1. Tin vui cho Giáo Hội Việt Nam: Đức Thánh Cha bổ nhiệm Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Xuân Lộc

Hôm 24 tháng 8 năm 2024, Đức Tổng Giám Mục Marek Zalewski, Đại diện Toà Thánh thường trú tại Việt Nam thông báo:

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm Linh mục Đaminh Nguyễn Tuấn Anh, thuộc linh mục đoàn giáo phận Xuân Lộc, làm Giám Mục Phụ Tá giáo phận Xuân Lộc.

Tiểu sử Linh mục Đaminh Nguyễn Tuấn Anh

- Sinh ngày 09 Tháng Tư/1972 tại Tam Hiệp, Biên Hòa, Đồng Nai, thuộc giáo xứ Bùi Thái, giáo hạt Tân Mai

- 1990 – 1997: Tu sinh giáo phận Xuân Lộc

- 1997 – 2003: Tu học tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài gòn

- 2003 – 2005: Giúp giáo xứ Hiền Hòa, giáo phận Xuân Lộc

- Ngày 29 tháng 9 năm 2005: Được Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Trâm truyền chức Phó tế tại nhà thờ Chính tòa giáo phận Xuân Lộc

- Ngày 30 tháng 9 năm 2005: Được Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh truyền chức Linh mục tại nhà thờ Chính tòa giáo phận Xuân Lộc

- 2006 – 2013: Du học tại Pháp

- 2013: Tốt nghiệp học vị Thạc sĩ Thần học Luân lý tại Institut Catholique de Paris

- 2013 – 2016: Giáo sư môn Thần học Luân lý tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc

- 2016 – 2020: Du học tại Phi Luật Tân

- 2016 – 2018: Học Chương trình Tiến sĩ Thần học Luân lý tại Loyola School of Theology, Ateneo, Philippines

- 2019: Tham dự các khóa Đào tạo dành cho các nhà Đào tạo tại Emmaus Center, Ateneo

- 2020: Tham dự khóa Canh tân đời sống Linh mục tại Galilee Center, Tagaytay, Philippines

- Từ 2021 đến nay: Giáo sư Thần học Luân lý tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc

- Từ ngày 03 tháng 3 năm 2021 đến nay: Linh mục Tổng Đại diện giáo phận Xuân Lộc

- Ngày 24 tháng 8 năm 2024: Được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá giáo phận Xuân Lộc.

2. Lễ tôn phong một nữ chân phước tử đạo tại Hung Gia Lợi

Hôm 16 tháng Tám vừa qua, Tòa Tổng giám mục Veszprem bên Hung Gia Lợi thông báo lễ phong chân phước cho nữ tôi tớ Chúa Mária Magdolna Bódi (1921-1945), bị sát hại vì bảo vệ trinh tiết, sẽ được cử hành vào ngày 25 tháng Tư năm tới, 2025 tại Veszprem.

Maria Magdolna, tức là Mária Magdolna Bódi sinh ngày 08 tháng Tám năm 1921 trong một gia đình nghèo ở Szodliget. Cha mẹ cô đi làm thuê, không thể kết hôn chính thức với nhau vì không tìm được những giấy tờ của người cha, vì thế cô bị coi là con ngoại hôn. Dầu vậy ông bà vẫn đưa con tới nhà thờ Công Giáo xin rửa tội, vào ngày 15 tháng Tám sau đó. Mặc dù không được học giáo lý, nhưng Bódi vẫn được phép rước lễ lần đầu và cô tự học giáo lý một mình bằng cách mượn sách từ thư viện giáo xứ. Năm 17 tuổi, trong một tuần đại phúc, Bódi cảm thấy mình phải dâng hiến trọn cuộc sống cho Chúa Giêsu. Cô cảm thấy có ơn gọi sống đời tu chiêm niệm, nhưng hoàn cảnh gia đình của cô bấy giờ là một chướng ngại không thể vượt qua được.

Năm sau, cô Bódi làm công nhân trong một công xưởng hóa học, và với lòng tin, cô hoạt động không biết mệt mỏi giúp các trẻ em, người già và người nghèo. Bodi là một thiếu nữ có nhan sắc nên có nhiều người theo đuổi. Tuy nhiên, dù quý chuộng chức phận làm mẹ, nhưng cô xác tín mình sẽ không kết hôn. Lễ Chúa Kitô năm 1941, khi được 20 tuổi, sau nhiều suy nghĩ, Bodi khấn hứa riêng sống khiết tịnh vì Nước Trời.

Ngày 23 tháng Ba năm 1945, trong khi một số phụ nữ ở cửa vào một hầm chống máy bay oanh kích, thì có hai người lính Xô Viết đến làng Liter ở Hung Gia Lợi. Một trong hai người ấy tấn công Bódi, nhưng cô mạnh mẽ chống cự lại, chạy thoát được và báo động cho các bạn gái ở gần hầm. Trong khi đó, người lính toan hãm hiếp Bódi, mặt có vết máu vì sự chống cự của cô Bódi, đi tới cửa sau của hầm trú bom và bắn cô từ sau lưng với sáu phát đạn. Ngay sau khi bị phát súng đầu tiên, cô đã chắp tay lên trời và kêu lên: “Lạy Chúa là Vua của con, xin đón nhận linh hồn con!”. Rồi đút tay vào túi, cô nắm chặt chuỗi Mân côi. Một phát đạn khác trúng tim khiến cô ngã sấp mặt xuống đất. Lúc đó, cô mới được 24 tuổi.

Hai tuần sau đó, cha mẹ của Bódi được làm phép cưới ở nhà thờ, nhờ phép đặc biệt của Tòa Thánh, trong tình trạng khẩn trương. Từ đó họ sống đạo bình thường.

Cristiana Marinelli, nữ thỉnh nguyện viên án phong chân phước cho Bódi mô tả cô là một thiếu nữ khiêm tốn và đơn sơ. Cô cầu nguyện cho những người tội lỗi hoán cải, có lòng sùng kính Thánh Thể và Mẹ Maria, và coi đây là trọng tâm đời sống thiêng liêng. Cô dạy các trẻ em cách đến gần Chúa Kitô. Trong một hoàn cảnh lịch sử khó khăn và bi thảm, cô nêu chứng tá rõ ràng, phù hợp với niềm tin, và điều này thu hút những người khác. Những người lân cận cảm phục và ngưỡng mộ và coi cô như người thánh.

Trong thời kỳ cộng sản, án phong chân phước cho cô Bódi đã được Đức Hồng Y Mindszenty, Giáo chủ Công Giáo Hung Gia Lợi khởi sự, nhưng rồi bị ngưng lại. Mãi cho đến năm 2011, Đức Cha Gyula Marfi, nguyên Tổng giám mục Giáo phận Veszprem, mới khởi sự lại án phong ở cấp giáo phận, và sau đó toàn bộ hồ sơ được gửi về Bộ Phong thánh để cứu xét. Ban đầu, cha Gergely Kovacs là thỉnh nguyện viên án phong, nhưng sau khi ngài được bổ làm Tổng giám mục Giáo phận Alba Julia, thì bà Cristiana Marinelli tiếp tục công việc thỉnh nguyện viên. Bà cũng đảm trách các án phong chân phước cho các vị khác ở Hung Gia Lợi, trong đó có Sandor Balin (1904-1980) và Đức Cha Aron Marton (1896-1980).

Ngày 23 tháng Năm vừa qua, Đức Thánh Cha đã cho phép Bộ Phong thánh công bố sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của nữ tôi tớ Chúa Mária Magdolna Bódi và nay, với sự chấp thuận của Tòa Thánh, Đức Tổng Giám Mục Giáo phận Veszprem thông báo ngày lễ phong chân phước.

3. Nhật Ký Trừ Tà số 305 Ác quỷ đưa ra lời đề nghị với nhà trừ quỷ

Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #305: Demons Offer Exorcist A Deal”, nghĩa là “Nhật Ký Trừ Tà số 305 Ác quỷ đưa ra lời đề nghị với nhà trừ quỷ”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Vào buổi chiều, tôi có buổi trừ tà với một trong những vụ lớn nhất của chúng tôi. Sau một năm rưỡi với những buổi điều trị hàng tuần mạnh mẽ, thuộc địa của ma quỷ cuối cùng đã bắt đầu sụp đổ và lũ quỷ đang rời đi. Sáng hôm đó, tôi đang trò chuyện với một người phụ nữ tài năng ở giáo phận khác. Cô ấy nói, “Con có cảm hứng rằng những con quỷ trong trường hợp của cha sẽ cố gắng thực hiện một 'thỏa thuận' với cha.” Tôi cảm ơn cô ấy vì lời khuyên.

Vài giờ sau, khi kết thúc phiên họp kéo dài hai giờ, con quỷ đứng đầu nói: “Tôi muốn đạt được một thỏa thuận!” Vì lời khuyên trước đó, tôi đã sẵn sàng cho lời đề nghị bất thường nhất của ma quỷ này. Tôi trả lời: “Ngươi muốn thực hiện một thỏa thuận à? Được rồi. Đây là thỏa thuận: 'Ngươi xéo đi.' Đó là thỏa thuận.” Phản ứng của ma quỷ: im lặng. Khoảng nửa giờ sau, con quỷ đó và lũ tay sai của hắn rời đi. Rõ ràng là tôi không hề thỏa thuận với lũ quỷ. Hóa ra dù sao thì họ cũng sẽ rời đi.

Ác quỷ không bao giờ thực hiện những thỏa thuận công bằng. Chúng là những kẻ nói dối và lừa dối. Chúng sẽ không bao giờ cho bạn một thỏa thuận tốt hoặc một thỏa thuận trung thực trong trường hợp đó. Chúng sẽ hứa hẹn mọi thứ, có thể cho bạn một chút hương vị hấp dẫn, rồi kéo tấm thảm dưới chân bạn ra. Ma quỷ thực sự không thể cho bất cứ thứ gì tốt vì chúng không có thứ gì tốt để cho. Rất nhanh chóng, bạn sẽ ước mình chưa bao giờ thực hiện thỏa thuận này.

Khi nói chuyện với những người bị quỷ ám và thực hiện những giao dịch như vậy, họ thường yêu cầu quyền lực, sự giàu có, công việc, thành công, sức khỏe hoặc tình yêu. Họ có thể đã thực hiện một thỏa thuận như vậy một cách vô tình. Ví dụ, bất cứ khi nào ai đó sử dụng bùa chú để đạt được thứ gì đó, điều đó ngầm hiểu rằng họ đang lập một giao ước với Satan.

Điều bạn không biết là anh ta sẽ đòi hỏi gì từ bạn. Một điều tôi nhận thấy là những người đã dành nhiều năm trong lĩnh vực huyền bí, wicca, phù thủy, bói toán hoặc những thứ tương tự thường là những người đen tối, ủ rũ, không vui và tức giận. Và khi họ cố gắng thoát khỏi sự huyền bí và quay trở lại với đức tin, đó là lúc ma quỷ lộ diện: chúng tra tấn và hành hạ con người một cách không thương tiếc.

Lý do duy nhất mà lũ quỷ muốn thực hiện một “thỏa thuận” với tôi là vì dù sao thì chúng cũng sẽ rời đi và hy vọng nhận lại được thứ gì đó. Quan trọng nhất, nếu tôi thực hiện một thỏa thuận như vậy thì ít nhất một phần của tôi sẽ nằm dưới sự kiểm soát của họ. Như điển hình với một thỏa thuận ma quỷ, họ sẽ nhận được thứ gì đó mà không mất gì.

Với tư cách là một nhà trừ quỷ, tôi có thể bị cám dỗ thỏa thuận với lũ quỷ để giải thoát một người đau khổ. Tương tự như vậy, thỉnh thoảng người ta nghe nói về một người đề nghị nhập hồn ma quỷ vào người khác để cứu người kia. Đây là một ý tưởng rất tồi và tôi cảnh báo các thành viên trong nhóm không nên làm vậy. Nếu bạn đối đầu với ác quỷ của ai đó trong một “thỏa thuận”, bạn chỉ khiến mọi thứ RẤT NHIỀU tồi tệ hơn. Tôi nói rõ ràng với họ: “Đừng làm điều đó!”

Không có thỏa thuận với ma quỷ. Satan là một tên trộm. Mặt khác, Thiên Chúa thì vô cùng quảng đại. Hãy đón nhận những gì Chúa gửi đến cho bạn với lòng khiêm nhường và vâng phục. Hãy tin rằng những gì Chúa gửi đến thực sự là tốt nhất cho bạn, bất kể bạn muốn gì. Đây là điều đã chiến thắng Ma Ác: sự vâng phục, khiêm nhường và tin tưởng vào Thiên Chúa. Và đây là điều mà Satan không có.

4. Các nhà khoa học khẳng định khăn liệm thành Turin có cùng thời Chúa Giêsu sống

Tờ The Daily Mail có trụ sở ở London có bài tường trình nhan đề “Is this proof the Turin Shroud IS real? Scientists make startling discovery after analysing cloth 'Jesus was buried in'“, nghĩa là “Đây có phải là bằng chứng Tấm vải liệm Turin LÀ có thật? Các nhà khoa học có khám phá đáng kinh ngạc sau khi phân tích tấm vải 'Chúa Giêsu được liệm'“. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Cẩm Yến

Tấm vải liệm gây tranh cãi - được một số người cho là dùng để chôn cất Chúa Giêsu - đã khiến thế giới bối rối trong nhiều thế kỷ.

Khi được trưng bày lần đầu tiên vào những năm 1350, tấm vải liệm Turin được quảng cáo là tấm vải liệm thực sự dùng để bọc thi thể bị cắt xén của Chúa Kitô sau khi Ngài bị đóng đinh.

Còn được gọi là Tấm vải liệm Thánh, nó mang hình ảnh mờ nhạt phía trước và phía sau của một người đàn ông có râu, mà nhiều tín hữu cho rằng thi thể của Chúa Giêsu được in một cách kỳ diệu lên tấm vải.

Nhưng có những nghiên cứu vào những năm 1980 dường như đã bác bỏ ý kiến cho rằng nó có thật sau khi xác định niên đại của nó là từ thời Trung cổ, hàng trăm năm sau cái chết của Chúa Kitô.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu người Ý đã sử dụng kỹ thuật mới liên quan đến tia X để xác định vật liệu này đã xác nhận rằng nó được sản xuất vào thời Chúa Giêsu khoảng 2.000 năm trước.

Họ nói rằng thực tế các mốc thời gian cộng lại tạo nên sự tin cậy cho ý tưởng rằng hình ảnh mờ nhạt, đẫm máu của một người đàn ông khoanh tay trước ngực là do xác chết của Chúa Giêsu để lại.

Kinh thánh kể rằng Ông Giuse người Arimathea đã bọc thi thể của Chúa Giêsu trong một tấm vải liệm và đặt bên trong ngôi mộ.

Thánh Mátthêu viết: “Khi đã nhận thi hài, ông Giuse lấy tấm vải gai sạch mà liệm, và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về.” (Mt 27:59-60)

Tấm vải liệm đã thu hút trí tưởng tượng của các nhà sử học, các nhà lãnh đạo Giáo Hội, những người hoài nghi và người Công Giáo kể từ khi nó được ra mắt công chúng lần đầu tiên vào những năm 1350.

Nó đã được bảo tồn từ năm 1578 trong nhà nguyện của nhà thờ San Giovanni Battista ở Turin, Ý.

Tấm vải dường như hiển thị những hình ảnh màu nâu mờ ở mặt trước và mặt sau, mô tả một người đàn ông gầy gò với đôi mắt trũng sâu, cao khoảng 1,73 mét đến 1,82m.

Các dấu vết trên cơ thể cũng tương ứng với các vết thương bị đóng đinh của Chúa Giêsu được đề cập trong Kinh thánh, bao gồm vết gai trên đầu, vết rách trên lưng và vết bầm tím trên vai.

Các nhà sử học cho rằng cây thánh giá mà Ngài vác trên vai nặng khoảng 136 kg, có thể gây ra vết bầm tím.

Kinh thánh kể rằng Chúa Giêsu đã bị người Rôma đánh đòn, với những vết rách trên lưng, họ cũng đội vương miện gai trên đầu Ngài trước khi đóng đinh Ngài.

Năm 1988, một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đã phân tích một mảnh nhỏ của tấm vải liệm bằng phương pháp xác định niên đại bằng carbon và xác định tấm vải dường như được sản xuất vào khoảng giữa năm 1260 và 1390 sau Chúa Giáng Sinh.

Kỹ thuật này sử dụng sự phân rã của đồng vị phóng xạ carbon (14C) để đo thời gian và ngày tháng của các đối tượng chứa vật liệu có carbon trong đó.

Một số chuyên gia nói rằng tính xác thực của tấm vải lanh không còn phải bàn cãi nữa, cho rằng nó được làm từ cây lanh trồng ở Trung Đông và có vương miện gai trên mặt một người đàn ông.

Tuy nhiên, những người khác vẫn cho rằng nó là giả do phân tích niên đại bằng carbon phóng xạ năm 1988 được thực hiện tại ba phòng thí nghiệm khác nhau, tất cả đều xác định rằng nó chỉ mới có bảy thế kỷ.

Đối với nghiên cứu mới, các nhà khoa học tại Viện Tinh thể học của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Ý đã tiến hành một nghiên cứu gần đây sử dụng tán xạ tia X góc rộng, gọi tắt là WAXS.

Kỹ thuật này đo lường sự lão hóa tự nhiên của cellulose lanh và chuyển đổi nó theo thời gian kể từ khi sản xuất.

Nhóm nghiên cứu đã thực hiện các quan sát trong tám mẫu vải nhỏ từ Tấm vải liệm Turin, đặt chúng dưới tia X để khám phá những chi tiết nhỏ về cấu trúc và kiểu cellulose của vải lanh.

Cellulose được tạo thành từ các chuỗi phân tử đường dài liên kết với nhau và bị đứt theo thời gian, cho thấy quần áo hoặc vải đã tồn tại được bao lâu.

Để xác định niên đại của tấm vải liệm, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các thông số lão hóa cụ thể, bao gồm nhiệt độ và độ ẩm, là những nguyên nhân gây ra sự phân hủy đáng kể cellulose.

Dựa trên mức độ hư hỏng, nhóm nghiên cứu xác định rằng tấm vải liệm Turin có khả năng được giữ ở nhiệt độ khoảng 72,5 độ F và độ ẩm tương đối khoảng 55% trong khoảng 13 thế kỷ trước khi nó đến Âu Châu.

Nếu nó được giữ ở những điều kiện khác nhau thì quá trình lão hóa sẽ khác nhau.

Sau đó, các nhà nghiên cứu so sánh sự phân hủy cellulose trong tấm vải liệm với các loại vải lanh khác được tìm thấy ở Israel có từ thế kỷ thứ nhất.

'Các cấu hình dữ liệu hoàn toàn tương thích với các phép đo tương tự thu được trên một mẫu vải lanh có niên đại, theo ghi chép lịch sử, là từ năm 55 đến 74 sau Chúa Giáng Sinh, được tìm thấy tại Masada, Israel. Đó là pháo đài nổi tiếng của Herôđê được xây dựng trên nền đá vôi nhìn ra Biển Chết.’

Nhóm nghiên cứu cũng so sánh tấm vải liệm với các mẫu vải lanh được sản xuất từ năm 1260 đến năm 1390 sau Chúa Giáng Sinh và không tìm thấy tấm vải nào trùng khớp.

Nghiên cứu cho biết: “Để làm cho kết quả hiện tại tương thích với kết quả của thử nghiệm carbon phóng xạ năm 1988, Tấm vải liệm lẽ ra phải được bảo tồn trong suốt 7 thế kỷ tồn tại giả định của nó ở nhiệt độ phòng rất gần với giá trị tối đa được ghi nhận trên trái đất”..

Tác giả chính, Tiến sĩ Liberato De Caro cho biết trong một tuyên bố rằng thử nghiệm năm 1988 được coi là không chính xác vì 'Các mẫu vải thường bị nhiễm tất cả các loại ô nhiễm, không thể loại bỏ hoàn toàn khỏi mẫu vật đã cũ'.

Ông nói thêm: “Nếu quy trình làm sạch mẫu không được thực hiện kỹ lưỡng thì việc xác định niên đại bằng carbon-14 sẽ không đáng tin cậy”.

‘Điều này có thể đã xảy ra vào năm 1988, như được xác nhận bằng các bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng khi di chuyển từ ngoại vi về phía trung tâm của tấm vải, dọc theo cạnh dài nhất, có sự gia tăng đáng kể lượng carbon-14.’

Các nhà khoa học từ lâu đã nghiên cứu Tấm vải liệm Turin với hy vọng giải đáp được bí ẩn hàng thế kỷ.

Hơn 170 bài báo học thuật đã được xuất bản về loại vải lanh bí ẩn kể từ những năm 1980, trong đó nhiều người kết luận nó là thật.

Thử nghiệm vào những năm 1970 đã xem xét liệu những hình ảnh này có được tạo ra thông qua sơn, thiêu đốt hay các tác nhân khác hay không, nhưng không ai có thể xác nhận được chúng.

Một nhóm chuyên gia khác của Viện Tinh thể học công bố vào năm 2017 rằng họ đã tìm thấy bằng chứng cho thấy tấm vải liệm có dính máu của một nạn nhân bị tra tấn.

Họ tuyên bố đã xác định được các chất như creatinine và ferritin thường được tìm thấy ở những bệnh nhân bị chấn thương mạnh.

Để kết luận Tiến sĩ Liberato De Caro xác quyết rằng tấm vải này có vào thời Chúa Giêsu.


Source:Daily Mail