi tiếng, cùng dần to lớn rộng thêm ra về diện tích củng như về dân số cư ngụ cùng kinh tế chính trị nữa, vì là nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã sinh ra trước đây hơn hai ngàn năm.
Nhưng làm sao Chúa Giêsu lại mở mắt chào đời ở Bethlehem, đang khi cha mẹ, mẹ Maria và thánh Giuse, sinh sống ở Nazareth miền Galilea phía Bắc nước Do Thái, và chính Ngài được gọi là người Nazareth, vì đã sinh sống lớn lên ờ Nazareth?
Người đã thúc đẩy, hay nói khác đi, làm nẩy sinh biến cố Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem là hoàng đế Augusto của đế quốc Roma thời lúc đó (*23.09.63 trước Chúa giáng sinh, và † 19.08. sau Chúa giáng sinh ở Nola vùng Neapel). Ông ra chiếu chỉ làm cuộc điều tra dân số bắt dân chúng trong toàn đế quốc phải về quê quán cũ nơi sinh ra khai tên vào sổ bộ khai thuế. Thánh Giuse, trưởng gia đình Chúa Giêsu, thuộc dòng tộc David, quê quán ở Bethlehem. Nên ông phải đưa Maria, người vợ đang mang thai hài nhi Giêsu trong cung lòng đi xuống miền nam đến Bethlehem khai tên mình.
Không ngờ biến cố quyền hành chính trị của hoàng đế Augusto lại xảy diễn ra trùng hợp với biến cố thần thánh tôn giáo. Vào đúng thời điểm Giuse và Maria đến Bethlehem cũng là lúc hài nhi Giêsu trong cung lòng mẹ Maria, theo chu kỳ thiên nhiên do Thiên Chúa ấn định sắp đặt, đến ngày tháng mở mắt chào đời trên trần gian.
Và càng không ngờ hơn nữa, hoàng đế Augusto qua chiếu chỉ làm cuộc điều tra dân số lại trở thành, mà không ai biết, dụng cụ cách thế Thiên Chúa quan phòng dùng đến cho việc giáng sinh của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, ngay đúng tại quê hương lịch sử của tổ tiên dòng dõi vua David, thành Bethlehem.
“Cuộc điều tra dân số trong khắp cả thiên hạ thể hiện một sợi chỉ xuyên suốt lịch sử quá dựa vào sức người: đó là cuộc tìm kiếm quyền lực và sức mạnh thế gian, danh tiếng và vinh quang, đo lường mọi thứ bằng thành công, kết quả, con số và số liệu, một thế giới bị ám ảnh bởi thành tích. Tuy nhiên, cuộc điều tra dân số cũng thể hiện con đường của Chúa Giêsu, Đấng đến tìm kiếm chúng ta qua xác thịt. Ngài không phải là vị thần thành tựu mà là vị thần Nhập thể. Ngài không xóa bỏ sự bất công từ trên cao bằng sự phô trương quyền lực, mà từ bên dưới bằng sự thể hiện tình yêu thương. Ngài không xuất hiện với sức mạnh vô hạn, mà hạ cố giáng trần nơi những giới hạn chật hẹp của cuộc đời chúng ta. Ngài không xa lánh những yếu đuối của chúng ta mà biến chúng thành của riêng Ngài.” ( Đức Thánh Cha Phanxicô).
Chúa Giesu sinh ra mở mắt chào đời ngay tại quê hương lịch sử của tổ tiên David mình. Nhưng gia đình hài nhi Giêsu lại thành người lang thang vô gia cư. Ở Bethlehem, thành nhỏ thời lúc kkiểm tra dân số, có đông người kéo về khai tên, nên các quán trọ đều qúa tải đầy chật chỗ người vào trọ. Không có quán nhà trọ, thế là ông bà phải kéo nhau ra một hang chuồng xúc vật ở ngài cánh đồng trú trọ nhờ giữa đàn xúc vật. Ngay tại nơi nghèo hèn nhất hài nhi Giesu, Đấng cứu thế, Con Thiên Chúa, đã chào đời. Hang chuồng xúc vật trên cánh đồng Bethlehem thế là trở thành địa điểm của biến cố thần thánh linh thiêng diễn xảy ra.
Cho dẫu cảnh sinh ra qúa thấp hèn, nhưng các Thiên Thần Chúa từ trời cao hiện xuống ca hát loan báo sứ điệp tin mừng mầu nhiệm thần thánh cao cả: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an cho trần gian! Cho các người mục đồng là những con người đơn giản chăm sóc đàn thú vật của họ ngoài cánh đồng.
Các người mục đồng được Thiên Thần loan tin đã rủ nhau: Transeamus usque Bethlehem - Nào cùng ta cùng đi tới Bethlehem!
Họ nghe lời Thiên Thần chỉ bảo, rồi theo sự hướng dẫn của tiếng nói trừ trong trái tim tâm hồn lần tìm đến hang chuồng nơi gia đình hài nhi Giesu trú ngụ. Và họ đã nhìn thấy đúng như lời Thiên Thần chỉ dẫn: mẹ Maria, Thánh Giuse và hài nhi Giesu. Họ vui mừng ca tụng Thiên Chúa, vì đã được là những nhân chứng tiên khởi cho biến cố mầu nhiệm thần thánh trên trần gian.
Sau đó họ trở về đời sống chăn nuôi đàn thú vật ngày thường nay đây mai đó trong âm thầm lặng lẽ.
Bethlehem thời xa xưa là một địa danh nhỏ không mấy được biết tới. Nhưng lại là địa điểm của lịch sử thánh. Vì Chúa Giêsu sinh ra nơi đây. Bethlehem vì thế trở thành địa điểm được biết đến nhiều. Phải, nó trở thành nổi tiếng, trở thành địa điểm hành hương thiêng liêng có đền thờ hang chuồng Chúa Giesu sinh ra.
Hài nhi Giesu, Đấng cứu thế là Con Thiên Chúa, đã chọn khung cảnh đời sống nghèo hèn ở Bethlehem mở mắt chào đời trong hang chuồng xúc vật, giữa đàn xúc vật với các người mục đồng nghèo khó.
Và những nhà thông thái ngành thiên văn, quen gọi là Ba Vua, là những người trí thức có địa vị sang trọng được kính trọng nể vì trong xã hội, cũng đã lặn lội từ phương trời xa xôi Đông Phương, tìm đến Bethlehem, bái chào hài nhi Giesu trong hang chuồng xúc vật nghèn hèn.
Bethlehem theo nguyên ngữ ẩn chứa ý nghĩa: Nhà làm bánh mì! Nơi Bethlehem Chúa Giêsu đã sinh ra, và sau này đi rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài đã nói về mình: Thầy là bánh sự sống( Phúc âm Thánh Gioan 6,35,48), và “ Ta là Manna từ trời xuống.(Gioan 6,51).
Bethlehem hình thể địa lý nơi chốn Chúa Giêsu sinh ra. Bethlehem tâm linh thiêng liêng: Bánh sự sống thần linh Chúa Giêsu.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Phúc âm Thánh sử Luca (2,15/20) tường thuật chi tiết quang cảnh thi vị, hoàn cảnh nghèo khó thương tâm hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa sinh ra làm người. Ngoài cha mẹ hài nhi Giêsu. Mẹ Maria và thánh Giuse, còn có các mục đồng canh giữ đàn xúc vật nơi đó đã chứng kiến quang cảnh hài nhi Giêsu sinh ra làm người.
Khi nghe tin Thiên Thần Chúa báo tin Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cứu thế sinh ra nơi hang chuồng xúc vật, họ liền bảo nhau: Nào chúnng ta cùng đi đến Bethlehem!( Lc 2,15)
Câu nói của họ bây trở thành thời danh, thành lời rủ nhau đến kính viếng thờ lạy hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa nơi hang đá giáng sinh, nơi Thánh đường, cùng trẩy đi hành hương đến Bethlehem, nơi ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu đã sinh ra trên trần gian.
Câu nói này của họ đã trở thành nguồn cảm hứng đề tài cho bản nhạc thánh ca thời danh mừng Chúa giáng sinh: Transeamus usque Bethlehem! Bằng tiếng Latinh ở vùng miền Schlesien bên nước Balan.
Bethlehem ở phía nam nước Do Thái, cách thủ đô Jerusalem nước Do Thái hơn kém 9 cây số. Địa danh Bethlehem được nói đến trong Kinh Thánh từ thời cựu ước có hơn 5000 năm lịch sử. Nơi đây là quê hương của Vua David, tổ tiên của Chúa Giêsu Kitô. Cũng tại nơi đây David được Tiên tri Samuel xức dầu phong làm vua dân Do Thái.Ông đã trở thành niềm hy vọng lớn cho dân Do Thái.
Địa danh này trong qúa khứ đã trải qua nhiều lần bị những sức mạnh quyền thế chính trị quân sự ngoại bang khác nhau thay đổi nhau thống trị. Nguyên thủy Bethlehem là một địa điểm nhỏ với nhiều làng chung quanh liền sát nhau.
Và Bethlehem dần trở thành nổi tiếng, cùng dần to lớn rộng thêm ra về diện tích củng như về dân số cư ngụ cùng kinh tế chính trị nữa, vì là nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã sinh ra trước đây hơn hai ngàn năm.
Nhưng làm sao Chúa Giêsu lại mở mắt chào đời ở Bethlehem, đang khi cha mẹ, mẹ Maria và thánh Giuse, sinh sống ở Nazareth miền Galilea phía Bắc nước Do Thái, và chính Ngài được gọi là người Nazareth, vì đã sinh sống lớn lên ờ Nazareth?
Người đã thúc đẩy, hay nói khác đi, làm nẩy sinh biến cố Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem là hoàng đế Augusto của đế quốc Roma thời lúc đó (*23.09.63 trước Chúa giáng sinh, và † 19.08. sau Chúa giáng sinh ở Nola vùng Neapel). Ông ra chiếu chỉ làm cuộc điều tra dân số bắt dân chúng trong toàn đế quốc phải về quê quán cũ nơi sinh ra khai tên vào sổ bộ khai thuế. Thánh Giuse, trưởng gia đình Chúa Giêsu, thuộc dòng tộc David, quê quán ở Bethlehem. Nên ông phải đưa Maria, người vợ đang mang thai hài nhi Giêsu trong cung lòng đi xuống miền nam đến Bethlehem khai tên mình.
Không ngờ biến cố quyền hành chính trị của hoàng đế Augusto lại xảy diễn ra trùng hợp với biến cố thần thánh tôn giáo. Vào đúng thời điểm Giuse và Maria đến Bethlehem cũng là lúc hài nhi Giêsu trong cung lòng mẹ Maria, theo chu kỳ thiên nhiên do Thiên Chúa ấn định sắp đặt, đến ngày tháng mở mắt chào đời trên trần gian.
Và càng không ngờ hơn nữa, hoàng đế Augusto qua chiếu chỉ làm cuộc điều tra dân số lại trở thành, mà không ai biết, dụng cụ cách thế Thiên Chúa quan phòng dùng đến cho việc giáng sinh của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, ngay đúng tại quê hương lịch sử của tổ tiên dòng dõi vua David, thành Bethlehem.
“Cuộc điều tra dân số trong khắp cả thiên hạ thể hiện một sợi chỉ xuyên suốt lịch sử quá dựa vào sức người: đó là cuộc tìm kiếm quyền lực và sức mạnh thế gian, danh tiếng và vinh quang, đo lường mọi thứ bằng thành công, kết quả, con số và số liệu, một thế giới bị ám ảnh bởi thành tích. Tuy nhiên, cuộc điều tra dân số cũng thể hiện con đường của Chúa Giêsu, Đấng đến tìm kiếm chúng ta qua xác thịt. Ngài không phải là vị thần thành tựu mà là vị thần Nhập thể. Ngài không xóa bỏ sự bất công từ trên cao bằng sự phô trương quyền lực, mà từ bên dưới bằng sự thể hiện tình yêu thương. Ngài không xuất hiện với sức mạnh vô hạn, mà hạ cố giáng trần nơi những giới hạn chật hẹp của cuộc đời chúng ta. Ngài không xa lánh những yếu đuối của chúng ta mà biến chúng thành của riêng Ngài.” ( Đức Thánh Cha Phanxicô).
Chúa Giesu sinh ra mở mắt chào đời ngay tại quê hương lịch sử của tổ tiên David mình. Nhưng gia đình hài nhi Giêsu lại thành người lang thang vô gia cư. Ở Bethlehem, thành nhỏ thời lúc kkiểm tra dân số, có đông người kéo về khai tên, nên các quán trọ đều qúa tải đầy chật chỗ người vào trọ. Không có quán nhà trọ, thế là ông bà phải kéo nhau ra một hang chuồng xúc vật ở ngài cánh đồng trú trọ nhờ giữa đàn xúc vật. Ngay tại nơi nghèo hèn nhất hài nhi Giesu, Đấng cứu thế, Con Thiên Chúa, đã chào đời. Hang chuồng xúc vật trên cánh đồng Bethlehem thế là trở thành địa điểm của biến cố thần thánh linh thiêng diễn xảy ra.
Cho dẫu cảnh sinh ra qúa thấp hèn, nhưng các Thiên Thần Chúa từ trời cao hiện xuống ca hát loan báo sứ điệp tin mừng mầu nhiệm thần thánh cao cả: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an cho trần gian! Cho các người mục đồng là những con người đơn giản chăm sóc đàn thú vật của họ ngoài cánh đồng.
Các người mục đồng được Thiên Thần loan tin đã rủ nhau: Transeamus usque Bethlehem - Nào cùng ta cùng đi tới Bethlehem!
Họ nghe lời Thiên Thần chỉ bảo, rồi theo sự hướng dẫn của tiếng nói trừ trong trái tim tâm hồn lần tìm đến hang chuồng nơi gia đình hài nhi Giesu trú ngụ. Và họ đã nhìn thấy đúng như lời Thiên Thần chỉ dẫn: mẹ Maria, Thánh Giuse và hài nhi Giesu. Họ vui mừng ca tụng Thiên Chúa, vì đã được là những nhân chứng tiên khởi cho biến cố mầu nhiệm thần thánh trên trần gian.
Sau đó họ trở về đời sống chăn nuôi đàn thú vật ngày thường nay đây mai đó trong âm thầm lặng lẽ.
Bethlehem thời xa xưa là một địa danh nhỏ không mấy được biết tới. Nhưng lại là địa điểm của lịch sử thánh. Vì Chúa Giêsu sinh ra nơi đây. Bethlehem vì thế trở thành địa điểm được biết đến nhiều. Phải, nó trở thành nổi tiếng, trở thành địa điểm hành hương thiêng liêng có đền thờ hang chuồng Chúa Giesu sinh ra.
Hài nhi Giesu, Đấng cứu thế là Con Thiên Chúa, đã chọn khung cảnh đời sống nghèo hèn ở Bethlehem mở mắt chào đời trong hang chuồng xúc vật, giữa đàn xúc vật với các người mục đồng nghèo khó.
Và những nhà thông thái ngành thiên văn, quen gọi là Ba Vua, là những người trí thức có địa vị sang trọng được kính trọng nể vì trong xã hội, cũng đã lặn lội từ phương trời xa xôi Đông Phương, tìm đến Bethlehem, bái chào hài nhi Giesu trong hang chuồng xúc vật nghèn hèn.
Bethlehem theo nguyên ngữ ẩn chứa ý nghĩa: Nhà làm bánh mì! Nơi Bethlehem Chúa Giêsu đã sinh ra, và sau này đi rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài đã nói về mình: Thầy là bánh sự sống( Phúc âm Thánh Gioan 6,35,48), và “ Ta là Manna từ trời xuống.(Gioan 6,51).
Bethlehem hình thể địa lý nơi chốn Chúa Giêsu sinh ra. Bethlehem tâm linh thiêng liêng: Bánh sự sống thần linh Chúa Giêsu.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Về Bản Thánh ca Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời
Nguyễn Đức Cung
14:56 23/12/2024
VỀ MỘT BẢN THÁNH CA BẤT HỦ MÙA GIÁNG SINH: BÀI “NỬA ÐÊM MỪNG CHÚA RA ÐỜI”...
Cho đến nay thời điểm xuất hiện của nền tân nhạc Việt Nam vẫn còn chưa được giới nghiên cứu lịch sử âm nhạc xác định một cách rõ rệt. Có người (như nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, nhóm Paris By Night) cho rằng nguồn gốc ấy bắt nguồn từ bản vọng cổ nổi tiếng có tên Dạ Cổ Hoài Lang của ông Sáu Lầu viết từ năm 1916, nhưng luận cứ này không vững.
Theo cố nhạc sĩ Lê Thương chủ trương - năm chính thức xuất hiện của phong trào âm nhạc mới là tháng 3-1938 khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên từ Sài Gòn ra hô hào tại đất Bắc qua việc ông được Thống đốc Nam Kỳ thời đó là Rivoal trợ cấp để đi diễn thuyết về âm nhạc cải cách tại Bắc hà. Tuy nhiên vẫn có người như giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ thì “tân nhạc viết solfège đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn do một tu sĩ Công Giáo người Việt Nam viết những bài hát ca ngợi Ðức mẹ từ năm 1911”. [1]
Trong thập niên đầu của thế kỷ 20 trước đây, phong trào thánh nhạc Việt Nam ra đời với sự xuất hiện của nhiều bài ca Công Giáo vốn được coi là những tư liệu để chứng minh rằng có thể đây là khởi nguyên của nền âm nhạc Việt Nam chăng? Vào thời điểm đó, một bản thánh ca bất hủ được coi là một sáng tác kiệt xuất mà nhiều giáo xứ trước đây ở Trung, Nam hay Bắc mỗi khi mùa Giáng Sinh về cũng đều chọn làm bài hát chính trong thánh lễ hoặc trong các hoạt cảnh văn nghệ, đó là bài “Nửa Ðêm Mừng Chúa Ra Ðời”, do hai linh mục Phaolồ Ðoàn Quang Ðạt (1877-1956) và Gabriel Long là đồng tác giả. Về cuộc đời của cha Gabriel Long chúng tôi chưa có tư liệu để trình bài về tiểu sử của ngài chỉ biết cha Gabriel Long là một vị nhạc sư có lẽ dạy ở trong Tiểu chủng viện Sài Gòn trong những năm đầu của thế kỷ 20 và Linh mục Phaolồ Ðoàn Quang Ðạt là học trò của ngài.
Nếu trong cả một rừng nhạc xuân của Miền Nam trước năm 1975, bản Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Ðình Chương được nhà văn Trần Doãn Nho gọi là bản quốc ca [2] nghĩa là không thể thiếu nó trong tất cả các buổi văn nghệ mừng Xuân, và nếu không hát bài đó thì mất đi nửa cuộc vui thì bài “Nửa Ðêm Mừng Chúa Ra Ðời” của cha Gabriel Long và cha Phaolồ Ðạt là đỉnh cao của nền thánh nhạc Việt Nam mùa Giáng sinh, cũng mang một ý nghĩa từa tựa như vậy mà không thể bất cứ một bản nhạc do nhạc sĩ Công Giáo Việt Nam nào sáng tác sau này chiếm cứ hay xô ngã được chỗ đứng trọng yếu của nó trong lòng những người say mê nhạc giáng sinh.
Thuở nhỏ sống tại giáo xứ Tam Tòa Ðồng Hới (Quảng Bình) những năm trước khi có hiệp định Genève chia đôi đất nước năm 1954, mỗi dịp lễ Giáng Sinh vào thời tiết rất lạnh, tôi thường theo gia đình đi dự lễ nửa đêm và vẫn được nghe bản thánh nhạc tuyệt vời này...
· 1.- Chân dung vị linh mục nhạc sĩ ở đầu nguồn suối nhạc thánh ca.
Nói rằng hai linh mục Phaolồ Ðạt và Gabriel Long là những nhạc sĩ tiên khởi của nền âm nhạc Việt Nam nói chung và thánh nhạc nói riêng là một lời nói không ngoa chút nào. Chắc chắn sáng kiến sử dụng nhạc lý và ký âm pháp của nền âm nhạcTây phương vốn được dạy trong các trường dòng, chủng viện và dòng tu Việt Nam đã ảnh hưởng không ít đến các nhạc sĩ Việt Nam và dòng nhạc mệnh danh là nhạc tiền chiến. Ðiều này cũng chứng minh rằng trong lãnh vực văn hóa đạo Công Giáo đã đóng góp nhiều công sức của mình vào kho tàng tinh thần quý giá của Dân tộc trong hành trình đức tin.
Theo nhà sử học Lê Ngọc Bích (1937-2009), “Linh mục Phaolô Ðoàn Quang Ðạt sinh năm 1877 tại làng Bình Sơn (Lái Thiêu) ngày nay thuộc xã An Sơn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tuy sinh quán tại Bình Sơn – Lái Thiêu nhưng quê quán tổ phụ gốc từ Thừa Thiên, di dân vào Nam cuối triều Gia Long hoặc đầu triều Minh Mệnh. Dòng họ Ðoàn của cha Phaolô Ðạt theo đạo Công Giáo từ lâu đời và có người làm quan trong triều đình Huế. Có lẽ vào đầu triều Minh Mạng, nhà vua gay gắt với đạo Công Giáo, cho nên nhiều người dòng họ Ðoàn đã theo dòng người Công Giáo chạy vào Nam trốn tránh cơn bắt đạo, tìm cuộc sống tự do để giữ đạo, cuộc sống tự do trong muôn vàn gian khổ có thể bỏ xác ở những vùng chướng khí, ác địa, những vùng gò nỗng cây cối um tùm đầy rắn dữ, cọp beo ma thiêng nước đôc...” [3] Ở Thừa Thiên, tại làng An Truyền cũng gọi làng Chuồn có dòng họ Ðoàn với hai anh em nổi tiếng qua biến cố Giặc Chày Vôi ở Huế thời Tự Ðức với người anh tên Ðoàn Hữu Trưng và em là Ðoàn Hữu Trực cũng gọi Ðoàn Tư Trực. Họ Ðoàn này có gốc ở tỉnh Quảng Bình gọi Chuồn gốc và họ Ðoàn ở làng An Truyền gọi là Chuồn ngọn [4]. Nếu tư liệu của Lê Ngọc Bích cho rằng dòng họ Ðoàn của linh mục Ðoàn Quang Ðạt có người làm quan ở Huế thì biết đâu trong số những vị đó lại có bà con liên hệ với hai anh em Ðoàn Hữu Trưng – Ðoàn Hữu Trực. Và vì biến cố Giặc Chày Vôi mà nhiều người bị án tru di tam tộc trong đó có dòng họ Ðoàn nên họ phải tìm cách trốn vào Miền Nam?
Cũng theo nhà sử học Lê Ngọc Bích, “Người họ Ðoàn chạy vào Miền Nam có thể số đông, cho nên lúc đầu định cư khai khẩn ở vùng Lái Thiêu, sau đó trong thời bắt đạo quá gay gắt thì phân tán ra các vùng phía Ðông phía Tây của đất Nam Kỳ Lục tỉnh. Ðiều này, ta có thể thấy rõ nét: Linh mục Ðoàn Công Quí (Thánh Tử Ðạo) sinh tại Búng (Thuận An, Sông Bé ngày nay), còn người cháu gọi bằng chú là linh mục Ðoàn Công Triệu thì sinh tại Bình Sơn. Còn linh mục Ðoàn Thanh Xuân thì sinh quán tại Lương Hòa (Long An). Qua vài nét về dòng họ Ðoàn như trên, còn cho ta thấy gia tộc của cha Phaolô Ðạt có được nhiều người làm linh mục, là một gia tộc có một nền móng đạo hạnh Công Giáo sâu xa bền vững, có được một vị hiển thánh linh mục Tử Ðạo: Thánh Ðoàn Công Quí.”[5] Giống tốt thì sinh cây tốt cho nên tất cả tinh hoa đạohạnh của các bậc tiền bối đã quy tụ vào tài năng của vị linh mục tác giả bài thánh ca bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” mà chúng ta sẽ đề cập đến sau nhưng trước tiên cần biết qua quá trình tu đức, công tác mục vụ và sáng tác thánh nhạc của cha Phaolô Ðạt.
Thuở nhỏ, cậu Phaolô Ðạt đã đáp lại ơn gọi khi được nhận vào Tiểu Chủng Viện Sài Gòn và đã tỏ ra có tư chất thông minh nhất là có năng khiếu về âm nhạc trong những năm theo học các lớp nhỏ. Lúc bấy giờ linh mục Phaolô Nguyễn Văn Qui là cha giáo tại Tiểu chủng viện, một vị giáo sư thông minh và có năng khiếu âm nhạc, đã lưu ý đến kỹ năng âm nhạc của cậu Ðạt nên tận tình hướng dẫn nhạc lý, kỹ thuật hòa âm, cách sử dụng một số nhạc khí căn bản của Tây Phương như Harminium, Piano, Violon v.v... cho cậu. Cha Qui cũng giúp cậu dịch các bài ca vịnh Trái Tim Chúa Giêsu và ca vịnh Ðức Mẹ từ tiếng La Tinh sang Việt ngữ ngắn gọn và phổ nhạc theo nhịp điệu riêng biệt, làm thành hai quyển : một quyển “Ca Vịnh Trái Tim” và một quyển “Ca Vịnh Ðức Mẹ”. Năm 1913, nhà in Tân Ðịnh xuất bản cả hai quyển nói trên, có in cả nốt nhạc. Nhà in Tân Ðịnh vốn có tên Imprimerie de la Mission là cơ quan xuất bản kỳ cựu nhất Việt Nam của Ðịa phận Sài Gòn vốn đã in rất nhiều sách báo về tôn giáo và văn hóa, có cơ sở ấn loát tại nhà thờ Tân Ðịnh đường Hai Bà Trưng, Sài Gòn.
Nghe những bài hát ca vịnh của Thầy Phaolô Ðạt, linh mục Bề Trên Chủng viện Ernest vốn là một người giỏi dương cầm cũng phải khen ngợi : “Một lối nhạc vừa Ðạo đức vừa Dân tộc.” Cha Gabriel Long, một nhạc sư lúc bấy giờ ở Sài Gòn cũng khen rằng: “Nhạc của Phaolô Ðạt thật ngọt ngào say mến, đi sát với tinh thần của mỗi bài hát...” Có lẽ câu nói được thường xuyên nhắc tới “ Hát bằng hai lần cầu nguyện” (của Thánh Augustin) cũng là lời khích lệ mọi người tu sĩ, giáo dân trong cuộc sống tinh thần hằng ngày.
Ngày 23-9-1911, Thầy Phaolô Ðoàn Quang Ðạt được Ðức Giám Mục Lucien Mossard (tên VN là Mão) truyền chức linh mục tại nhà thờ Ðức Bà Chính Tòa Sài Gòn. Sau khi được thụ phong chức thánh, linh mục Phaolô dạy học tại Tiểu chủng viện Sài Gòn trong gần hai thập niên, đem kiến thức truyền thụ lại cho các thế hệ đàn em, nhất là phát triển kỹ năng sáng tác thánh nhạc của mình. [6] Theo tư liệu của Trần Nhật Vy, sau khi chịu chức, linh mục Ðạt làm Thư ký Tòa Tổng giám mục Sài Gòn, rồi linh mục phụ tá nhà thờ Tân Ðịnh từ năm 1920-1933 và về phụ trách nhà thờ Bà Rịa từ 1933-1949.
Năm 1933 làm cha sở giáo xứ Ðất Ðỏ (Bà Rịa, 1933-1949), linh mục Phaolô đã có sáng kiến tổ chức sinh hoạt giáo xứ rất ngoạn mục và có nhiều ý nghĩa sâu xa như tổ chức hoạt cảnh giáng sinh với cuộc rước tượng Chúa Hài Ðồng vòng quanh nhà thờ, hát những bài ca giáng sinh La tinh rồi sau cùng ca đoàn cử lên bài hợp xướng “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” do ngài sáng tác và tập dượt với phần thánh lễ kết thúc. Có tư liệu cho rằng khi làm cha sở Bà Rịa, cha Phaolô Ðạt thường xuyên đích thân tổ chức các buổi học giáo lý vào mỗi chiều Chúa Nhật, giải thích các lễ nghi, ý nghĩa các phép bí tích và kinh đọc hằng ngày. Cha xây dựng thói quen đánh chuông “Truyền tin” – gọi là “Nhật một” mỗi ngày sáng, trưa, tối. Ngài cũng lập thói quen tốt giật chuông “báo tử” đọc kinh cầu cho linh hồn người vừa qua đời trong họ đạo. [7]. Thật ra lối đọc kinh Truyền Tin (Angelus) có từ lâu bên Âu châu nếu ta theo dõi một bức danh họa của Rembrand vẽ hai cặp vợ chồng của một nông dân đang làm việc ngoài đồng đang giữa trưa nghe tiếng chuông nhà thờ đã đứng lên kính cẩn đọc kinh nhớ về Thiên Chúa, thì sáng kiến của cha Phaolô cũng chỉ là tuân thủ theo một tập quán tôn giáo lâu đời ở Việt Nam rất đáng phục hoạt mà thôi.
Ngày 22-11-1933, khi 56 tuổi,cha Ðoàn Quang Ðạt được thuyên chuyển về giáo xứ Bà Rịa với cái đầu bạc trắng và bệnh hen suyễn khá nặng. Cha phải theo chế độ ăn uống kiêng cử nhiệm nhặt để tránh cơn bệnh hành hạ cha suốt ngày đêm. Tuy bệnh tình nhưng cha vẫn không bao giờ bỏ việc dâng Thánh lễ và các công tác mục vụ khác.
Tháng 8 năm 1949, Ðức Cha Ðịa phận Sài Gòn Jean Cassaigne đưa cha về Chủng viện để dưỡng bệnh. Sau đó linh mục Giuse Thiên, cha sở Chí Hòa xin bề trên cho cha Ðạt về nhà hưu dưỡng các linh mục ở Chí Hòa.
Sáng ngày 21 tháng 2 năm 1956, Cha Ðạt dâng thánh lễ sáng, đến trưa cơn suyễn nổi lên quá mạnh khiến ngài không chịu nổi, đã tắt thở lúc 13 giờ trưa, thọ 79 tuổi, sau 45 năm phục vụ Chúa và dâng hiến những công trình tim óc cho nền Thánh nhạc Công Giáo. [8]
2.- Về bản thánh ca giáng sinh bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời”...
Linh mục Phaolô Ðoàn Quang Ðạt có một nếp sống rất khắc khổ, đạo đức, bị hen suyễn thường xuyên. Vốn là người đa tài thuộc nhiều lãnh vực như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, linh mục Ðạt được coi là tác giả thiết kế nhà thờ Biên Hòa hiện nay. [9] Những sáng tác của cha Phaolô Ðạt để lại tuy ít nhưng đều là những bài hát có chất lượng cao, kỹ thuật phong phú, điêu luyện có lẽ đã được sáng tác trong thời gian làm giáo sư Tiểu chủng viện Sài gòn giai đoạn 1911-1933. Ðó là 3 bài thánh ca:
- Nửa đêm mừng Chúa ra đời,
- Kinh nguyện Chúa Thánh Thần,
- Tôi kính lạy Chúa Giêsu.
Các bài thánh ca này hòa âm ba phần, tiết tấu dịu dàng, êm ái, không cầu kỳ, đúng tinh thần thánh nhạc. Các bài ca ngợi Chúa Giêsu và ca ngợi Ðức Mẹ được khắp nơi trong các nhà thờ giáo phận Sài Gòn hát lên trong thánh lễ.
Theo ông Nguyễn Văn Quí, “sở dĩ linh mục Ðoàn Quang Ðạt viết nhạc là vì những tác phẩm ca hát trong nhà thờ trước đây đều là nhạc nước ngoài và bằng tiếng La tinh, số đông giáo dân hát khôngm được. Chính vì vậy, ông Ðạt liền nghĩ ra cách dịch lại những bài hát này cho giáo dân hát. Nhưng những bài hát nhạ ngoại bằng tiếng Việt này vẫn khó hát. Cuối cùng, ông nghĩ viết hẳn những bài hát bằng tiếng Việt ký âm theo nhạc lý phương Tây. Còn linh mục Nguyễn Hữu Tấn – giám đốc Ðại chủng viện Sài Gòn – cho biết những bài hát của linh mục Ðạt rất khác với nhạc Tây, mà giống với vọng cổ của miền Nam hơn. Còn linh mục Ðỗ Xuân Quế, đặc trách về thánh nhạc của giáo phận Sài Gòn, cũng thừa nhận linh mục Ðạt “rất giỏi nhạc” và bài hát “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” của ông đến nay vẫn còn dùng”.
Linh mục Quế còn cho biết ông được nghe kể linh mục Ðạt đã nghiên cứu từng bước chân trâu bò đi trên đường để viết phần nhạc trong bài “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” và bài ca này ông đã nghe từ những năm 1930 khi còn ở miền Bắc... Thế nhưng cha Ðạt viết những bài hát ấy từ lúc nào? Theo tài liệu hiện có thì ít nhất ông đã viết những bài hát bằng tiếng Việt từ trước năm 1913. Trong tập nhạc “Ca ngợi rất thánh trái tim Đức Chúa Giêsu” in tại nhà in Imprimerie de la Mission (nhà in trong nhà thờ Tân Ðịnh) số 289 rue Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng) năm 1942 có ghi lời bạt của linh mục Phaolô Qui vào ngày 1-5-1913. Linh mục Qui mất vào năm 1914. Một tài liệu khác là cuốn kinh Mục lục Sài Gòn in năm 1899 có chép toàn bộ phần lời của bài ca “Nửa đêm mừng Chúa ra đời”, nhưng không có phần nhạc...” [8] Như vậy bài thánh ca bất hủ Nửa đêm mừng Chúa ra đời chính là bản tân nhạc đầu tiên của Việt Nam, xuất hiện ít nhất cũng từ năm 1899, do một linh mục sáng tác để ca tụng Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và ở cùng chúng ta (Emmanuel).
Cũng theo Lê Ngọc Bích, “Anh Lê Ðình Bảng, nhà thơ, nhà nghiên cứu thi ca, âm nhạc Công Giáo Việt Nam có ý kiến rằng: “(...) Theo nhận định của những nhà nghiên cứu về nhạc sử thì ngay từ năm 1910 ở Nam Bộ đã có những linh mục, thầy giảng, nữ tu và bổn đạo người Việt hát hoặc điều khiển được những bài hát 2, 3 bè khá thành thạo. Có người đã sử dụng nhuần nhuyễn các loại nhạc cụ như harmonium, piano, violon (...) Chúng tôi dựa vào một chứng từ cụ thể của nhà in Tân Ðịnh (Imprimerie de la Mission) năm 1942. Đó là 2 tập sách hát mang tên “Ca ngợi Rất thánh Trái tim Ðức Chúa Giêsu” và “Ca ngợi Ðức Bà Maria”. Có thể xác định thời điểm xuất hiện và tác giả của những bài thánh ca VN đầu tiên ấy qua phần giới thiệu do “linh mục bổn quốc” Phaolô Qui (1855-1914) cha sở họ đạo Cầu Bông viết ngày 1-5-1913 cho cả 2 tập sách này: “... Nguyên những bài ca trong sách này đã rút ra bởi những kinh (Latinh) Hội thánh quen đọc (...). Những ca ngợi ấy là của cha Tôma Ðoan, cha ở Huế và cha Phaolô Ðạt.” “Nổi tiếng nhất trong đó có bài “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” của cha Phaolô Ðoàn Quang Ðạt (1877-1956). Ðã có dư luận cho rằng bài này là bản thánh ca mang dáng dấp hợp xướng đầu tiên trong lịch sử Thánh nhạc Thánh ca Việt Nam? Chúng tôi chưa dám đoan quyết như thế, bởi chưa có đủ chứng cứ cụ thể. Chỉ trộm nghĩ, có lẽ cảm hứng từ những ca khúc về Giáng sinh như “Il est né le Divin Enfant”, “Les Anges dans nos campagnes”, “Puer natus est”, “Gloria in excelcis Deo”và đặc biệt xuất phát từ tâm tình vồn vã, sốt sắng và nhạy cảm của một người con Chúa ở quê hương miệt vườn xứ Búng, tác giả Ðoàn Quang Ðạt (...)”. “Bên cạnh giá trị về giai điệu và cung bậc mang âm hưởng dân tộc, còn phải kể tới giá trị về lời ca là toàn văn của bài kinh vãn cùng tên trong Sách kinh Mục lục của địa phận Sài Gòn, một pho bách khoa toàn thư đậm đặc thứ ngôn ngữ giàu hình tượng rất riêng của những người con Chúa ở phương Nam.” [10]
Trong đêm Thánh ca Giáng sinh tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo phận Sài Gòn tối 12-12-2010, ca đoàn giáo xứ Thị Nghè đã trình bày bản thánh ca “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” cùng với dàn nhạc dân tộc của các nghệ sĩ Nhạc viện Thành phố với sự điều khiển của linh mục Sỹ Tùng. Bản thánh ca này với giai điệu du dương, cung bậc dịu dàng mang âm hưởng dân tộc và lời hát tuy cổ xưa nhưng được sử dụng đúng chỗ, đúng cách đã mang đến cho tác phẩm giá trị vượt cả không gian xen lẫn thời gian cũng đáng được thưởng thức và chiêm nghiệm lại nguyên tác như sau:
Nửa đêm mừng Chúa ra đời. Bức khăn sạch vấn để nơi hang lừa.
Nửa đêm mừng Chúa ra đời. Cỏ rơm trải lót bơ thờ. Chút cỏ rơm bơ thờ.
Cỏ rơm trải lót bơ thờ. Mượn ấm bò lừa quỳ thở dâng hơi, quỳ thở dâng hơi.
Kiểng tinh soi sáng thâu đêm. (Soi thâu đêm) Kiểng tinh soi sáng thâu đêm.(Soi thâu đêm).
Chói lói giữa trời, nhỏ xuống Bê-Linh.
Thiên thần chín đấng chầu quanh, thiên thần chính đấng chầu quanh.
Tấu nhạc rập ràng, đờn hát, đờn hát xướng ca.
Vậy có ca rằng, rằng ca Thiên Chúa, rằng ca Thiên Chúa.
Ớ loài người ấy phúc lành bình an cho người vì cửa Thiên Ðàng rộng mở, Tang tình tình tang Thiên Ðàng rộng mở.
Tang tình tình tang Thiên Ðàng rộng mở.
Chúa cả ra ơn, ơn cả chữa đời.
Rằng: Hỡi chúng dân (Kìa trong hang đá nọ), tới xem điềm lạ.
Kìa trong hang đá, nọ trước lều tranh.
Rằng tính tình tang, Thánh Tiểu Hài sinh.
Thật ngôi linh tính tang tình là tình Thiên Chúa.
Nằm trong !máng cỏ bó bức khăn đơn.
Rằng: Bớ chúng ngươi! tới xem điềm lạ !
(Bay xem thì biết), Kìa trong hang đá, nọ trước lều tranh rằng tinh tình tinh Thánh Tiểu Hài sinh.
Thật ngôi linh tính thất tinh là tình Thiên Chúa.
Thiên thần vô số. Nhạc thổi rân. Thiên thần vô số. Nhạc thổi tung hô.”
Với một số danh từ cổ được sử dụng nơi đây như kiểng tinh (sao sáng, rất sáng), bơ thờ có nghĩa đơn sơ, hèn mọn, tình tang âm hưởng của những làn điệu dân ca, ớ, bớ là những tán thán từ đậm nét dân tộc cùng với những luồng nhạc khi mạnh mẽ như sóng gió để biểu lộ sự vui mừng, lúc chậm rãi kêu mời như tơ vàng óng ánh, bản thánh ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời với ba phần hòa âm nhịp nhàng,gắn bó, quyện khúc, nâng đỡ, tung hứng trong những tiết điệu say sưa, hấp dẫn bộc lộ cả cung lòng mến yêu diệu vợi như không thể nào nói lên hết được tâm tình của một người tín hữu mà nhà thơ Hàn Mặc Tử từng thống thiết say mơ:
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập
Cả Hàn giang, cả màu sắc thinh không
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước...
Khi tôi viết bài này thì cũng được biết bà Ngọc-Diệu vốn là một ca đoàn trưởng nhiều kinh nghiệm từng đóng góp lời ca tiếng hát của mình suốt gần 60 năm từ những ngày còn ở xứ đạo Tam Tòa, Ðồng Hới, Quảng Bình năm 1949-1950 cho đến giáo xứ Tam Tòa, Ðà Nẵng năm 1954 và sau năm 1975 đến nay còn tiếp tục giúp cho các ca đoàn của Giáo xứ Tân Hòa, Ða-Minh, Tổng Giáo Phận Sài Gòn hiện cũng đang đóng góp phần kỹ thuật cho các ca viên hát lại bản thánh ca bất hủ này tại giáo xứ Đa-Minh (Ba Chuông, Sài Gòn). Ðây là một nét trổi bật trong nghệ thuật thánh về nguồn thông qua suối nhạc mà công sức của hai linh mục Gabriel Long và Phao lô Ðạt cần được hậu thế ghi nhớ.
Ước mong hằng năm vào dịp lễ Giáng sinh, bài thánh ca “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” dù khó hát, khó tập vì đòi hỏi nhiều kỹ thuật và cố gắng của ca viên, sẽ được các ca đoàn trong mọi giáo xứ trên khắp miền đất nước Việt Nam cùng các cộng đoàn hải ngoại hát lên để nhớ về một bản thánh ca tuyệt tác của nền thánh nhạcViệt Nam tiên phong đi vào vườn hoa nghệ thuật của Dân Tộc, mở đường cho nền tân nhạc Việt Nam tiến lên, đồng thời cũng là để dâng lên Chúa Hài Nhi một tác phẩm xứng đáng là đại diện của nền thánh nhạc Việt nam có khả năng chen vai thích cánh với các bài ca bất hủ như Silent Night của Âu châu và Bắc Mỹ, Il est né le Divin Enfant của Pháp, bài Adeste Fideles của văn chương La tinh, bản Hội nhạc Thiên quốc của Thánh Alphonso, bài Feliz Navidad của các giáo hội Trung và Nam Mỹ...
CHÚ THÍCH:
1.- Trần Nhật Vy, Tân nhạc Việt Nam từ năm 1911?, Tuổi Trẻ Xuân Canh Thìn, 2000, trang 30.
2.- Trần Doãn Nho, Nhạc Xuân, Tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân năm 2005.
3.- Lê Ngọc Bích, Nhân Vật Công Giáo Việt Nam, Thế kỷ XVIII-XIX- XX, tài liệu lưu hành nội bộ, 2006, trang 501.
4.- Danh nhân Bình Trị Thiên, quyển 1, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1986, trg 128-129, dẫn theo Li Tana, Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế
- Xã hội Việt Nam, Nxb Trẻ, 1999, trang 34.
5.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 502.
6.- Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 502.
7.- Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 503
8.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 505.
9.-Trần Nhật Vy, bài đã dẫn.
10.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 504.
https://www.youtube.com/watch?v=ZCXiRpR
Cho đến nay thời điểm xuất hiện của nền tân nhạc Việt Nam vẫn còn chưa được giới nghiên cứu lịch sử âm nhạc xác định một cách rõ rệt. Có người (như nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, nhóm Paris By Night) cho rằng nguồn gốc ấy bắt nguồn từ bản vọng cổ nổi tiếng có tên Dạ Cổ Hoài Lang của ông Sáu Lầu viết từ năm 1916, nhưng luận cứ này không vững.
Theo cố nhạc sĩ Lê Thương chủ trương - năm chính thức xuất hiện của phong trào âm nhạc mới là tháng 3-1938 khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên từ Sài Gòn ra hô hào tại đất Bắc qua việc ông được Thống đốc Nam Kỳ thời đó là Rivoal trợ cấp để đi diễn thuyết về âm nhạc cải cách tại Bắc hà. Tuy nhiên vẫn có người như giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ thì “tân nhạc viết solfège đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn do một tu sĩ Công Giáo người Việt Nam viết những bài hát ca ngợi Ðức mẹ từ năm 1911”. [1]
Trong thập niên đầu của thế kỷ 20 trước đây, phong trào thánh nhạc Việt Nam ra đời với sự xuất hiện của nhiều bài ca Công Giáo vốn được coi là những tư liệu để chứng minh rằng có thể đây là khởi nguyên của nền âm nhạc Việt Nam chăng? Vào thời điểm đó, một bản thánh ca bất hủ được coi là một sáng tác kiệt xuất mà nhiều giáo xứ trước đây ở Trung, Nam hay Bắc mỗi khi mùa Giáng Sinh về cũng đều chọn làm bài hát chính trong thánh lễ hoặc trong các hoạt cảnh văn nghệ, đó là bài “Nửa Ðêm Mừng Chúa Ra Ðời”, do hai linh mục Phaolồ Ðoàn Quang Ðạt (1877-1956) và Gabriel Long là đồng tác giả. Về cuộc đời của cha Gabriel Long chúng tôi chưa có tư liệu để trình bài về tiểu sử của ngài chỉ biết cha Gabriel Long là một vị nhạc sư có lẽ dạy ở trong Tiểu chủng viện Sài Gòn trong những năm đầu của thế kỷ 20 và Linh mục Phaolồ Ðoàn Quang Ðạt là học trò của ngài.
Nếu trong cả một rừng nhạc xuân của Miền Nam trước năm 1975, bản Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Ðình Chương được nhà văn Trần Doãn Nho gọi là bản quốc ca [2] nghĩa là không thể thiếu nó trong tất cả các buổi văn nghệ mừng Xuân, và nếu không hát bài đó thì mất đi nửa cuộc vui thì bài “Nửa Ðêm Mừng Chúa Ra Ðời” của cha Gabriel Long và cha Phaolồ Ðạt là đỉnh cao của nền thánh nhạc Việt Nam mùa Giáng sinh, cũng mang một ý nghĩa từa tựa như vậy mà không thể bất cứ một bản nhạc do nhạc sĩ Công Giáo Việt Nam nào sáng tác sau này chiếm cứ hay xô ngã được chỗ đứng trọng yếu của nó trong lòng những người say mê nhạc giáng sinh.
Thuở nhỏ sống tại giáo xứ Tam Tòa Ðồng Hới (Quảng Bình) những năm trước khi có hiệp định Genève chia đôi đất nước năm 1954, mỗi dịp lễ Giáng Sinh vào thời tiết rất lạnh, tôi thường theo gia đình đi dự lễ nửa đêm và vẫn được nghe bản thánh nhạc tuyệt vời này...
· 1.- Chân dung vị linh mục nhạc sĩ ở đầu nguồn suối nhạc thánh ca.
Nói rằng hai linh mục Phaolồ Ðạt và Gabriel Long là những nhạc sĩ tiên khởi của nền âm nhạc Việt Nam nói chung và thánh nhạc nói riêng là một lời nói không ngoa chút nào. Chắc chắn sáng kiến sử dụng nhạc lý và ký âm pháp của nền âm nhạcTây phương vốn được dạy trong các trường dòng, chủng viện và dòng tu Việt Nam đã ảnh hưởng không ít đến các nhạc sĩ Việt Nam và dòng nhạc mệnh danh là nhạc tiền chiến. Ðiều này cũng chứng minh rằng trong lãnh vực văn hóa đạo Công Giáo đã đóng góp nhiều công sức của mình vào kho tàng tinh thần quý giá của Dân tộc trong hành trình đức tin.
Theo nhà sử học Lê Ngọc Bích (1937-2009), “Linh mục Phaolô Ðoàn Quang Ðạt sinh năm 1877 tại làng Bình Sơn (Lái Thiêu) ngày nay thuộc xã An Sơn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tuy sinh quán tại Bình Sơn – Lái Thiêu nhưng quê quán tổ phụ gốc từ Thừa Thiên, di dân vào Nam cuối triều Gia Long hoặc đầu triều Minh Mệnh. Dòng họ Ðoàn của cha Phaolô Ðạt theo đạo Công Giáo từ lâu đời và có người làm quan trong triều đình Huế. Có lẽ vào đầu triều Minh Mạng, nhà vua gay gắt với đạo Công Giáo, cho nên nhiều người dòng họ Ðoàn đã theo dòng người Công Giáo chạy vào Nam trốn tránh cơn bắt đạo, tìm cuộc sống tự do để giữ đạo, cuộc sống tự do trong muôn vàn gian khổ có thể bỏ xác ở những vùng chướng khí, ác địa, những vùng gò nỗng cây cối um tùm đầy rắn dữ, cọp beo ma thiêng nước đôc...” [3] Ở Thừa Thiên, tại làng An Truyền cũng gọi làng Chuồn có dòng họ Ðoàn với hai anh em nổi tiếng qua biến cố Giặc Chày Vôi ở Huế thời Tự Ðức với người anh tên Ðoàn Hữu Trưng và em là Ðoàn Hữu Trực cũng gọi Ðoàn Tư Trực. Họ Ðoàn này có gốc ở tỉnh Quảng Bình gọi Chuồn gốc và họ Ðoàn ở làng An Truyền gọi là Chuồn ngọn [4]. Nếu tư liệu của Lê Ngọc Bích cho rằng dòng họ Ðoàn của linh mục Ðoàn Quang Ðạt có người làm quan ở Huế thì biết đâu trong số những vị đó lại có bà con liên hệ với hai anh em Ðoàn Hữu Trưng – Ðoàn Hữu Trực. Và vì biến cố Giặc Chày Vôi mà nhiều người bị án tru di tam tộc trong đó có dòng họ Ðoàn nên họ phải tìm cách trốn vào Miền Nam?
Cũng theo nhà sử học Lê Ngọc Bích, “Người họ Ðoàn chạy vào Miền Nam có thể số đông, cho nên lúc đầu định cư khai khẩn ở vùng Lái Thiêu, sau đó trong thời bắt đạo quá gay gắt thì phân tán ra các vùng phía Ðông phía Tây của đất Nam Kỳ Lục tỉnh. Ðiều này, ta có thể thấy rõ nét: Linh mục Ðoàn Công Quí (Thánh Tử Ðạo) sinh tại Búng (Thuận An, Sông Bé ngày nay), còn người cháu gọi bằng chú là linh mục Ðoàn Công Triệu thì sinh tại Bình Sơn. Còn linh mục Ðoàn Thanh Xuân thì sinh quán tại Lương Hòa (Long An). Qua vài nét về dòng họ Ðoàn như trên, còn cho ta thấy gia tộc của cha Phaolô Ðạt có được nhiều người làm linh mục, là một gia tộc có một nền móng đạo hạnh Công Giáo sâu xa bền vững, có được một vị hiển thánh linh mục Tử Ðạo: Thánh Ðoàn Công Quí.”[5] Giống tốt thì sinh cây tốt cho nên tất cả tinh hoa đạohạnh của các bậc tiền bối đã quy tụ vào tài năng của vị linh mục tác giả bài thánh ca bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” mà chúng ta sẽ đề cập đến sau nhưng trước tiên cần biết qua quá trình tu đức, công tác mục vụ và sáng tác thánh nhạc của cha Phaolô Ðạt.
Thuở nhỏ, cậu Phaolô Ðạt đã đáp lại ơn gọi khi được nhận vào Tiểu Chủng Viện Sài Gòn và đã tỏ ra có tư chất thông minh nhất là có năng khiếu về âm nhạc trong những năm theo học các lớp nhỏ. Lúc bấy giờ linh mục Phaolô Nguyễn Văn Qui là cha giáo tại Tiểu chủng viện, một vị giáo sư thông minh và có năng khiếu âm nhạc, đã lưu ý đến kỹ năng âm nhạc của cậu Ðạt nên tận tình hướng dẫn nhạc lý, kỹ thuật hòa âm, cách sử dụng một số nhạc khí căn bản của Tây Phương như Harminium, Piano, Violon v.v... cho cậu. Cha Qui cũng giúp cậu dịch các bài ca vịnh Trái Tim Chúa Giêsu và ca vịnh Ðức Mẹ từ tiếng La Tinh sang Việt ngữ ngắn gọn và phổ nhạc theo nhịp điệu riêng biệt, làm thành hai quyển : một quyển “Ca Vịnh Trái Tim” và một quyển “Ca Vịnh Ðức Mẹ”. Năm 1913, nhà in Tân Ðịnh xuất bản cả hai quyển nói trên, có in cả nốt nhạc. Nhà in Tân Ðịnh vốn có tên Imprimerie de la Mission là cơ quan xuất bản kỳ cựu nhất Việt Nam của Ðịa phận Sài Gòn vốn đã in rất nhiều sách báo về tôn giáo và văn hóa, có cơ sở ấn loát tại nhà thờ Tân Ðịnh đường Hai Bà Trưng, Sài Gòn.
Nghe những bài hát ca vịnh của Thầy Phaolô Ðạt, linh mục Bề Trên Chủng viện Ernest vốn là một người giỏi dương cầm cũng phải khen ngợi : “Một lối nhạc vừa Ðạo đức vừa Dân tộc.” Cha Gabriel Long, một nhạc sư lúc bấy giờ ở Sài Gòn cũng khen rằng: “Nhạc của Phaolô Ðạt thật ngọt ngào say mến, đi sát với tinh thần của mỗi bài hát...” Có lẽ câu nói được thường xuyên nhắc tới “ Hát bằng hai lần cầu nguyện” (của Thánh Augustin) cũng là lời khích lệ mọi người tu sĩ, giáo dân trong cuộc sống tinh thần hằng ngày.
Ngày 23-9-1911, Thầy Phaolô Ðoàn Quang Ðạt được Ðức Giám Mục Lucien Mossard (tên VN là Mão) truyền chức linh mục tại nhà thờ Ðức Bà Chính Tòa Sài Gòn. Sau khi được thụ phong chức thánh, linh mục Phaolô dạy học tại Tiểu chủng viện Sài Gòn trong gần hai thập niên, đem kiến thức truyền thụ lại cho các thế hệ đàn em, nhất là phát triển kỹ năng sáng tác thánh nhạc của mình. [6] Theo tư liệu của Trần Nhật Vy, sau khi chịu chức, linh mục Ðạt làm Thư ký Tòa Tổng giám mục Sài Gòn, rồi linh mục phụ tá nhà thờ Tân Ðịnh từ năm 1920-1933 và về phụ trách nhà thờ Bà Rịa từ 1933-1949.
Năm 1933 làm cha sở giáo xứ Ðất Ðỏ (Bà Rịa, 1933-1949), linh mục Phaolô đã có sáng kiến tổ chức sinh hoạt giáo xứ rất ngoạn mục và có nhiều ý nghĩa sâu xa như tổ chức hoạt cảnh giáng sinh với cuộc rước tượng Chúa Hài Ðồng vòng quanh nhà thờ, hát những bài ca giáng sinh La tinh rồi sau cùng ca đoàn cử lên bài hợp xướng “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” do ngài sáng tác và tập dượt với phần thánh lễ kết thúc. Có tư liệu cho rằng khi làm cha sở Bà Rịa, cha Phaolô Ðạt thường xuyên đích thân tổ chức các buổi học giáo lý vào mỗi chiều Chúa Nhật, giải thích các lễ nghi, ý nghĩa các phép bí tích và kinh đọc hằng ngày. Cha xây dựng thói quen đánh chuông “Truyền tin” – gọi là “Nhật một” mỗi ngày sáng, trưa, tối. Ngài cũng lập thói quen tốt giật chuông “báo tử” đọc kinh cầu cho linh hồn người vừa qua đời trong họ đạo. [7]. Thật ra lối đọc kinh Truyền Tin (Angelus) có từ lâu bên Âu châu nếu ta theo dõi một bức danh họa của Rembrand vẽ hai cặp vợ chồng của một nông dân đang làm việc ngoài đồng đang giữa trưa nghe tiếng chuông nhà thờ đã đứng lên kính cẩn đọc kinh nhớ về Thiên Chúa, thì sáng kiến của cha Phaolô cũng chỉ là tuân thủ theo một tập quán tôn giáo lâu đời ở Việt Nam rất đáng phục hoạt mà thôi.
Ngày 22-11-1933, khi 56 tuổi,cha Ðoàn Quang Ðạt được thuyên chuyển về giáo xứ Bà Rịa với cái đầu bạc trắng và bệnh hen suyễn khá nặng. Cha phải theo chế độ ăn uống kiêng cử nhiệm nhặt để tránh cơn bệnh hành hạ cha suốt ngày đêm. Tuy bệnh tình nhưng cha vẫn không bao giờ bỏ việc dâng Thánh lễ và các công tác mục vụ khác.
Tháng 8 năm 1949, Ðức Cha Ðịa phận Sài Gòn Jean Cassaigne đưa cha về Chủng viện để dưỡng bệnh. Sau đó linh mục Giuse Thiên, cha sở Chí Hòa xin bề trên cho cha Ðạt về nhà hưu dưỡng các linh mục ở Chí Hòa.
Sáng ngày 21 tháng 2 năm 1956, Cha Ðạt dâng thánh lễ sáng, đến trưa cơn suyễn nổi lên quá mạnh khiến ngài không chịu nổi, đã tắt thở lúc 13 giờ trưa, thọ 79 tuổi, sau 45 năm phục vụ Chúa và dâng hiến những công trình tim óc cho nền Thánh nhạc Công Giáo. [8]
2.- Về bản thánh ca giáng sinh bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời”...
Linh mục Phaolô Ðoàn Quang Ðạt có một nếp sống rất khắc khổ, đạo đức, bị hen suyễn thường xuyên. Vốn là người đa tài thuộc nhiều lãnh vực như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, linh mục Ðạt được coi là tác giả thiết kế nhà thờ Biên Hòa hiện nay. [9] Những sáng tác của cha Phaolô Ðạt để lại tuy ít nhưng đều là những bài hát có chất lượng cao, kỹ thuật phong phú, điêu luyện có lẽ đã được sáng tác trong thời gian làm giáo sư Tiểu chủng viện Sài gòn giai đoạn 1911-1933. Ðó là 3 bài thánh ca:
- Nửa đêm mừng Chúa ra đời,
- Kinh nguyện Chúa Thánh Thần,
- Tôi kính lạy Chúa Giêsu.
Các bài thánh ca này hòa âm ba phần, tiết tấu dịu dàng, êm ái, không cầu kỳ, đúng tinh thần thánh nhạc. Các bài ca ngợi Chúa Giêsu và ca ngợi Ðức Mẹ được khắp nơi trong các nhà thờ giáo phận Sài Gòn hát lên trong thánh lễ.
Theo ông Nguyễn Văn Quí, “sở dĩ linh mục Ðoàn Quang Ðạt viết nhạc là vì những tác phẩm ca hát trong nhà thờ trước đây đều là nhạc nước ngoài và bằng tiếng La tinh, số đông giáo dân hát khôngm được. Chính vì vậy, ông Ðạt liền nghĩ ra cách dịch lại những bài hát này cho giáo dân hát. Nhưng những bài hát nhạ ngoại bằng tiếng Việt này vẫn khó hát. Cuối cùng, ông nghĩ viết hẳn những bài hát bằng tiếng Việt ký âm theo nhạc lý phương Tây. Còn linh mục Nguyễn Hữu Tấn – giám đốc Ðại chủng viện Sài Gòn – cho biết những bài hát của linh mục Ðạt rất khác với nhạc Tây, mà giống với vọng cổ của miền Nam hơn. Còn linh mục Ðỗ Xuân Quế, đặc trách về thánh nhạc của giáo phận Sài Gòn, cũng thừa nhận linh mục Ðạt “rất giỏi nhạc” và bài hát “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” của ông đến nay vẫn còn dùng”.
Linh mục Quế còn cho biết ông được nghe kể linh mục Ðạt đã nghiên cứu từng bước chân trâu bò đi trên đường để viết phần nhạc trong bài “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” và bài ca này ông đã nghe từ những năm 1930 khi còn ở miền Bắc... Thế nhưng cha Ðạt viết những bài hát ấy từ lúc nào? Theo tài liệu hiện có thì ít nhất ông đã viết những bài hát bằng tiếng Việt từ trước năm 1913. Trong tập nhạc “Ca ngợi rất thánh trái tim Đức Chúa Giêsu” in tại nhà in Imprimerie de la Mission (nhà in trong nhà thờ Tân Ðịnh) số 289 rue Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng) năm 1942 có ghi lời bạt của linh mục Phaolô Qui vào ngày 1-5-1913. Linh mục Qui mất vào năm 1914. Một tài liệu khác là cuốn kinh Mục lục Sài Gòn in năm 1899 có chép toàn bộ phần lời của bài ca “Nửa đêm mừng Chúa ra đời”, nhưng không có phần nhạc...” [8] Như vậy bài thánh ca bất hủ Nửa đêm mừng Chúa ra đời chính là bản tân nhạc đầu tiên của Việt Nam, xuất hiện ít nhất cũng từ năm 1899, do một linh mục sáng tác để ca tụng Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và ở cùng chúng ta (Emmanuel).
Cũng theo Lê Ngọc Bích, “Anh Lê Ðình Bảng, nhà thơ, nhà nghiên cứu thi ca, âm nhạc Công Giáo Việt Nam có ý kiến rằng: “(...) Theo nhận định của những nhà nghiên cứu về nhạc sử thì ngay từ năm 1910 ở Nam Bộ đã có những linh mục, thầy giảng, nữ tu và bổn đạo người Việt hát hoặc điều khiển được những bài hát 2, 3 bè khá thành thạo. Có người đã sử dụng nhuần nhuyễn các loại nhạc cụ như harmonium, piano, violon (...) Chúng tôi dựa vào một chứng từ cụ thể của nhà in Tân Ðịnh (Imprimerie de la Mission) năm 1942. Đó là 2 tập sách hát mang tên “Ca ngợi Rất thánh Trái tim Ðức Chúa Giêsu” và “Ca ngợi Ðức Bà Maria”. Có thể xác định thời điểm xuất hiện và tác giả của những bài thánh ca VN đầu tiên ấy qua phần giới thiệu do “linh mục bổn quốc” Phaolô Qui (1855-1914) cha sở họ đạo Cầu Bông viết ngày 1-5-1913 cho cả 2 tập sách này: “... Nguyên những bài ca trong sách này đã rút ra bởi những kinh (Latinh) Hội thánh quen đọc (...). Những ca ngợi ấy là của cha Tôma Ðoan, cha ở Huế và cha Phaolô Ðạt.” “Nổi tiếng nhất trong đó có bài “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” của cha Phaolô Ðoàn Quang Ðạt (1877-1956). Ðã có dư luận cho rằng bài này là bản thánh ca mang dáng dấp hợp xướng đầu tiên trong lịch sử Thánh nhạc Thánh ca Việt Nam? Chúng tôi chưa dám đoan quyết như thế, bởi chưa có đủ chứng cứ cụ thể. Chỉ trộm nghĩ, có lẽ cảm hứng từ những ca khúc về Giáng sinh như “Il est né le Divin Enfant”, “Les Anges dans nos campagnes”, “Puer natus est”, “Gloria in excelcis Deo”và đặc biệt xuất phát từ tâm tình vồn vã, sốt sắng và nhạy cảm của một người con Chúa ở quê hương miệt vườn xứ Búng, tác giả Ðoàn Quang Ðạt (...)”. “Bên cạnh giá trị về giai điệu và cung bậc mang âm hưởng dân tộc, còn phải kể tới giá trị về lời ca là toàn văn của bài kinh vãn cùng tên trong Sách kinh Mục lục của địa phận Sài Gòn, một pho bách khoa toàn thư đậm đặc thứ ngôn ngữ giàu hình tượng rất riêng của những người con Chúa ở phương Nam.” [10]
Trong đêm Thánh ca Giáng sinh tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo phận Sài Gòn tối 12-12-2010, ca đoàn giáo xứ Thị Nghè đã trình bày bản thánh ca “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” cùng với dàn nhạc dân tộc của các nghệ sĩ Nhạc viện Thành phố với sự điều khiển của linh mục Sỹ Tùng. Bản thánh ca này với giai điệu du dương, cung bậc dịu dàng mang âm hưởng dân tộc và lời hát tuy cổ xưa nhưng được sử dụng đúng chỗ, đúng cách đã mang đến cho tác phẩm giá trị vượt cả không gian xen lẫn thời gian cũng đáng được thưởng thức và chiêm nghiệm lại nguyên tác như sau:
Nửa đêm mừng Chúa ra đời. Bức khăn sạch vấn để nơi hang lừa.
Nửa đêm mừng Chúa ra đời. Cỏ rơm trải lót bơ thờ. Chút cỏ rơm bơ thờ.
Cỏ rơm trải lót bơ thờ. Mượn ấm bò lừa quỳ thở dâng hơi, quỳ thở dâng hơi.
Kiểng tinh soi sáng thâu đêm. (Soi thâu đêm) Kiểng tinh soi sáng thâu đêm.(Soi thâu đêm).
Chói lói giữa trời, nhỏ xuống Bê-Linh.
Thiên thần chín đấng chầu quanh, thiên thần chính đấng chầu quanh.
Tấu nhạc rập ràng, đờn hát, đờn hát xướng ca.
Vậy có ca rằng, rằng ca Thiên Chúa, rằng ca Thiên Chúa.
Ớ loài người ấy phúc lành bình an cho người vì cửa Thiên Ðàng rộng mở, Tang tình tình tang Thiên Ðàng rộng mở.
Tang tình tình tang Thiên Ðàng rộng mở.
Chúa cả ra ơn, ơn cả chữa đời.
Rằng: Hỡi chúng dân (Kìa trong hang đá nọ), tới xem điềm lạ.
Kìa trong hang đá, nọ trước lều tranh.
Rằng tính tình tang, Thánh Tiểu Hài sinh.
Thật ngôi linh tính tang tình là tình Thiên Chúa.
Nằm trong !máng cỏ bó bức khăn đơn.
Rằng: Bớ chúng ngươi! tới xem điềm lạ !
(Bay xem thì biết), Kìa trong hang đá, nọ trước lều tranh rằng tinh tình tinh Thánh Tiểu Hài sinh.
Thật ngôi linh tính thất tinh là tình Thiên Chúa.
Thiên thần vô số. Nhạc thổi rân. Thiên thần vô số. Nhạc thổi tung hô.”
Với một số danh từ cổ được sử dụng nơi đây như kiểng tinh (sao sáng, rất sáng), bơ thờ có nghĩa đơn sơ, hèn mọn, tình tang âm hưởng của những làn điệu dân ca, ớ, bớ là những tán thán từ đậm nét dân tộc cùng với những luồng nhạc khi mạnh mẽ như sóng gió để biểu lộ sự vui mừng, lúc chậm rãi kêu mời như tơ vàng óng ánh, bản thánh ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời với ba phần hòa âm nhịp nhàng,gắn bó, quyện khúc, nâng đỡ, tung hứng trong những tiết điệu say sưa, hấp dẫn bộc lộ cả cung lòng mến yêu diệu vợi như không thể nào nói lên hết được tâm tình của một người tín hữu mà nhà thơ Hàn Mặc Tử từng thống thiết say mơ:
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập
Cả Hàn giang, cả màu sắc thinh không
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước...
Khi tôi viết bài này thì cũng được biết bà Ngọc-Diệu vốn là một ca đoàn trưởng nhiều kinh nghiệm từng đóng góp lời ca tiếng hát của mình suốt gần 60 năm từ những ngày còn ở xứ đạo Tam Tòa, Ðồng Hới, Quảng Bình năm 1949-1950 cho đến giáo xứ Tam Tòa, Ðà Nẵng năm 1954 và sau năm 1975 đến nay còn tiếp tục giúp cho các ca đoàn của Giáo xứ Tân Hòa, Ða-Minh, Tổng Giáo Phận Sài Gòn hiện cũng đang đóng góp phần kỹ thuật cho các ca viên hát lại bản thánh ca bất hủ này tại giáo xứ Đa-Minh (Ba Chuông, Sài Gòn). Ðây là một nét trổi bật trong nghệ thuật thánh về nguồn thông qua suối nhạc mà công sức của hai linh mục Gabriel Long và Phao lô Ðạt cần được hậu thế ghi nhớ.
Ước mong hằng năm vào dịp lễ Giáng sinh, bài thánh ca “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” dù khó hát, khó tập vì đòi hỏi nhiều kỹ thuật và cố gắng của ca viên, sẽ được các ca đoàn trong mọi giáo xứ trên khắp miền đất nước Việt Nam cùng các cộng đoàn hải ngoại hát lên để nhớ về một bản thánh ca tuyệt tác của nền thánh nhạcViệt Nam tiên phong đi vào vườn hoa nghệ thuật của Dân Tộc, mở đường cho nền tân nhạc Việt Nam tiến lên, đồng thời cũng là để dâng lên Chúa Hài Nhi một tác phẩm xứng đáng là đại diện của nền thánh nhạc Việt nam có khả năng chen vai thích cánh với các bài ca bất hủ như Silent Night của Âu châu và Bắc Mỹ, Il est né le Divin Enfant của Pháp, bài Adeste Fideles của văn chương La tinh, bản Hội nhạc Thiên quốc của Thánh Alphonso, bài Feliz Navidad của các giáo hội Trung và Nam Mỹ...
CHÚ THÍCH:
1.- Trần Nhật Vy, Tân nhạc Việt Nam từ năm 1911?, Tuổi Trẻ Xuân Canh Thìn, 2000, trang 30.
2.- Trần Doãn Nho, Nhạc Xuân, Tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân năm 2005.
3.- Lê Ngọc Bích, Nhân Vật Công Giáo Việt Nam, Thế kỷ XVIII-XIX- XX, tài liệu lưu hành nội bộ, 2006, trang 501.
4.- Danh nhân Bình Trị Thiên, quyển 1, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1986, trg 128-129, dẫn theo Li Tana, Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế
- Xã hội Việt Nam, Nxb Trẻ, 1999, trang 34.
5.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 502.
6.- Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 502.
7.- Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 503
8.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 505.
9.-Trần Nhật Vy, bài đã dẫn.
10.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 504.
https://www.youtube.com/watch?v=ZCXiRpR
VietCatholic TV
Tin Vui: Trùm CIA đến Kyiv, có tin TT Trump tiếp tục viện trợ. Kursk: Bắc Hàn trúng đạn chùm tan tác
VietCatholic Media
03:29 23/12/2024
1. Zelenskiy gặp giám đốc CIA tại Kyiv
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết ông đã gặp Giám đốc CIA William Burns tại Ukraine, đánh dấu sự thừa nhận công khai hiếm hoi về các cuộc thảo luận của họ trong cuộc xâm lược toàn diện của Nga.
Hoa Kỳ là đồng minh chủ chốt của Ukraine, cung cấp viện trợ tài chính và quân sự đáng kể kể từ khi cuộc chiến toàn diện bắt đầu cách đây gần ba năm. Washington cũng được cho là đã liên tục chia sẻ thông tin tình báo quân sự để củng cố quốc phòng của Ukraine.
“Bill Burns đã đến thăm Ukraine trong chuyến đi cuối cùng của ông với tư cách là Giám đốc CIA. Trong suốt cuộc chiến này, chúng tôi đã có nhiều cuộc họp và tôi vô cùng biết ơn sự hỗ trợ của ông ấy”, Zelenskiy viết trên X, chia sẻ một bức ảnh ông và Burns bắt tay nhau trước quốc huy Ukraine.
Zelenskiy lưu ý rằng ông và Burns đã gặp nhau nhiều lần trong suốt cuộc chiến, nhưng những cuộc gặp gỡ như vậy thường được giữ bí mật. “Chúng tôi không tiết lộ bí mật, nhưng chúng tôi vẫn giữ liên lạc. Chúng tôi có thể sẽ gặp lại nhau, và chúng tôi chắc chắn sẽ thấy cuộc chiến này kết thúc như thế nào với một nền hòa bình thực sự và lâu dài—một nền hòa bình mà chúng tôi đang cùng nhau hướng tới”, Zelenskiy nói.
Burns chuẩn bị từ chức giám đốc CIA khi Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Ông Donald Trump chuẩn bị bổ nhiệm người kế nhiệm.
Cuộc gặp công khai cuối cùng được xác nhận giữa Zelenskiy và Burns diễn ra vào giữa năm 2023 khi các quan chức Hoa Kỳ tiết lộ vào tháng 7 rằng Burns gần đây đã có chuyến thăm bí mật tới Ukraine.
Mặc dù Zelenskiy không nêu rõ ngày chính xác của cuộc gặp cuối cùng, nhưng ông nhấn mạnh tầm quan trọng của nó khi Burns chuẩn bị rời khỏi vị trí của mình chỉ một tháng trước khi Tổng thống đắc cử Donald Trump nhậm chức.
Tổng thống đắc cử Donald Trump đã cam kết sẽ chấm dứt chiến tranh một cách nhanh chóng, làm dấy lên lo ngại rằng Kyiv có thể phải đối mặt với áp lực chấp nhận các điều khoản hòa bình có lợi cho Mạc Tư Khoa.
[Kyiv Independent: Zelensky meets with CIA director in Kyiv]
2. Ukraine phải quyết định giữa ‘tiếp tục chiến đấu hoặc tìm cách đàm phán ngừng bắn’, Blinken nói
Trong một cuộc phỏng vấn sâu rộng với MSNBC vào ngày 19 tháng 12, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken đã nói về triển vọng ngừng bắn tiềm tàng ở Ukraine, cũng như sự ủng hộ dành cho quốc gia đang gặp khó khăn này trước lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Donald Trump vào tháng Giêng.
“Tôi muốn bảo đảm rằng chúng ta trao cho chính quyền mới và người Ukraine một bàn tay mạnh nhất có thể để bước vào năm 2025,” Blinken nói trong một cuộc phỏng vấn trên MSNBC Morning Joe. “Người Ukraine phải đưa ra những quyết định cơ bản về việc tiếp tục chiến đấu hay tìm cách đàm phán và cố gắng đưa điều này đến một lệnh ngừng bắn. Câu hỏi cơ bản là liệu Nga có sẵn sàng làm điều đó và làm điều đó một cách thiện chí hay không.”
“Nếu tiến triển đến mức đó, chúng tôi muốn bảo đảm rằng người Ukraine và chính quyền Tổng thống đắc cử Donald Trump có lợi thế nhất để đạt được thỏa thuận mạnh nhất có thể. Và điều đó có nghĩa là cố gắng củng cố vị thế của Ukraine trên chiến trường”, Blinken nói thêm.
Bình luận của viên chức sắp mãn nhiệm được đưa ra khi Tổng thống đắc cử Donald Trump đã cam kết đưa Hoa Kỳ “thoát khỏi” cuộc chiến của Nga và đàm phán một thỏa thuận hòa bình nhanh chóng. Các quan chức Ukraine đã thúc giục tổng thống đắc cử duy trì sự ủng hộ và áp dụng đường lối “hòa bình thông qua sức mạnh” trong các giao dịch với Nga
Tờ Wall Street Journal đưa tin vào ngày 12 tháng 12, trích dẫn các nguồn tin chính thức không được tiết lộ, rằng Tổng thống đắc cử Donald Trump muốn quân đội Âu Châu giám sát lệnh ngừng bắn tiềm năng ở Ukraine. Tổng thống đắc cử Donald Trump được cho là đã đưa ra những bình luận này trong cuộc họp ngày 7 tháng 12 với Zelenskiy và Tổng thống Pháp Macron tại Paris.
“Nếu điều này đi đến một nơi có lệnh ngừng bắn, và đó là lệnh ngừng bắn có các điều khoản công bằng và lâu dài, thì đó sẽ là một điều tốt. Nhưng để nó bền vững, phải có một số loại bảo đảm rằng Nga sẽ không chỉ đơn giản là nghỉ ngơi, tái trang bị và tái tấn công,” Blinken nói thêm trong cuộc phỏng vấn.
Trong chuyến thăm Brussels để gặp gỡ các nhà lãnh đạo Âu Châu vào ngày 19 tháng 12, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã bác bỏ ý tưởng đóng băng xung đột mà không có sự bảo đảm an ninh hiệu quả, đồng thời nói thêm rằng làm như vậy sẽ “mua thêm thời gian” để Nga tập hợp lại trước một cuộc tấn công khác.
Vào ngày 18 tháng 12, Zelenskiy cho biết ông đang “thảo luận các ý tưởng với các nhà lãnh đạo Âu Châu” về khả năng điều động lực lượng gìn giữ hòa bình Âu Châu tới quốc gia đang gặp khó khăn này.
Vào ngày 13 tháng 12, Andriy Yermak, nhà lãnh đạo Văn phòng Tổng thống, cho biết Kyiv không sẵn sàng đàm phán với Nga vì thiếu sự ủng hộ cần thiết của phương Tây để tham gia từ vị thế mạnh mẽ.
[Kyiv Independent: Ukraine must decide between 'carrying on the fight or looking to negotiate ceasefire,' Blinken says]
3. Pháo binh Ukraine nã đạn chùm vào quân đội Bắc Hàn bị lộ
Quân đoàn 11 của Bắc Hàn cuối cùng đã hành quân vào cuối tuần trước, hai tháng sau khi đợt đầu tiên trong số 12.000 quân Bắc Hàn được điều động đến Tỉnh Kursk ở phía tây nước Nga.
Tấn công từ nhiều hướng trên địa hình trống trải, các nhóm lớn bộ binh Bắc Hàn đã tấn công vào khu vực do quân Ukraine tạm chiếm ở tỉnh Kursk từ tháng 8.
Một cuộc tấn công xung quanh làng Plekhove, ở rìa phía đông của phần nhô ra, cuối cùng đã thành công—với cái giá rất đắt đối với Bắc Hàn—sau khi ban đầu vấp phải mìn và máy bay điều khiển từ xa của Ukraine. Tuy nhiên, một cuộc tấn công khác nhắm vào các vị trí do Lữ đoàn cơ giới hạng nặng số 17 của Ukraine nắm giữ ở phía đối diện dường như đã thất bại.
Người Ukraine có thể phải cảm ơn một vũ khí gây tranh cãi vì chiến thắng vào cuối tuần của họ ở khu vực đó của mặt trận Kursk.
Các video quay bằng máy bay điều khiển từ xa về cuộc tấn công của Bắc Hàn dường như mô tả các loại đạn chùm do Hoa Kỳ sản xuất—có thể là đạn pháo thông thường cải tiến đa năng—bật ra trên chiến trường đầy tuyết và rải các đầu đạn con có kích thước bằng quả lựu đạn gây chết người.
Quân đoàn 11 được cho là đã mất hàng trăm binh lính trong các cuộc tấn công vào cuối tuần. Những quả đạn chùm đó là lý do chính.
Mặc dù có hiệu quả như vậy, nhưng những quả đạn này đã đến muộn trong cuộc chiến. Hoa Kỳ đã không bắt đầu cung cấp đạn DPICM dư thừa cho Ukraine cho đến mùa hè năm 2023—hơn một năm sau khi Nga xâm lược Ukraine.
Vào thời điểm đó, đây là một quyết định gây tranh cãi. Những quả đạn nặng 100 pound thường để lại các loại đạn con chưa nổ có thể gây nguy hiểm nghiêm trọng cho quân đội và dân thường của phe ta. Tỷ lệ đạn hỏng cao, đôi khi vượt quá 3%, đã buộc Quân đội Hoa Kỳ phải bắt đầu thay thế các loại đạn DPICM cũ bằng các loại đạn mới hơn.
Với lợi thế lớn về quân số và trang thiết bị của Nga, Ukraine vui vẻ chấp nhận những rủi ro liên quan đến việc sử dụng nhiều DPICM cũ.
Theo dữ liệu của Quân đội Hoa Kỳ được Viện Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia tại Luân Đôn trích dẫn, có thể cần 14 quả đạn pháo 155 ly tiêu chuẩn để tiêu diệt một binh lính địch—và chỉ cần hai viên đạn DPICM, mỗi viên rải 88 quả đạn con. Các viên đạn DPICM chết chóc hơn không chỉ tiêu diệt địch nhanh hơn mà còn cho phép các khẩu đội pháo binh của phe ta bắn ít đạn hơn với cùng hiệu quả.
Hiệu quả sau có thể lớn hơn hiệu quả trước. “Động lực quan trọng nhất” thúc đẩy nhu cầu về DPICM của Ukraine “là tác động về mặt hoạt động đối với kho đạn pháo và tuổi thọ nòng pháo của Ukraine”, các nhà phân tích Jack Watling và Justin Bronk của RUSI đã viết.
“Với mỗi nòng có tuổi thọ khoảng 1.800 viên đạn, việc cung cấp DPICM cho Ukraine sẽ có nghĩa là họ phải bắn ít đạn hơn cho một hiệu ứng chiến trường nhất định, cho phép họ duy trì cuộc chiến lâu hơn đáng kể”, Watling và Bronk nói thêm.
Hậu quả lâu dài của việc Ukraine chậm trễ trong việc tiếp nhận đạn DPICM đã được chứng minh rõ ràng ở Kursk, một năm rưỡi sau khi những quả đạn chùm đầu tiên được chuyển đến dọc theo tuyến đầu.
Pháo binh yếu thế của Ukraine vẫn đang hoạt động. Và họ đang bắn những quả đạn giết chết đối phương—cả Nga và Bắc Hàn—với tỷ lệ cứ hai viên đạn một người lính.
[Forbes: Ukrainian Artillery Rained Cluster Shells On Exposed North Korean Troops]
4. Tổng thống đắc cử Donald Trump có kế hoạch tiếp tục viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Ukraine sau khi nhậm chức, Financial Times đưa tin
Tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ Ông Donald Trump có kế hoạch tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Ukraine, tờ Financial Times đưa tin vào ngày 20 tháng 12, trích dẫn nguồn tin giấu tên.
Ba quan chức nắm rõ nội dung thảo luận tiết lộ rằng Tổng thống đắc cử Donald Trump có ý định tiếp tục cung cấp thiết bị quân sự của Hoa Kỳ cho Ukraine sau khi nhậm chức.
Nhóm chính sách đối ngoại của Tổng thống đắc cử Donald Trump cũng thông báo với các quan chức Âu Châu rằng ông có kế hoạch thúc đẩy các đồng minh NATO tăng chi tiêu quốc phòng lên 5% GDP của họ. Các quốc gia thành viên NATO hiện đang theo đuổi mục tiêu phân bổ 2% GDP của họ cho chi tiêu quốc phòng.
Các quan chức Anh lưu ý rằng Tổng thống đắc cử Donald Trump coi việc cung cấp vũ khí sau lệnh ngừng bắn là phù hợp với triết lý “hòa bình thông qua sức mạnh” của ông.
Tuy nhiên, ông vẫn phản đối việc Ukraine gia nhập NATO và ủng hộ giải quyết ngay lập tức cuộc xung đột.
Điều này trái ngược với lời lẽ trong chiến dịch tranh cử trước đó của ông, khi ông đề xuất cắt viện trợ cho Ukraine và thúc đẩy đàm phán hòa bình.
Tổng thống đắc cử Donald Trump đã cam kết sẽ nhanh chóng chấm dứt chiến tranh nhưng không cung cấp thông tin chi tiết về cách thức ông dự định thực hiện điều đó.
[Kyiv Independent: Trump plans to continue US military aid to Ukraine after inauguration, FT reports]
5. Lần đầu tiên, Ukraine tấn công các vị trí của Nga chỉ bằng người máy và máy bay điều khiển từ xa
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv chiều Thứ Bẩy, 21 Tháng Mười Hai, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov, tuyên bố vào ngày 20 tháng 12 rằng lực lượng Ukraine đã tấn công thành công các vị trí của Nga chỉ bằng người máy và máy bay điều khiển từ xa góc nhìn thứ nhất thay vì bộ binh.
Ông cho biết “hàng chục đơn vị thiết bị robot” được hỗ trợ bởi máy bay điều khiển từ xa giám sát đã được sử dụng trong cuộc tấn công gần làng Lyptsi, phía bắc Kharkiv.
Các đơn vị thiết bị robot, gọi tắt là UGV, được trang bị súng máy và máy bay điều khiển từ xa góc nhìn thứ nhất cảm tử.
Bình luận về các báo cáo, Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW cho biết vụ tấn công đã làm nổi bật sự khác biệt trong thái độ đối với quân đội tiền tuyến của Mạc Tư Khoa và Kyiv.
ISW cho biết: “Các quan chức Ukraine đã nhiều lần nhấn mạnh những nỗ lực của Ukraine trong việc sử dụng các cải tiến công nghệ và khả năng tấn công bất đối xứng để bù đắp cho những hạn chế về nhân lực của Ukraine, trái ngược với sự sẵn sàng chấp nhận tỷ lệ thương vong của Nga để giành được lợi ích lãnh thổ nhỏ”.
Thứ trưởng Quốc phòng Anh Luke Pollard cho biết vào ngày 19 tháng 12 rằng tổn thất quân sự của Nga trong cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine đã vượt quá 750.000 binh sĩ và dự kiến sẽ vượt quá 1 triệu quân Nga trong vòng sáu tháng.
Ước tính mới nhất của Vương quốc Anh phù hợp với số liệu từ Bộ Tổng tham mưu Ukraine, tính đến ngày 19 tháng 12, có 768.220 quân lính thiệt mạng kể từ khi bắt đầu chiến tranh. Các số liệu không nêu rõ số người tử trận hoặc bị thương, mặc dù sự đồng thuận chung là bao gồm cả người chết, bị thương, mất tích và bị bắt.
Pollard phát biểu với các nghị sĩ Anh vào ngày 19 tháng 12 rằng: “Rất có khả năng là họ đã phải chịu thương vong đáng kể trong khi chỉ đạt được những thành quả chiến thuật hạn chế”.
Nga đã giành được nhiều thắng lợi ở miền Đông Ukraine và Tỉnh Kursk trong những tháng gần đây nhưng phải trả giá bằng thương vong nặng nề.
Tổn thất của Nga đạt mức cao kỷ lục vào tháng 11 và tháng 12, với mức cao nhất trong ngày là 2.030 quân mất vào tháng 11, đánh dấu mức tổn thất hàng ngày cao nhất kể từ khi Nga bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022. Tổn thất của Nga vượt quá 45.000 quân và thiết bị trị giá 3 tỷ đô la vào tháng 11.
Các nhà phát triển công nghệ quân sự đã tạo ra một loại UGV mới có khả năng mang thuốc nổ và chạy dưới gầm xe thiết giáp.
UGV, có tên là Ratel S hoặc Honey Badger, được phát triển như một phần trong sáng kiến Brave1 của chính phủ.
Sáng kiến này được đưa ra vào tháng 4 nhằm đầu tư vào các sáng kiến công nghệ quốc phòng có thể được quân đội Ukraine sử dụng, cũng như đóng vai trò là nền tảng kết nối các bên liên quan trong ngành.
“ Ý tưởng chính là robot (Ratel S) được sử dụng như một đầu đạn di động mang theo mìn chống tăng hoặc các thiết bị nổ khác”, Kovalchuk cho biết, đồng thời nói thêm rằng nó có thể chạy trong 40–50 phút ở tốc độ trung bình hoặc trong hai giờ ở tốc độ chậm hơn.
[Kyiv Independent: For first time, Ukraine attacks Russian positions using solely ground, FPV drones]
6. Đồng minh NATO cung cấp gần 300 triệu đô la cho hệ thống phòng không của Ukraine
Ukraine sắp nhận được sự hỗ trợ lớn cho khả năng phòng không từ một trong những đồng minh trung thành của mình, sau một loạt các cuộc tấn công trên không lớn của Nga.
Hôm thứ năm, Bộ Quốc phòng Đan Mạch thông báo rằng một gói viện trợ trị giá tổng cộng 2,1 tỷ Krone Đan Mạch, hay 293 triệu đô la, đã được phân bổ cho Ukraine.
Gói này bao gồm các khoản tiền để “tăng cường khả năng phòng không của Ukraine”. Bộ này cho biết khoản tiền tài trợ cũng sẽ được cung cấp cho “hoạt động của năng lực F-16 của Ukraine”.
Cùng với Thụy Điển, Đan Mạch cũng sẽ cung cấp cho Ukraine một số lượng không xác định xe chiến đấu bộ binh CV90 - xe tăng bọc thép thu nhỏ hiện đang hoạt động ở Ukraine - và điều động thêm nhân sự để hỗ trợ NATO và Liên minh Âu Châu trong các nhiệm vụ hỗ trợ Ukraine.
Khi được liên hệ để biết thêm thông tin về gói hàng, Bộ Quốc phòng Đan Mạch trả lời Newsweek rằng họ không thể bình luận về hệ thống phòng không của Ukraine vì lý do an ninh hoạt động.
“Một trong những nhu cầu cấp thiết nhất của Ukraine hiện nay là có thể tự vệ trước các cuộc không kích của Nga”, Bộ trưởng Quốc phòng Đan Mạch Troels Lund Poulsen cho biết hôm thứ Năm. “Đó là lý do tại sao chúng tôi ưu tiên hỗ trợ nhiều hơn cho phòng không”. Mặc dù các đồng minh phương Tây đã nâng cấp đáng kể hệ thống phòng không của Ukraine, nhưng quốc gia này vẫn phải chịu đựng một loạt các cuộc tấn công trên không của Nga nhắm vào các thành phố và cơ sở hạ tầng quan trọng của mình.
Thứ sáu tuần trước, Volodymyr Zelenskiy cho biết 93 hỏa tiễn và 200 máy bay điều khiển từ xa đã được phóng vào Ukraine, trong vụ việc mà tổng thống gọi là “một trong những cuộc tấn công lớn nhất của Nga vào ngành năng lượng của chúng ta” kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Zelenskiy cho biết 81 trong số các hỏa tiễn đã bị đánh chặn, nhưng các công ty điện lực bao gồm DTEK và Ukrenergo đã báo cáo thiệt hại đáng kể tại các cơ sở của họ. Tiếp theo là một cuộc tấn công vào Kyiv vào sáng thứ sáu, gây ra hỏa hoạn bùng phát trên khắp thủ đô, khiến các trường học, cơ sở y tế và các tòa nhà dân cư không có điện.
Theo Bộ Quốc phòng, Đan Mạch đã trở thành đồng minh quan trọng của Ukraine kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu, dành hơn 7 tỷ đô la tiền quỹ cho quốc gia này cho đến năm 2028.
Ngoài sự hỗ trợ có trong gói mới nhất, Đan Mạch cũng là nước đóng góp chính cho phi đội chiến đấu cơ F-16 của Ukraine, cùng với Hòa Lan. Vào ngày 7 tháng 12, Zelenskiy thông báo rằng lô máy bay F-16 thứ hai của Đan Mạch đã đến Ukraine và cảm ơn đất nước này vì sự hỗ trợ liên tục của họ.
“Máy bay từ lô đầu tiên do người Đan Mạch cung cấp đã bắn hạ hỏa tiễn của Nga và cứu người dân, cơ sở hạ tầng của chúng ta,” tổng thống cho biết. “Bây giờ lá chắn không quân của chúng ta được tăng cường thêm. Nếu tất cả các đối tác đều quyết tâm như vậy, chúng ta đã có thể khiến cho khủng bố của Nga trở nên bất khả thi.”
Bộ trưởng Quốc phòng Troels Lund Poulsen cho biết hôm thứ năm: “Đan Mạch đã đóng vai trò đặc biệt trong việc xây dựng thông qua việc tài trợ chiến đấu cơ F-16 và đào tạo nhân sự”.
Ngoại trưởng Đan Mạch Lars Løkke Rasmussen, vào thứ năm: “Nga sẽ không dừng lại trước bất cứ điều gì trong cuộc chiến tranh phi pháp của họ. Điều này nhấn mạnh các cuộc tấn công của Nga vào hệ thống năng lượng của Ukraine, nhằm mục đích bóp nghẹt người dân Ukraine trong những tháng mùa đông lạnh giá. Thật vô nhân đạo. Điều này chỉ khiến cho việc Âu Châu và Đan Mạch tiếp tục hỗ trợ Ukraine trở nên quan trọng hơn nữa—đặc biệt là đối với hệ thống phòng không của Ukraine. Chúng ta phải đưa Ukraine vào vị thế tốt nhất có thể.”
Trong khi Ukraine yêu cầu các đồng minh phương Tây giúp củng cố hệ thống phòng không, Putin đã đe dọa sẽ tiến hành các cuộc tấn công thậm chí còn dữ dội hơn vào các thành phố lớn của nước này.
Trong một hội nghị vào thứ năm, Putin đã đề xuất tiến hành một “thí nghiệm công nghệ” để kiểm tra khả năng của hỏa tiễn Oreshnik của Nga. Ông đã mời những người ủng hộ Ukraine “tập trung toàn bộ lực lượng phòng không và hỏa tiễn” của họ ở Kyiv để xem liệu họ có thể đánh chặn được hỏa tiễn đạn đạo siêu thanh hay không.
Putin cũng khuyến khích Hoa Kỳ điều động hệ thống hỏa tiễn chống đạn đạo THAAD ở Ukraine như một cuộc tập trận tương tự để đánh giá sức mạnh hỏa tiễn của Nga.
[Newsweek: NATO Ally Gives Nearly $300M to Ukraine's Air Defenses]
7. Putin từ chối đưa ra thời hạn giải phóng Kursk
Putin đã từ chối cung cấp mốc thời gian cụ thể về thời điểm lực lượng Ukraine có thể bị trục xuất khỏi khu vực Kursk của Nga trong cuộc họp báo hôm Thứ Năm, 19 Tháng Mười Hai, khi trả lời câu hỏi của một người dân yêu cầu làm rõ tình hình ở khu vực biên giới.
Putin trả lời rằng: “Tôi không thể và thậm chí không muốn nêu ngày cụ thể khi nào họ sẽ bị đánh bại. Hiện đang có một trận chiến, những trận chiến nghiêm trọng như vậy. Chúng tôi chắc chắn sẽ đánh bại họ. Xin lỗi, tôi không thể nêu ngày cụ thể. Tôi nghĩ là có kế hoạch, và chúng sẽ được báo cáo với tôi.”
Ông biện minh cho việc giữ lại thời hạn bằng cách cho rằng việc tiết lộ thông tin như vậy có thể gây nguy hiểm cho an ninh hoạt động. “Đối phương sẽ biết về ngày này và cố gắng phá vỡ các kế hoạch”, Putin nói thêm, nhấn mạnh bản chất đang diễn ra của cuộc xung đột trong khu vực.
Quyết định không công khai đặt ra thời hạn trục xuất quân đội Ukraine khỏi Kursk của Putin có ý nghĩa quan trọng vì nó có thể là tín hiệu cho thấy ông đang thay đổi chiến thuật và các ưu tiên của ông cho cuộc chiến đã thay đổi. Mặc dù Nga đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong khu vực trong những tháng gần đây, nhưng phải trả giá bằng tổn thất nghiêm trọng về thủy thủ đoàn và thiết bị, và do đó, Mạc Tư Khoa có thể đang đánh giá lại tình hình.
Trong thông báo của mình, Putin cũng lưu ý rằng nếu ông đưa ra một ngày cụ thể, quân đội sẽ “vội vã đáp ứng bằng mọi giá, mà không cân nhắc đến tổn thất”, như hãng tin Nga Meduza đưa tin. Ông cũng nói rằng “một hoặc hai ngày” sẽ không tạo ra sự khác biệt trong kế hoạch lớn nhằm đẩy quân đội Ukraine ra khỏi lãnh thổ, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy họ ra hoàn toàn, sau đó đánh giá thiệt hại.
Trùm mafia Vladimir Putin cho biết thêm rằng ông sẽ tăng quân đội và lực lượng an ninh của nước này lên 1,5 triệu người, có thể là một nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt quân đội ngày càng gia tăng của Mạc Tư Khoa.
Trước đó, Putin đã đặt ra thời hạn chót để trục xuất quân đội Ukraine khỏi Kursk là ngày 1 tháng 10, không lâu sau cuộc tấn công của Kyiv vào tháng 8, nhưng thời hạn đó đã bị vượt quá và quân đội vẫn ở lại trong lãnh thổ này.
Tin tức của ông về Kursk được đưa ra sau khi Valery Gerasimov, Tổng tham mưu trưởng Quân đội, tuyên bố rằng Nga đã hoàn thành mọi nhiệm vụ mà ban lãnh đạo đất nước giao cho quân đội vào năm 2024 vào thứ Tư. Tuyên bố này khiến nhiều người tin rằng việc trục xuất quân đội Ukraine khỏi khu vực này không phải là ưu tiên của Mạc Tư Khoa.
Thông điệp trước đây của Putin về việc “thanh trừng” quân đội Ukraine tại Kursk và “đánh bật” hoặc “đánh bật đối phương khỏi lãnh thổ của chúng ta” cũng ít xuất hiện hơn trong thời gian gần đây, có thể báo hiệu rằng quan điểm của ông về khu vực này là ưu tiên đã thay đổi.
Quân đội Nga đã tiến vào khu vực này và giành lại 40 phần trăm lãnh thổ trước đây do quân đội Ukraine chiếm giữ, bao gồm các thị trấn Orlovka, Maryevka và Staraya Sorochina. Quân đội Bắc Hàn, bị gọi nhập ngũ đến tiền tuyến để chiến đấu cùng Nga, cũng đã tiến vào Kursk, phía tây bắc và đông bắc thị trấn Malaya Loknya của Nga và phía đông Kurilovka.
[Politico: Putin Refuses to Give Deadline on Liberating Kursk]
8. Cuộc tấn công của Nga vào trung tâm điều trị ung thư ở Kherson là ‘hành động tàn ác ghê tởm đối với dân thường’, Zelenskiy nói
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy phát biểu trong bài phát biểu buổi tối rằng cuộc tấn công của Nga vào một trung tâm ung thư ở thành phố Kherson vào đêm ngày 21 tháng 12 “là một hành động tàn ác ghê tởm đối với dân thường”.
Quân đội Nga đã tấn công một trung tâm ung thư bằng hai quả bom dẫn đường, Cục Quản lý Quân sự Khu vực Kherson đưa tin.
Trong bài phát biểu buổi tối, Zelenskiy cho biết không có thương vong nào do cuộc tấn công vào cơ sở y tế khi bệnh nhân và nhân viên y tế tìm nơi trú ẩn.
Trung tâm ung thư, hoạt động với công suất hạn chế kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu, là nơi đặt máy gia tốc tuyến tính duy nhất cung cấp phương pháp điều trị xạ trị trong thành phố.
Zelenskiy nói thêm: “Người Nga không thể không biết rằng đây là một cơ sở y tế cụ thể và có giá trị to lớn đối với người dân Kherson”.
“Chúng tôi chắc chắn sẽ tiếp tục tấn công các mục tiêu quân sự của Nga – bằng máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn, ngày càng nhiều hơn bằng các loại do Ukraine sản xuất, đặc biệt nhắm vào các căn cứ quân sự và cơ sở hạ tầng quân sự của Nga được sử dụng trong cuộc khủng bố này chống lại người dân của chúng tôi. Phòng thủ của chúng tôi hoàn toàn chính đáng.”
Trong suốt cuộc xâm lược toàn diện, Nga liên tục tấn công vào các cơ sở y tế, đặc biệt là ở các tỉnh phía đông của Ukraine. Bộ Y tế Ukraine báo cáo vào ngày 22 tháng 7 rằng tổng cộng 1.642 cơ sở y tế đã bị hư hại và 214 cơ sở khác đã bị phá hủy hoàn toàn kể từ khi Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện vào tháng 2 năm 2022 — mặc dù con số cập nhật có thể cao hơn đáng kể.
Vào tháng 7, Nga đã tấn công bệnh viện nhi Okhmatdyt ở Kyiv - trung tâm y tế nhi lớn nhất Ukraine - khiến 2 người thiệt mạng và ít nhất 32 người khác bị thương, bao gồm cả trẻ em.
Gần đây hơn, một cuộc tấn công bằng bom lượn của Nga vào Zaporizhzhia vào ngày 8 tháng 11 đã gây hư hại cho một bệnh viện ung thư khác.
Nằm dọc theo tuyến đầu của Ukraine, Tỉnh Kherson là mục tiêu tấn công thường xuyên của Nga.
Zelenskiy đã nhiều lần kêu gọi các đồng minh phương Tây cung cấp thêm hệ thống phòng không để bảo vệ tốt hơn các cơ sở hạ tầng quan trọng trên khắp đất nước. Trong chuyến thăm Brussels vào ngày 18 tháng 12, Zelenskiy đã kêu gọi cung cấp thêm 19 hệ thống phòng không, theo một nhà báo của Kyiv Independent đã tham dự cuộc họp báo.
[Kyiv Independent: Russian attack on cancer treatment center in Kherson 'heinous act of cruelty against civilians,' Zelensky says]
9. Ukraine, Hoa Kỳ đồng ý về ngày phái viên hòa bình Kellogg đến thăm Kyiv, quan chức cho biết
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Ukraine Heorhii Tykhyi cho biết trong cuộc họp báo ngày 20 tháng 12, Ukraine và Hoa Kỳ đã đạt được thỏa thuận sơ bộ về ngày thăm Kyiv của Keith Kellogg, người được Tổng thống đắc cử Donald Trump đề cử làm đặc phái viên hòa bình cho Ukraine.
Tykhyi không tiết lộ ngày cụ thể của chuyến thăm vì lý do an ninh. Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết vào ngày 19 tháng 12 rằng Kellogg sẽ đến thăm Ukraine trước lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Donald Trump vào tháng Giêng.
Theo Tykhyi, Kyiv dự định sử dụng chuyến thăm này để truyền đạt “thông tin quan trọng từ phía Ukraine” cần được xem xét khi chính quyền Hoa Kỳ sắp tới xây dựng chiến lược đạt được hòa bình công bằng.
Ông cho biết các sắp xếp sơ bộ đã được thực hiện và Kyiv đang chuẩn bị đón tiếp đại diện nhóm của Tổng thống đắc cử Donald Trump.
Kellogg, 80 tuổi, trước đây từng giữ chức thư ký điều hành và chánh văn phòng Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống đắc cử Donald Trump và là cố vấn hàng đầu cho Phó Tổng thống Mike Pence khi đó.
Chuyến thăm sắp tới của ông nhấn mạnh vai trò quan trọng mà Hoa Kỳ có thể sẽ đóng góp trong việc định hình tương lai của các cuộc đàm phán hòa bình giữa Ukraine và Nga.
Reuters đưa tin rằng Kellogg và Frederick H. Fleitz, một cố vấn cao cấp khác của Tổng thống đắc cử Donald Trump, đã đề xuất một kế hoạch hòa bình bao gồm đóng băng tiền tuyến, ngừng viện trợ quân sự cho Ukraine trừ khi nước này đồng ý đàm phán và gác lại nguyện vọng gia nhập NATO của Ukraine.
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống của mình, Tổng thống đắc cử Donald Trump đã thề sẽ chấm dứt cuộc chiến của Nga tại Ukraine, tuyên bố ông có thể làm trung gian cho một thỏa thuận “có lợi cho cả hai bên”.
Tuy nhiên, những bình luận của ông, bao gồm lời khen ngợi dành cho Putin và sự hoài nghi về việc Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ Ukraine, đã làm dấy lên lo ngại ở Kyiv về khả năng thay đổi chính sách của Hoa Kỳ.
[Kyiv Independent: Ukraine, US agree on date of peace envoy Kellogg's visit to Kyiv, official says]
10. Putin nói với Tổng thống đắc cử Donald Trump: Có thể gọi cho tôi
Putin hôm thứ Năm cho biết ông sẵn sàng gặp Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Ông Donald Trump để tìm kiếm sự thỏa hiệp trong các cuộc đàm phán tiềm năng nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine gần ba năm sau khi ra lệnh xâm lược toàn diện quốc gia láng giềng của Mạc Tư Khoa.
Phát biểu tại cuộc gặp gỡ thường niên với các nhà báo tại Mạc Tư Khoa kéo dài hơn bốn giờ, Putin tuyên bố ông đã không nói chuyện với Tổng thống đắc cử Donald Trump trong hơn bốn năm nhưng ông “sẵn sàng” thảo luận về cuộc chiến với nhà lãnh đạo mới của Hoa Kỳ “bất cứ lúc nào”.
“Nếu có cuộc gặp với tổng thống mới đắc cử, ngài Tổng thống đắc cử Donald Trump, tôi chắc chắn chúng ta sẽ có nhiều điều để nói”, ông nói.
Bình luận của ông được đưa ra khi Ukraine phải đối mặt với ngày càng nhiều khó khăn ở tuyến đầu và chuẩn bị cho sự trở lại nắm quyền của Tổng thống đắc cử Donald Trump, người trước đó đã tuyên bố sẽ chấm dứt xung đột trong một ngày. Tuy nhiên, Kyiv không tin vào sự cởi mở được cho là của Putin đối với sự thỏa hiệp vì ông đã thúc đẩy một cuộc xung đột kéo dài hàng thập niên với Ukraine, trong đó Nga đã tàn phá các thành phố và người dân trên khắp đất nước.
Trong khi đó, các thủ đô Âu Châu đang thảo luận về các khía cạnh của một thỏa thuận hòa bình có thể có và các bảo đảm an ninh dài hạn cho Kyiv, với cuộc gặp giữa Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy với nhà lãnh đạo NATO Mark Rutte và một số nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu để thảo luận về các thỏa thuận trong tương lai tại Brussels vào thứ Tư.
Putin, người tỏ ra lạc quan về những thành quả quân sự của Nga tại Ukraine trong cuộc họp báo kéo dài của mình, cho biết Mạc Tư Khoa “luôn nói rằng chúng tôi sẵn sàng thỏa hiệp và đàm phán”, nhưng “phía bên kia cũng cần phải sẵn sàng”.
Nhà lãnh đạo lâu năm của Nga cho biết Mạc Tư Khoa không muốn một thỏa thuận ngừng bắn dài hạn mà muốn một “nền hòa bình lâu dài được bảo đảm bằng các cam kết dành cho Liên bang Nga và công dân nước này”.
Putin cũng tuyên bố, mà không đưa ra bằng chứng, rằng nhà lãnh đạo thân Nga của Hung Gia Lợi Viktor Orbán đã đề xuất đồng ý ngừng bắn trong cuộc xung đột vào dịp Giáng Sinh và trao đổi tù nhân — một ý tưởng mà ông cho biết Ukraine đã từ chối.
Cùng lúc đó, Putin khẳng định nền kinh tế Nga “ổn định” trong khi thừa nhận rằng giá cả tăng là một “tín hiệu đáng báo động”. Trong những tháng gần đây, đồng rúp đã giảm mạnh do giá dầu thấp và lệnh trừng phạt của phương Tây, trong khi ngân hàng trung ương Mạc Tư Khoa đã tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát gia tăng.
Bất chấp điều đó, Putin khẳng định ông đã “làm mọi thứ” để bảo đảm chủ quyền liên tục của Nga trong suốt 24 năm ông nắm quyền lãnh đạo đất nước.
“Tôi không chỉ bảo vệ nước Nga”, ông nói. Kể từ khi lên nắm quyền, “tôi nghĩ chúng ta đã trở lại từ bờ vực thẳm”.
Putin cũng đề cập đến nhiều vấn đề trong nước, bao gồm thế chấp, lừa đảo qua điện thoại và những thách thức về nhân khẩu học của Nga trong cuộc trò chuyện qua điện thoại.
[Politico: Putin to Donald Trump: Call me maybe]
11. Zelenskiy chấp thuận hơn 30 cuộc bổ nhiệm đại sứ mới
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã công bố việc phê chuẩn hơn 30 quyết định bổ nhiệm đại sứ Ukraine ở nước ngoài trong bài phát biểu buổi tối ngày 20 tháng 12.
Việc bổ nhiệm này diễn ra sau một cuộc cải tổ đáng kể trong khuôn khổ ngoại giao và chính phủ của Ukraine vào đầu năm nay.
“Tôi đã phê duyệt hơn 30 quyết định, bao gồm quyết định cử Nariman Dzhelyal tới Thổ Nhĩ Kỳ, Alyona Getmanchuk làm đại diện của Ukraine tại NATO và Andrii Melnyk làm đại diện của Ukraine tại Liên Hiệp Quốc,” Zelenskiy cho biết.
Ông cho biết thêm rằng các sắc lệnh chính thức sẽ sớm được ban hành theo đúng thủ tục ngoại giao.
Các bổ nhiệm quan trọng bao gồm:
Nariman Dzhelyal: Phó chủ tịch Mejlis của người Tatar Crimea và là cựu tù nhân chính trị vừa được Nga thả khỏi nơi giam giữ vào tháng 6 năm 2024.
Alyona Getmanchuk: Nhà phân tích chính sách đối ngoại của Ukraine, Giám đốc Trung tâm Âu Châu Mới và là thành viên cao cấp tại Hội đồng Đại Tây Dương.
Andrii Melnyk: Cựu Đại sứ Ukraine tại Đức, hiện đang là Đại sứ Ukraine tại Brazil.
Ngày 5 tháng 9, Quốc hội Ukraine đã xác nhận Andrii Sybiha là Ngoại trưởng mới sau khi Dmytro Kuleba từ chức, đánh dấu sự thay đổi trong nhóm ngoại giao của Kyiv trong bối cảnh những thách thức liên tục do chiến tranh gây ra.
[Kyiv Independent: Zelensky approves over 30 new ambassador appointments]
Iraq lên tiếng về vụ mưu sát ĐGH. Toàn văn diễn từ mừng Chúa Giáng Sinh của ĐTC với Giáo triều Rôma
VietCatholic Media
20:48 23/12/2024
1. Cựu Thống đốc Nineveh phủ nhận vụ ám sát Đức Thánh Cha Phanxicô trong chuyến thăm Iraq năm 2021
Cựu Thống đốc Nineveh Najm Al-Jubouri đã phản hồi tiết lộ gần đây của Đức Thánh Cha Phanxicô về một vụ ám sát trong chuyến thăm Iraq của ngài vào năm 2021, phủ nhận mọi sự việc như vậy đã xảy ra.
Al-Jubouri tuyên bố rằng “chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng vào tháng 3 năm 2021 đã được lên kế hoạch tỉ mỉ mà không có bất kỳ mối đe dọa hoặc sự việc an ninh nào. Chuyến thăm đã được lên kế hoạch trước ở cao cấp nhất, với nhiều nhóm đến trước nhiều ngày để bảo đảm an toàn cho Giáo hoàng từ khi vào Nineveh, trong suốt chuyến thăm thành phố cổ và các chuyến đi đến Alqosh và Hamdaniya”.
“Các nhóm bao gồm nhân sự từ Nineveh, Baghdad, các nhóm an ninh Anh và Mỹ, và một nhóm tình báo chuyên trách của Iraq.”
Ông nói thêm, “Không có báo cáo nào cho thấy có mối đe dọa nào đến tính mạng của Đức Giáo Hoàng, và mọi hoạt động và chỉ thị an ninh ở Nineveh đều được ban hành dưới sự giám sát trực tiếp của tôi.”
Al-Jubouri nói thêm rằng nếu có bất kỳ mối đe dọa nào đối với một nhân vật quan trọng như Giáo hoàng, các nghi thức an ninh quốc tế sẽ đòi hỏi phải hủy chuyến thăm, nhưng điều đó đã không xảy ra, chứng tỏ không có mối đe dọa nào cả.
Ông lưu ý rằng “Nineveh có mức độ an ninh và ổn định cao trong thời gian đó, cho phép Đức Giáo Hoàng đến thăm thành phố một cách thoải mái. Chuyến thăm của Giáo hoàng không phải là chuyến thăm duy nhất; tiếp theo là chuyến thăm của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, người đã tham quan thành phố cổ và đến thăm một số địa điểm mà không có bất kỳ sự việc an ninh nào.”
“Những lời đồn về một vụ ám sát có thể xuất phát từ nỗ lực của một số cơ quan an ninh nhằm thu hút sự chú ý của giới truyền thông, hoặc có thể là do thông tin tình báo không chính xác đến được với Đức Giáo Hoàng.”
“Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói hoặc nhìn thấy bất kỳ bằng chứng nào về nỗ lực bị cáo buộc này, và thật đáng ngạc nhiên khi những tuyên bố như vậy lại được đưa ra vào thời điểm này, đặc biệt là khi chúng tôi ở Iraq không hề biết về những tin đồn này”, ông kết luận.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiết lộ rằng ngài là mục tiêu của “một vụ đánh bom tự sát” trong chuyến thăm Iraq của ông cách đây ba năm. Trong một đoạn trích được công bố hôm thứ Ba từ cuốn tự truyện sắp ra mắt của mình, Đức Giáo Hoàng cho biết cảnh sát đã thông báo với ông rằng “ít nhất hai kẻ đánh bom tự sát đã biết đang nhắm vào một sự kiện mà ông được cho là sẽ tham dự”.
Theo đoạn trích được đăng trên tờ báo Ý Corriere della Sera, Đức Giáo Hoàng đã viết, “Một người phụ nữ mang theo thuốc nổ, một kẻ đánh bom liều chết trẻ tuổi, đang trên đường đến Mosul để kích nổ bom tự sát trong chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng, và một chiếc xe tải nhỏ cũng đang phóng nhanh với cùng mục đích đó.”
Đức Giáo Hoàng cho biết tình báo Anh đã thông báo cho Vatican về vụ ám sát. Ngày hôm sau, ngài hỏi một viên chức an ninh về những gì đã xảy ra với những kẻ đánh bom liều chết tiềm năng. “Vị chỉ huy trả lời ngắn gọn: Họ không còn ở đó nữa; cảnh sát Iraq đã chặn lại và vô hiệu hóa họ”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết.
Source:Shahaq
2. Vụ xả súng ở trường Abundant Life: Trường học Kitô Giáo có bị nhắm tới không?
Vụ xả súng tại trường Abundant Life Christian School hay Trường Sự Sống Dồi Dào Kitô Giáo đã làm dấy lên mối lo ngại trên mạng xã hội về việc các trường học Kitô giáo bị tấn công bởi bạo lực súng đạn. Dữ liệu cho thấy đây là vụ xả súng thứ hai tại một trường Kitô Giáo trong năm nay dẫn đến thương tích hoặc tử vong.
Sau vụ xả súng tại Trường Kitô giáo Abundant Life ở Madison, Wisconsin, vào hôm thứ Hai 16 Tháng Mười Hai, Đức Tổng Giám Mục Jerome Listecki nghỉ hưu của Tổng giáo phận Milwaukee lo ngại rằng các trường học Kitô giáo đang bị tấn công Một giáo viên và một học sinh tuổi teen đã thiệt mạng trong vụ xả súng. Nhiều học sinh bị thương, bao gồm hai em bị thương nguy hiểm đến tính mạng.
Theo hãng thông tấn Associated Press, trích dẫn nguồn tin từ cơ quan thực thi pháp luật, nghi phạm xả súng, một nữ sinh 17 tuổi đang theo học tại trường, đã được tìm thấy chết tại hiện trường, dường như đã tự tử.
Cho đến nay, hầu hết các vụ xả súng được báo cáo đều xảy ra ở trường công lập.
Vào ngày 4 tháng 12, Glenn Litton, 56 tuổi, đã nổ súng tại Trường Feather River Adventist ở Oroville, California. Hai trẻ em, đều là học sinh mẫu giáo, đã bị thương trong vụ nổ súng. Litton được phát hiện đã chết tại hiện trường do vết thương dường như do tự bắn.
Các viên chức cho biết Litton đã theo học tại một trường Seventh-Day Adventist ở Paradise khi còn nhỏ và có thể có một thành viên trong gia đình đã theo học tại trường Feather River nhiều năm trước. Các viên chức không tin rằng anh ta có bất kỳ mối liên hệ nào hiện tại với trường.
Các viên chức tìm thấy một tuyên bố được cho là do Litton viết, trong đó nêu rằng “các vụ hành quyết trẻ em” được áp dụng tại trường học để đáp trả “sự tham gia của Mỹ vào cuộc diệt chủng và đàn áp người Palestine” và các cuộc tấn công ở Yemen. Ông ta cũng nói rằng ông ta tấn công trường học thay mặt cho “Liên minh quốc tế”, nhưng các viên chức không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào về sự tồn tại của tổ chức này.
Cựu ứng cử viên quốc hội Jack Lombardi II, trên X: “Liệu vụ xả súng khủng khiếp này có được coi là tội ác thù hận hay chúng ta sẽ hành động như thể các Kitô hữu không bị tấn công! Trẻ em và [gia đình] luôn trong trái tim và lời cầu nguyện của chúng tôi.”
Thống đốc Wisconsin Tony Evers đã phát biểu: “Không có từ ngữ nào có thể diễn tả được sự tàn phá và đau lòng mà chúng ta cảm thấy ngày hôm nay sau vụ xả súng tại trường Abundant Life Christian ở Madison sáng nay.”
Thị trưởng Madison Satya Rhodes-Conway, tại cuộc họp báo chiều thứ Hai: “Nếu bất kỳ ai cần hỗ trợ sức khỏe tâm thần do sự việc này và phạm vi đưa tin về sự cố, tôi khuyến khích họ liên hệ với 988 qua điện thoại hoặc tin nhắn để nhận được sự hỗ trợ sức khỏe tâm thần mà họ cần.”
Source:Newsweek
3. Bethlehem u buồn vì chiến tranh
Cách đây một năm, dân chúng tại Bethlehem còn tin tưởng đến lễ Giáng Sinh 2024 thì chiến tranh sẽ qua đi, nhưng nay thành phố này vẫn còn ở mùa đông của chiến tranh.
Bethlehem cũng như phần còn lại trên toàn lãnh thổ của người Palestine tiếp tục ở trong tình trạng u buồn vì chiến tranh tại Gaza. Hiện nay, không có những cây thông Giáng Sinh được trang trí, không có những tiếng đàn ca và tiếng hát, cũng như không có các hang đá, vốn được bố trí tại Quảng trường Máng Cỏ để chào mừng các du khách. Quảng trường này ở giữa Văn phòng của Thị trưởng và Nhà thờ Giáng Sinh ngày nay đầy những xe taxi chờ đợi khách nhưng không có ai.
Năm nay, các vị lãnh đạo Giáo hội phần lớn muốn theo đường hướng của thành phố và quốc gia: đó là không có những “hoành tráng” bề ngoài, đàn ca tiếng hát hoặc những buổi lễ long trọng công cộng. Các tín hữu được khuyến khích mừng lễ Chúa Giáng Sinh trong khuôn khổ thánh đường. Tuy nhiên, các vị chống lại cảm tưởng các tín hữu Kitô muốn hủy bỏ lễ Giáng Sinh. Cha sở địa phương Rami Askarieh nói với phái viên hãng tin Công Giáo Đức KNA rằng: “Chúng tôi đang cử hành đại lễ của Vua Hòa bình, vốn là đại lễ hy vọng của mọi người”. Tại Bethlehem, các tín hữu Kitô vẫn còn chiếm một phần ba dân số, mặc dù con số này đã giảm sút. Họ chịu đau khổ nhiều vì hậu quả của chiến tranh và khủng hoảng trong vùng.
Từ sau cuộc tấn công khủng bố, hôm mùng 07 tháng Mười năm 2023 của Hamas, Israel đã phong tỏa miền Cisjordani của người Palestine. Điều này có nghĩa là phần lớn những người Palestine thường tới Giêrusalem để làm việc hằng ngày, nay trở thành những người thất nghiệp và không còn lợi tức nữa. Thêm vào đó, vì hầu như không còn du khách và tín hữu hành hương, hậu quả của tình trạng thiếu an ninh, nên ngành du lịch, vốn chiếm 60% kinh tế của thành Bethlehem, nay bị sụp đổ và tạo nên hậu quả thê thảm, đặc biệt là các tín hữu Kitô, vì 90% trong số họ đều hoạt động trong lãnh vực này.
Sự sụp đổ kinh tế vừa nói, người ta thấy rõ tại thành Bethlehem, nơi Chúa Giêsu sinh ra: các khách sạn đóng cửa, nhiều quán ăn không thể mở cửa hoặc chỉ mở vài giờ. Quảng trường trước Nhà thờ Giáng Sinh, vốn có từ 1.500 năm nay trở nên trống vắng, khác với trước được đông đảo các tín hữu hành hương. Chỉ có hai nhân viên cảnh sát đợi ở cửa ra vào, vài du khách xuống hang đá, nơi Chúa Cứu Thế sinh ra, khác hẳn với trước kia tín hữu thường phải chờ đợi cả tiếng đồng hồ mới đến lượt mình được vào đó để kính viếng.
Chiến đấu cho hy vọng
Chung quanh thánh đường, hầu hết các cửa tiệm bán đồ thủ công, đồ kỷ niệm, các ảnh tượng Giáng Sinh, nay đều đóng cửa. Những người làm đồ thủ công thất nghiệp vì không có khách hàng. Một người chủ tiệm, ông Rony ở đầu đường, đang cố gắng tìm cách bán các đồ kỷ niệm này ra nước ngoài, ông nhất định không muốn từ bỏ hy vọng.
Nữ tu Aleya thuộc Bệnh viện Nhi đồng của Caritas ở mạn bắc thành Bethlehem cũng cố gắng để gìn giữ hy vọng, bên cạnh bức tường cao tám mét cũng là biên giới với Israel. Bệnh viện này mỗi năm chữa trị khoảng 50.000 trẻ em Palestine và là nhà thương chuyên môn duy nhất trên lãnh thổ của Palestine, không những với phẩm chất y tế cao độ. Điều thiết yếu là chăm sóc cho các bệnh nhân cả về mặt nhân đạo: các em bệnh nhân và thân nhân thường phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu trạm kiểm soát của Israel mới đến được nhà thương nhi đồng này, và hầu hết họ là người Hồi giáo.
Chiến tranh trở thành tập quán
Hãng tin Công Giáo Đức cũng nhận định rằng dân chúng trở nên quen thuộc với chiến tranh và nhiều người nản chí trước những khó khăn, theo nhận xét của một Bề trên một hội dòng người Ấn Độ. Cha nói: “Chúng tôi cố gắng mang lại hy vọng phần nào qua sự săn sóc và qua đó cũng bày tỏ tình thương của Chúa”. Trên nguyên tắc, thành Bethlehem phải đương đầu với tình trạng bấp bênh giống như cách đây 2.000 năm, khi Chúa Giêsu sinh ra trong chuồng súc vật.”
Thánh lễ Giáng Sinh, ngày 24 tháng Mười Hai, theo niên lịch Latinh, được cử hành theo những quy luật nghiêm ngặt. Chiều hôm đó, Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa đến Bethlehem và đi rước theo Con đường Ngôi Sao đến Nhà thờ Giáng Sinh. Đi trong đoàn rước, có các nhóm hướng đạo sinh. Năm nay, không có kèn trống và ca đoàn. Đức Thượng phụ chào thăm ông Thị trưởng và các chức sắc của Giáo hội tại Quảng trường Máng Cỏ, trước khi tiến vào Nhà thờ Giáng Sinh.
Năm nay, không có vé được phát cho lễ đêm Giáng Sinh tại nhà thờ thánh nữ Catarina, trái ngược với những năm trước đây. Tín hữu nào cũng có thể đến dự lễ, đặc biệt là các tín hữu ở địa phương, nhưng cũng có các công nhân viên nước ngoài cũng như các nhà ngoại giao hoạt động ở vùng Tel Aviv. Hàng ghế đầu trong thánh đường được dành cho chính quyền Palestine. Người ta không rõ Tổng thống Mahmoud Abbas có đích thân dự lễ năm nay hay không, điều chắc chắn là ông không cần vé.
4. Diễn từ của Đức Thánh Cha trước Giáo triều Roma nhân dịp Giáng Sinh và Năm mới
Lúc 9 giờ 30, sáng thứ Bảy, ngày 21 tháng Mười Hai, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến khoảng bốn mươi Hồng Y, hơn bốn mươi giám mục và các vị lãnh đạo khác của Giáo triều Roma, trong đó có ba nữ tu, một phụ nữ và một số nam giáo dân, đến chúc mừng ngài nhân dịp Giáng Sinh 2024 và Năm mới 2025. Trong dịp này, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người “hãy chúc lành chứ đừng chúc dữ” (Rm 12,14).
Lên tiếng sau lời chúc mừng của Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, Niên trưởng Hồng Y đoàn, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến!
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Đức Hồng Y Re vì lời chào mừng và lời chúc tốt đẹp của ngài. Thật tuyệt khi thấy ngài không già đi! Cảm ơn Đức Hồng Y, vì tấm gương sẵn sàng phục vụ và tình yêu của ngài dành cho Giáo hội.
Đức Hồng Y Re đã nói về chiến tranh. Hôm qua, Đức Thượng phụ [Latinh] [của Giêrusalem] không được phép vào Gaza như đã hứa; và hôm qua trẻ em đã bị đánh bom. Đây là sự tàn ác. Đây không phải là chiến tranh. Tôi muốn nói với anh chị em điều này vì nó chạm đến trái tim tôi. Thưa Đức Hồng Y, cảm ơn Đức Hồng Y đã nhắc đến điều này, cảm ơn ngài!
Tựa đề của bài phát biểu này là “Hãy chúc phúc chứ đừng nguyền rủa”.
Giáo triều Rôma bao gồm nhiều cộng đồng làm việc, ít nhiều phức tạp hoặc đông đảo. Năm nay, khi nghĩ tới một suy gẫm có thể mang lại lợi ích cho đời sống cộng đồng tại Giáo triều và các văn phòng khác nhau của nó, tôi đã chọn một khía cạnh phù hợp với mầu nhiệm Nhập thể, và anh chị em sẽ thấy ngay lý do tại sao.
Tôi nghĩ đến việc nói tốt cho người khác và không nói xấu họ. Đây là điều liên quan đến tất cả chúng ta, bao gồm cả Đức Giáo Hoàng - giám mục, linh mục, người tận hiến và giáo dân. Về vấn đề này, tất cả chúng ta đều bình đẳng. Tại sao? Bởi vì đó là một phần trong bản chất con người của chúng ta.
Nói tốt và không nói xấu là biểu hiện của sự khiêm nhường, và sự khiêm nhường là dấu hiệu của Nhập thể và đặc biệt là mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh mà chúng ta sắp cử hành. Một cộng đồng giáo hội sống trong sự hòa hợp vui tươi và huynh đệ đến mức các thành viên của mình bước đi trên con đường khiêm nhường, từ chối nghĩ và nói xấu lẫn nhau.
Thánh Phaolô, khi viết thư cho cộng đồng ở Rôma, đã nói: “Hãy chúc phúc chứ đừng nguyền rủa” (Rm 12:14). Chúng ta cũng có thể hiểu lời của ngài có nghĩa là: “Hãy nói tốt và đừng nói xấu” người khác, trong trường hợp của chúng ta, những người cùng làm việc, cấp trên và đồng nghiệp, tất cả mọi người. Hãy nói tốt và đừng nói xấu.
Con đường tiến đến sự khiêm nhường: tự tố cáo mình
Hôm nay, tôi muốn đề xuất, như tôi đã đề xuất cách đây khoảng hai mươi năm tại một hội đồng giáo phận ở Buenos Aires, rằng tất cả chúng ta, như một cách để thể hiện sự khiêm nhường, hãy học cách tự tố cáo mình, như đã được các bậc thầy linh đạo cổ thời dạy, đặc biệt là Dorotheus xứ Gaza. Đúng vậy, Gaza, chính nơi hiện nay đồng nghĩa với cái chết và sự hủy diệt, là một thành phố khá cổ kính, nơi các tu viện và các vị thánh và thầy dậy lỗi lạc phát triển mạnh mẽ trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Dorotheus là một trong số họ. Theo bước chân của những Giáo phụ vĩ đại như Basil và Evagrius, ngài đã xây dựng Giáo hội bằng các tác phẩm và lá thư của mình, chứa đầy sự khôn ngoan của Tin Mừng. Ngày nay, bằng cách suy gẫm về những lời dạy của ngài, chúng ta có thể học cách khiêm nhường thông qua việc tự buộc tội, để không nói xấu người lân cận của mình. Đôi khi, trong lời nói hàng ngày, khi ai đó đưa ra lời bình luận chỉ trích, người khác sẽ nghĩ: “Hãy xem ai đang nói kìa!”. Đó là trong lời nói hàng ngày.
Trong một trong những “giáo huấn” của ngài Dorotheus nói, “Khi một điều xấu xảy ra với một người khiêm nhường, anh ta ngay lập tức nhìn vào bên trong và phán đoán rằng mình đáng bị như vậy. Anh ta cũng không cho phép mình chỉ trích hay đổ lỗi cho người khác. Anh ta chỉ đơn giản là chịu đựng khó khăn này, không làm ầm ĩ, không đau khổ và trong sự bình thản. Sự khiêm nhường không làm phiền anh ta hay bất cứ ai khác” (Dorotheus of Gaza, Oeuvres spirituelles, Paris 1963, số 30).
Và một lần nữa: “Đừng cố gắng biết lỗi lầm của người hàng xóm hoặc nuôi dưỡng sự nghi ngờ đối với họ. Nếu chính sự ác ý của chúng ta nảy sinh những nghi ngờ như vậy, hãy cố gắng biến chúng thành những suy nghĩ tốt” (ibid., số 187).
Tự tố cáo chỉ là một phương tiện, nhưng là phương tiện thiết yếu. Đó là cơ sở để chúng ta có thể nói “không” với chủ nghĩa cá nhân và “có” với tinh thần cộng đồng của Giáo hội. Những ai thực hành đức tính tự tố cáo và thực hiện điều đó một cách nhất quán sẽ dần dần được giải thoát khỏi sự nghi ngờ và ngờ vực, và tạo không gian cho Chúa, là Đấng duy nhất có thể gắn kết các trái tim. Nếu mọi người đều tiến triển trên con đường này, một cộng đồng có thể được sinh ra và phát triển, một cộng đồng mà tất cả đều là người bảo vệ lẫn nhau và cùng nhau bước đi trong sự khiêm nhường và bác ái. Khi chúng ta thấy một khuyết điểm ở một ai đó, chúng ta chỉ nên nói về khuyết điểm đó với ba người khác: với Chúa, với người đó hoặc nếu không thể, với người trong cộng đồng có thể giải quyết tình hình. Không ai khác.
Cơ sở của “phong cách” tự tố cáo thiêng liêng này là gì? Đó là sự hạ mình bên trong, bắt chước sự synkatábasis hay “sự hạ mình” của Ngôi Lời Thiên Chúa. Một trái tim khiêm nhường hạ mình xuống, giống như trái tim của Chúa Giêsu, Đấng mà trong những ngày này chúng ta chiêm ngưỡng nằm trong máng cỏ.
Đối diện với thảm kịch của một thế giới thường xuyên bị kìm kẹp bởi cái ác, Thiên Chúa làm gì? Người có đứng phắt lên một cách đầy chính trực của Người và xa xả lên án từ trên cao không? Theo một nghĩa nào đó, đó là điều được các tiên tri mong đợi, thậm chí cho đến thời của Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Thiên Chúa; tư tưởng của Người không phải là tư tưởng của chúng ta, và đường lối của Người không phải là đường lối của chúng ta (so sánh Is 55:8). Sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì có tính thần linh, là nghịch lý trong mắt chúng ta. Đấng Tối Cao chọn cách hạ mình, trở nên nhỏ bé, như hạt cải, như hạt giống của đàn ông trong tử cung của một người đàn bà. Vô hình. Theo cách này, Người bắt đầu gánh trên mình gánh nặng to lớn, không thể chịu đựng được của tội lỗi thế gian.
Sự hạ mình của Thiên Chúa được phản ảnh qua việc chúng ta tự tố cáo mình, một việc, về cơ bản không phải là hành vi đạo đức của riêng chúng ta, mà là một thực tại thần học - như luôn xảy ra trong đời sống Kitô hữu. Đó là một hồng phúc từ Thiên Chúa, công trình của Chúa Thánh Thần, mà chúng ta phải chấp nhận, “hạ mình” và sẵn sàng chào đón hồng phúc này vào trái tim mình. Đó là những gì Đức Trinh Nữ Maria đã làm. Ngài không có lý do gì để tự tố cáo mình, nhưng bà đã tự do lựa chọn hợp tác hoàn toàn vào sự hạ mình của Thiên Chúa, vào sự hạ mình của Chúa Con và vào sự giáng lâm của Chúa Thánh Thần. Theo nghĩa này, sự khiêm nhường cũng có thể được gọi là một nhân đức thần học.
Để giúp chúng ta hạ mình xuống, chúng ta có thể đến với Bí tích Hòa giải. Điều này sẽ giúp ích cho chúng ta. Mỗi người chúng ta có thể tự hỏi: Lần cuối cùng tôi đi xưng tội là khi nào?
Nhân tiện, tôi muốn đề cập thêm một điều nữa. Tôi đã nói về chuyện ngồi lê đôi mách một vài lần. Đây là một điều xấu phá hủy đời sống xã hội, khiến trái tim con người trở nên đau khổ và chẳng đi đến đâu cả. Người ta thường nói rất hay: “Chuyện ngồi lê đôi mách là vô nghĩa”. Hãy cẩn thận về điều này.
Chúng ta được chúc phúc, chúng ta hãy chúc phúc cho người khác
Anh chị em thân mến, Sự Nhập thể của Ngôi Lời cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không lên án chúng ta mà chỉ ban phước cho chúng ta. Hơn nữa, nó cho chúng ta thấy rằng trong Thiên Chúa không có sự lên án, mà chỉ có và luôn luôn ban phước.
Ở đây, chúng ta có thể nghĩ đến một số đoạn trong Thư của Thánh Catherine thành Siena, chẳng hạn như đoạn này: “Dường như [Thiên Chúa] không muốn nhớ đến những tội lỗi của chúng ta, hoặc kết án chúng ta phải chịu án phạt đời đời, nhưng muốn thể hiện lòng thương xót liên tục với chúng ta” (Thư, số 15). Và chúng ta cần nói về lòng thương xót!
Nhưng trên hết, chúng ta có thể nghĩ đến Thánh Phaolô và những lời đầu tiên tuyệt vời của thánh ca được tìm thấy ở phần đầu Thư gửi tín hữu Êphêsô:
“Chúc tụng Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã ban cho chúng ta trong Đức Kitô mọi phúc lành thiêng liêng ở các nơi trên trời” (1:3).
Ở đây, chúng ta tìm thấy nguồn gốc của khả năng “ban phúc” cho người khác: chính là vì bản thân chúng ta đã được ban phúc, nên chúng ta có thể ban phúc cho người khác. Chúng ta đã được ban phúc, nên chúng ta có thể ban phúc cho người khác.
Tất cả chúng ta cần phải lao vào chiều sâu của mầu nhiệm này; nếu không, chúng ta có nguy cơ khô cạn và trở nên giống như những kênh đào trống rỗng, khô cằn không còn chứa một giọt nước nào nữa. Ở đây, tại Giáo triều, công việc văn phòng thường khô cằn và về lâu dài, có thể khiến chúng ta khô héo trừ khi chúng ta làm mới lại bản thân thông qua công việc mục vụ, những khoảnh khắc gặp gỡ, tình bạn, trong tinh thần cởi mở và quảng đại. Về những trải nghiệm mục vụ, tôi đặc biệt hỏi những người trẻ tuổi liệu họ có bất cứ trải nghiệm mục vụ nào không, vì điều này rất quan trọng. Để điều này xảy ra, hơn bất cứ điều gì khác, chúng ta cần phải thực hiện Linh thao hằng năm: đắm mình trong ân sủng của Thiên Chúa, hoàn toàn đắm mình trong và thấm đẫm Chúa Thánh Thần trong những dòng nước ban sự sống mà nhờ đó, mỗi người chúng ta được mong muốn và yêu thương “ngay từ ban đầu”. Nếu trái tim chúng ta được ôm ấp bởi phước lành nguyên thủy đó, thì chúng ta sẽ có thể ban phước cho mọi người, ngay cả những người mà chúng ta không quan tâm hoặc những người đã đối xử tệ với chúng ta. Đây là trường hợp: chúng ta phải ban phước cho cả những người không thân thiện.
Mẫu gương mà chúng ta nên hướng đến, như mọi khi, là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của chúng ta. Đức Maria, tuyệt đối, là người được ban phước. Đó là cách bà Ê-li-sa-ve chào đón Mẹ trong Cuộc thăm viếng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc!” (Lc 1:42). Đó cũng là cách chúng ta nói với Mẹ trong “Kinh Kính Mừng”. Đức Mẹ đã mang đến cho chúng ta “phước lành thiêng liêng trong Chúa Kitô” (x. Eph 1:3) chắc chắn đã hiện diện “trên trời” trước mọi thời đại, nhưng cũng “trong thời viên mãn”, hiện diện trên trái đất, trong lịch sử loài người, khi Ngôi Lời Nhập Thể trở thành người (x. Gl 4:4). Chúa Kitô là phước lành đó. Người là hoa trái ban phước cho lòng mẹ; là Chúa Con ban phước cho Mẹ. Đức Trinh Nữ Maria có thể được ngỏ lời một cách chính đáng, theo lời của Dante, như “con gái của Con mẹ… khiêm nhường và cao cả hơn một tạo vật”. Đức Maria, như Đấng được ban phước, đã mang đến cho thế giới Phước lành là Chúa Giêsu. Có một bức tranh, mà tôi có trong phòng làm việc của mình, vẽ về synkatábasis. Đức Mẹ với đôi tay như một chiếc thang nhỏ, và Chúa Hài Đồng đang bước xuống thang. Chúa Hài Đồng cầm Luật trong một tay và tay kia nắm chặt mẹ mình để khỏi bị ngã. Đó là vai trò của Đức Mẹ: mang Chúa Hài Đồng. Và đây là những gì Mẹ làm trong trái tim chúng ta.
Những nghệ nhân ban phước
Anh chị em thân mến, khi chúng ta hướng về Đức Maria, hình ảnh và mẫu mực của Giáo hội, chúng ta được dẫn dắt để suy gẫm về chiều kích Giáo hội của việc ban phước lành này. Ở đây tôi sẽ tóm tắt theo cách này: trong Giáo hội, dấu chỉ và công cụ ban phước lành của Thiên Chúa cho nhân loại, tất cả chúng ta được kêu gọi trở thành những nghệ nhân ban phước lành. Không chỉ những người ban phước lành, mà còn là những nghệ nhân giảng dạy, sống như những nghệ nhân để ban phước lành cho người khác.
Chúng ta có thể nghĩ tới Giáo hội như một dòng sông lớn phân nhánh thành ngàn lẻ một dòng suối, dòng nước lũ, dòng suối nhỏ – hơi giống lưu vực sông Amazon – để tưới mát toàn bộ trái đất bằng phước lành của Thiên Chúa, chảy ra từ Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô.
Do đó, Giáo hội xuất hiện với chúng ta như sự hoàn thành kế hoạch mà Thiên Chúa đã mặc khải cho Áp-ra-ham ngay từ lúc đầu tiên Người gọi ông rời khỏi vùng đất của tổ tiên. Thiên Chúa đã nói với ông, “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn, và Ta sẽ ban phước cho ngươi... và trong ngươi, mọi gia tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc” (St 12:2-3). Kế hoạch này chi phối toàn bộ nhiệm cục giao ước của Thiên Chúa với dân Người, một dân tộc “được chọn” không theo nghĩa độc quyền, mà theo nghĩa: chúng ta, với tư cách là người Công Giáo, gọi là “bí tích”. Nói một cách ngắn gọn, bằng cách mang món quà phước lành đó đến cho mọi người thông qua tấm gương, chứng tá, lòng quảng đại và sự kiên nhẫn của chúng ta.
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã ban phước cho mọi người nam và nữ bước vào thế gian này, không phải bằng một sắc lệnh từ trời xuống, mà qua xác thịt của Chúa Giêsu, Chiên Con được sinh ra từ Đức Maria (x. Thánh Anselm, Or. 52).
Tôi thích nghĩ về Giáo triều Rôma như một xưởng lớn, nơi có vô số công việc khác nhau, nhưng mọi người đều làm việc vì cùng một mục đích: ban phước cho người khác và truyền bá phước lành của Thiên Chúa và Giáo hội Mẹ trên thế giới.
Ở đây, tôi đặc biệt nghĩ đến công việc thầm lặng do các nhân viên văn phòng thực hiện – những munitanti, một số người mà tôi thấy ở đây, họ rất tốt, cảm ơn anh chị em! – những người soạn thảo các lá thư đoan chắc với những người đang bị bệnh hoặc bị giam cầm, một người mẹ, người cha hoặc đứa con, một người già và rất nhiều người khác rằng Đức Giáo Hoàng đang cầu nguyện cho họ và rằng ngài sẽ ban phước lành. Cảm ơn anh chị em vì điều này, vì tôi đã ký những lá thư này. Đó không phải là để phục vụ như một nghệ nhân ban phước sao? Những người minutanti là những nghệ nhân ban phước thực sự. Họ kể với tôi rằng một vị linh mục thánh thiện từng làm việc nhiều năm trước tại Phủ Quốc vụ khanh đã dán một tờ giấy vào mặt sau cánh cửa văn phòng của mình có ghi: “Công việc của tôi thấp hèn, bị coi là thấp hèn và làm nhục người ta”. Có lẽ đây là cách nhìn tiêu cực, nhưng không phải là không có một chút sự thật và chủ nghĩa hiện thực lành mạnh. Đối với tôi, có thể hiểu theo cách tích cực, như thể hiện phong cách đặc trưng của những “nghệ nhân” của Giáo triều: sự khiêm nhường như một phương tiện để truyền bá “phước lành”. Đó là cách của chính Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để chia sẻ thân phận con người của chúng ta, và do đó ban phước lành cho chúng ta. Và tôi có thể làm chứng về điều này: trong Thông điệp gần đây của tôi về Thánh Tâm, mà Đức Hồng Y Re đã đề cập, có bao nhiêu người đã làm việc! Rất nhiều! Các bản thảo đã được trao đổi qua lại... Nhiều người trong số họ, với những việc nhỏ nhặt.
Các bạn thân mến, thật an ủi khi nghĩ rằng thông qua công việc hàng ngày của chúng ta, đặc biệt là những việc ẩn giấu, mỗi người chúng ta có thể giúp mang phước lành của Thiên Chúa đến với thế giới. Tuy nhiên, trong điều này, chúng ta phải nhất quán: chúng ta không thể viết những lời chúc phúc rồi sau đó lại tiếp tục phá hỏng chúng bằng cách nói xấu anh chị em mình. Vì vậy, đây là mong muốn của tôi: cầu xin Chúa, sinh ra cho chúng ta trong sự khiêm nhường, giúp chúng ta luôn là những người phụ nữ và đàn ông của lời chúc phúc.
Chúc mừng Giáng Sinh đến tất cả mọi người!