MỘT CHÚT TÂM TÌNH CỎ HOA
1. CHUYỆN MỘT THỜI CHƯA XA
Đã có một thời xa lắm, khoảng những năm 1947-1954, tuổi trẻ chúng tôi mê mẩn đọc những sách truyện dịch nhiều chương hồi, như Tam Quốc, Thủy Hử, Sử Ký Tư Mã Thiên.v.v… Trở về với khung cảnh xứ đạo – làng quê thì lại sẵn có một thứ văn học rất đặc thù là kinh sách, ca vãn, tuồng truyện. Nhà nhà, người người cứ là ra rả ngâm ngợi hoặc vùi đầu vào Sấm Truyền Cũ và Hạnh Các Thánh. Sách in đẹp, chữ lớn, lại có nhiều tranh ảnh minh họa. Vừa đọc vừa mân mê, nương ghé từng trang giấy mỏng tanh còn thơm mùi lá trầm, hoa sứ, ai đánh dấu sẵn trong ấy. Lại cũng có một thời chưa xa lắm (1955-1970) – khi chiến tranh rình rập ngay trước cửa nhà mình – ai nấy đọc Hồn Bướm Mơ Tiên, Tiêu Sơn Tráng Sĩ, Bướm Trắng, Gió Đầu Mùa, Nắng Trong Vườn của Tự Lực Văn Đoàn. Hít thở một làn gió mới từ văn học Tây phương. Thế rồi giặc giã đao binh cường tập, sống nay chết mai, học hành, cơm áo bấp bênh. Truyện võ hiệp kỳ tình của Kim Dung được dịp du nhập ồ ạt. Đi đến đâu, gặp người nào cũng thấy ăn, nói, viết và cả triết lý sặc mùi “luyện chưởng”. Trong bối cảnh nhập nhằng sáng tối ấy, đỏ con mắt mà chẳng tìm đâu ra bóng dáng những tập truyện Công Giáo. Có chăng, là nghe thiên hạ kể về Một Linh Hồn (1940) của Thụy An; Chân Trời Cũ (1941) của Hồ Dzếnh; Những Ngày Đẫm Máu (1953) của Phương Khanh; Đời Anh (1959) của Võ Thanh; Trái Cam Máu (1959) của Nguyễn Duy Tôn và Xóm Giáo (1965) của Hà Châu. Mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm chợt ẩn chợt hiện, lẻ loi, hoa trôi bèo dạt.
Mãi đến thập niên 1962 – 1974 – thời đại nở rộ của báo chí Công Giáo – trên tờ Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hoặc nhật báo Xây Dựng, Hòa Bình mới thấy xuất hiện trang mục dành cho người làm thơ viết truyện ngắn Công Giáo. Một nhóm thập phương tứ xứ chúng tôi, là linh mục, tu sĩ, giáo dân – dưới trướng của những chủ bút Hồng Phúc, Đào Hiến Toàn, Chân Tín – bỗng dưng không hẹn mà gặp. Xuân Ly Băng, Trăng Thập Tự, Đình Quang, Thanh Huệ, Từ Khang Yến, Lý Thụy Ý, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nhất Tuấn, Minh Quân, Phạm Hữu Phước, Thụy Anh, Đình Bảng, Nguyễn Thạch Kiên, Lệ Khánh, Ngọc Phương, Nguyễn Tầm Thường, Đơn Phương đã ươm trồng được một khu vườn văn học Công Giáo khá chất lượng, đông vui. Riêng tờ Nguyện san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp thì đã mở ra được hai cuộc “quần hùng tụ hội”, quy tụ nhiều tên tuổi, nhiều thể loại sáng tác có giá trị1. Thế rồi, từ buổi ấy đến nay, chẳng hiểu sao đời sống văn học nghệ thuật Công Giáo Việt Nam bỗng dưng im hơi lặng tiếng đến khó ngờ…
2. VẪN HẮT HIU MỘT NỖI NHỚ
Nhiều lần, qua các buổi hội thảo, tọa đàm về văn hóa Công Giáo ở nhiều cấp độ2 hoặc trong những chuyện trò ngẫu hứng ở nơi này nơi khác, bản thân tôi xót xa khi nghe các bạn văn thơ ngoài đời bảo, Công Giáo các ông làm gì có thiểu thuyết và truyện ngắn! Trong khi đó, Phật giáo cứ là bao la bát ngát; còn làng văn làng báo thì trăm hoa đua nở, hết thế hệ này sang thế hệ kia. Mấy năm trở lại đây, vẫn còn thấy cái bóng xum xuê của những cây đa cây đề như Nguyễn Khải, Xuân Sách, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Chu Lai. Rồi bỗng vụt sáng lên những ngôi sao Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Quế Hương, Phan Triều Hải, Nguyên Hương và mới đây hiện tượng Cánh Đồng Bất Tận của nhà văn nữ trẻ tuổi ở miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long, Nguyễn Ngọc Tư. Không phải họ trên trời rớt xuống đâu. Cũng chẳng phải họ xuất thân từ trường lớp đào tạo chuyên môn nào cả đâu3 Thực tế là họ đều phải kinh qua một quá trình tự thân để trải nghiệm rèn luyện và sáng tạo, kể cả mang vác khổ giá trên thân mình.
Nói thế, không ngụ ý che chắn, ngụy biện. Nhưng là để chúng ta – những người cầm bút – cảm thông với Hội Thánh, với các đấng bậc chuyên trách. Bao đời rổi, Hội Thánh chúng ta yêu cứ như đứng chênh vênh giữa hai bờ sông, bên này là rao giảng Đức Tin bằng Bí Tích – Phụng Vụ - Mục Vụ dày đặc thánh thiêng và bên kia là số phận ngoài lề của văn hóa nghệ thuật. Chúng mình hiểu nỗi thao thức của Hội Thánh và chia sẻ đến tận cùng cả nỗi riêng tây khuất tất, u ẩn của những người trót nặng nợ cầm bút Công Giáo. Họ khát khao cháy bỏng một “sân chơi”, một “đất hứa” để ương ấp, gieo trồng, gặt hái, phơi phong, làm chứng tá cho “Lời Chúa đã mặc xác phàm và ở giữa chúng ta” Nhưng nhìn quẩn quanh, đìu hiu vài tờ báo khô khan, lạc lõng mà bản thân cũng chẳng ưa gì thơ văn. Có chăng là sự bố thí, là sự lấp đầy những trang giấy còn bỏ trống. Vậy đấy…
3. NÉN BẠC CHÚA TRAO VÀO TAY BẠN
Từ suy nghĩ ấy và để kế thừa truyền thống rất hào hiệp của nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Ban tổ chức – Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế - Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và Nhà Sách Đức Mẹ - đã chủ động khởi xướng “Giải Văn Học Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – Cuộc thi viết Truyện Ngắn 2006”.
Trong thời gian mở và khóa sổ (từ 08-09-2006 đến 31-05-2007), chúng tôi vui mừng đã nhận được 163 tác phẩm gởi về dự thi, từ các địa phương, ở mọi độ tuổi, ngành nghề, viết chuyên và không chuyên. Con số 163 tuy rất khiêm tốn so với 400 của năm 1969, nhưng với bước đầu thử nghiệm, ít nhất, chúng tôi đã có được một gặp gỡ, trao đổi thật quý báu, ngoài dự tưởng. Gần 200 tác phẩm của gần 200 tác giả dự thi, qua thông tin rất hạn hẹp của một xứ đạo – nhà sách, (trong số đó có người gửi tới 2,3 hoặc 4,5 tác phẩm), thiết nghĩ, đã khiến chúng tôi hạnh phúc đến nao lòng.
Bởi đã tìm đúng mạch ngầm, đã sới lên một vỉa quặng và khơi được những tia nước mát lành. Để hợp lưu thành dòng chảy đủ sức tưới tắm cho thời vụ mùa màng của Hội Thánh, là công việc tiếp sức chung chung tay của các bạn. Những mong sao có được những tác giả, tác phẩm, những tuyển tập truyện ngắn Công Giáo in ấn trang nhã, xứng tầm và được phát hành rộng rãi đến cho mọi người yêu truyện. Được như thế, một phần nào, các bạn cùng chúng tôi đã gieo vãi trồng cấy, đức tin bén rễ sâu gốc bền vào dòng chảy chung, phản ánh sinh động hơi thở đời sống Công Giáo đương đại trong văn hóa nghệ thuật của cộng đồng dân tộc VN thân yêu này vậy.
Bởi vì mấy trăm năm trước đây – trong hoàn cảnh và điều kiện lịch sử, xã hội còn khó khăn phức tạp trăm bề - tiền nhân ông cha ta đã sớm bắc được một nhịp cầu hội nhập văn hóa bằng cách chuyển dịch, biên tập và sáng tác cả một kho tàng kinh sách, ca vãn, tuồng truyện. Vô vàn cảm ơn các thế hệ tiên phong đã có công khai phá, gầy dựng, đặt cơ sở cho hôm nay và mai sau. Từ Majorica, Đắc Lộ, Bentô Thiện, các Thầy Giảng; từ Lữ Y Đoan, Đặng Đức Tuấn, Philipphê Bỉnh, Phan Văn Minh; từ Petrus Ký, Paulus Của, Nguyễn Trọng Quản, L.Cadière; Trần Lục, Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Thiện Bá, Nguyễn Văn Thích, đến Hàn Mạc Tử, Tống Viết Toại, Mai Lâm, Long Giang Tử, Hồ Dzếnh, Bàng Bá Lân, Phạm Đình Khiêm, Võ Long Tê, Nguyễn Thế Thuấn, G.Gagnon, Cao Vĩnh Phan, Xuân Ly Băng, Trương Đình Hòe và cả chúng ta ngày nay nữa4.
Cơm gạo nuôi ta phần xác, Đức tin văn hóa nghệ thuật nuôi ta phần hồn. Các bạn đã và đang đồng hành với chúng tôi trên lộ trình ấy của Hội Thánh. Không lẽ chúng ta mãi cất giấu đi những nén bạc Chúa cho? Phải sinh sôi nảy nở bằng năm bằng mười, để chia sẻ với mọi người. Đấy là mối phúc là điều răn; là lời mời gọi của Thiên Chúa và Hội Thánh muốn gửi gắm chúng ta. Copiosa apud Nos Redemptio.
Ơi những người bạn: Nguyễn Thị Diệm, Bích Duyên, Thảo Nguyên, My La, Văn Dũng, Đặng Ngọc Hạnh, Nguyễn Công Kha, Trịnh Quế Hương, Anh Nhàn, Thái Quý, Quốc Tâm, Thi Nguyễn, Thanh Trường, Hoàng Thùy Trang, Ngọc Yến…
4. TRUYỆN NGẮN VÀ TRUYỆN NGẮN Công Giáo
Trở lại câu chuyện của chúng ta. Truyện ngắn và truyện ngắn Công Giáo.
Thế nào là truyện ngắn? Đơn giản là một tác phẩm văn xuối, viết ngắn về một “chốc lát”, về một “khoảnh khắc” nào đó trong cái “thường ngày” của đời sống. Tự giới hạn về thời gian, không gian, nhân vật và sự kiện, nên truyện ngắn có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời, về con người5. Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu6, truyện ngắn là một thể loại giống như một anh chàng vừa dễ tính, vừa khó tính. Nó vẫy gọi những người mới tập tễnh cầm bút, nhưng cầm bút đến lúc về già lại đâm ra sợ nó, vì thấy quá khó.
Về hình thức, nói đến truyện ngắn là nói đến nghệ thuật của bố cục và sự hàm súc. Nó có gì giống như kỹ thuật của người làm pháo. Dồn nén tư tưởng vào trong một cái cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên. Những người viết truyện ngắn bậc thầy đều cao tay trong kỹ thuật dựng truyện và tinh xảo trong ngôn ngữ. Về nội dung, chỉ trong vài trang giấy, người viết phải truyền đến cho người đọc cái điều mà anh vừa khám phá thấy trong đời sống thường nhật của những người xung quanh anh. Vài trang giấy ít ỏi kia sẽ mãi mãi sống với người đời, nếu cái điều anh đề cập là mới mẻ, độc đáo và thực là thiết thân đối với đông đảo mọi người…
Tôi thường hình dung truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoảng gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc. Với truyện ngắn, điều chính yếu là kêu gọi sự liên tưởng của người đọc. Tôi thích những người viết truyện ngắn có tư tưởng cao sâu mà câu chuyện vẫn dung dị, thoải mái, nội dung, chi tiết vẫn là nội dung, chi tiết của đời sống thường ngày. Tôi cũng thích những truyện ngắn chẳng nói điều gì to tát, thậm chí chẳng có gì mới mẻ lắm, mà chỉ nói sâu vào điều người khác đã nói nhưng văn hay, chân thực, ý tình toát ra trong từng câu chữ.
Còn truyện ngắn Công Giáo thì sao?
Không phải cứ chấm phá, thêm thắt một hai từ ngữ, vài ba hình ảnh, chi tiết về Chúa, Đức Mẹ, thánh giá, nhà thờ, lễ lạy kinh hạt, linh mục, tu sĩ, con chiên là ta đã có được một tác phẩm Công Giáo đâu. Trong thế giới ca từ của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Nguyễn Văn Quỳ, Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Việt, Trịnh Công Sơn, ta gặp thiếu gì những “Chiều bên giáo đường, tiếng chuông nhà thờ, đức tin, hạt bụi hóa kiếp”. Huy Cận, Chế Lan Viên, Đinh Hùng, Kiên Giang, Quách Thoại, Nguyễn Việt Hà, hơn một lần đã viết về “Thượng Đế, ngày hằng sống, Chúa trên cao, thiên đàng, hỏa ngục, cơ hội của Chúa”.
Thế nhưng, liệu các nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật có dám khẳng định họ là những nhạc sĩ viết thánh nhạc, thánh ca, là những nhà thơ, nhà văn Công Giáo? Trộm nghĩ, đấy chỉ là những vang bóng, những thanh âm, những sắc màu ẩn dụ khơi gợi cảm xúc chủ quan rất đáng trân trọng của tác giả hơn là cảm xúc thật của tôn giáo, của tín đồ. Trong khi đó, vang động lòng ta thế nào, khi va chạm vào ngôn ngữ thơ Công Giáo của Hàn Mạc Tử:
Đây rồi, đây rồi chuỗi ngọc vàng kinh
Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý
Trượng phu lời và Tông đồ triết lý
Là nguồn trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh.
(Ave Maria)
Và thật ngẫu nhiên khi đi sâu vào đời và nghiệp của Hồ Dzếnh, bản thân tôi đã bắt gặp ở ông, chân dung một con chiên ngoan đạo mang tên thánh Paul Thérèse, một nhà văn viết truyện rất giàu tính Công Giáo. Không khiên cưỡng, gò bó, không máy móc, áp đặt. Rất nhẹ nhàng mà sâu lắng như Thạch Lam7 và Mai Thảo8 đã nhận định là “Hồ Dzếnh tìm trú ẩn trong tôn giáo”. Tính Công Giáo của Hồ Dzếnh phơi mở trong những truyện ngắn và cả trong những tùy bút đăng trên tạp chí Thanh Niên, trong tác phẩm Đầu Xuân9 Ta thử đọc và ngẫm nghĩ đôi hàng tự sự của ông nhé.
“Nhà thờ rộng mênh mông và sâu thăm thẳm. Những người đi lễ đã về hết… Tôi quỳ lâu lắm, không biết đã đọc những kinh gì, nhưng chắc chắn là đã đọc nhiều”
(Mơ về Nước Chúa, trg 88)
“Bây giờ tôi đã đi đạo, vì tôi xét ra là tôn giáo rất cần cho sự tìm hiểu cái nghĩa tinh thần của cuộc sống. Hằng ngày đọc kinh, hằng tuần quỳ trước tòa giải tội, tôi thấy tôi trong sạch hơn lên”.
(Vừa Một Kiếp Người, trg 90)
“Khi nhìn lên tượng Chúa, thấy từ đấy tỏa ra một lẽ thiêng liêng, nhân từ và đẹp đẽ”.
(Vừa Một Kiếp Người, trg 116)
Để kết luận, tôi thấy câu nói của văn hào Guenter Grass vẫn đúng. Rằng cho dù thế giới này tiến bộ đến đâu, có thực dụng đến mấy thì “chẳng có gì có thể thay thế văn hóa đọc”. Vậy đấy, thưa các bạn việt truyện ngắn Công Giáo. Con đường phía trước rộng mở thênh thang. Mời bạn cầm bút, viết và viết, bạn nhé. Một công chúng đông đảo đang khấp khởi đợi chờ, để đọc, để cảm và để mừng với nhau.
Ngoại ô, mùa mưa, 7-2007.
1. CHUYỆN MỘT THỜI CHƯA XA
Đã có một thời xa lắm, khoảng những năm 1947-1954, tuổi trẻ chúng tôi mê mẩn đọc những sách truyện dịch nhiều chương hồi, như Tam Quốc, Thủy Hử, Sử Ký Tư Mã Thiên.v.v… Trở về với khung cảnh xứ đạo – làng quê thì lại sẵn có một thứ văn học rất đặc thù là kinh sách, ca vãn, tuồng truyện. Nhà nhà, người người cứ là ra rả ngâm ngợi hoặc vùi đầu vào Sấm Truyền Cũ và Hạnh Các Thánh. Sách in đẹp, chữ lớn, lại có nhiều tranh ảnh minh họa. Vừa đọc vừa mân mê, nương ghé từng trang giấy mỏng tanh còn thơm mùi lá trầm, hoa sứ, ai đánh dấu sẵn trong ấy. Lại cũng có một thời chưa xa lắm (1955-1970) – khi chiến tranh rình rập ngay trước cửa nhà mình – ai nấy đọc Hồn Bướm Mơ Tiên, Tiêu Sơn Tráng Sĩ, Bướm Trắng, Gió Đầu Mùa, Nắng Trong Vườn của Tự Lực Văn Đoàn. Hít thở một làn gió mới từ văn học Tây phương. Thế rồi giặc giã đao binh cường tập, sống nay chết mai, học hành, cơm áo bấp bênh. Truyện võ hiệp kỳ tình của Kim Dung được dịp du nhập ồ ạt. Đi đến đâu, gặp người nào cũng thấy ăn, nói, viết và cả triết lý sặc mùi “luyện chưởng”. Trong bối cảnh nhập nhằng sáng tối ấy, đỏ con mắt mà chẳng tìm đâu ra bóng dáng những tập truyện Công Giáo. Có chăng, là nghe thiên hạ kể về Một Linh Hồn (1940) của Thụy An; Chân Trời Cũ (1941) của Hồ Dzếnh; Những Ngày Đẫm Máu (1953) của Phương Khanh; Đời Anh (1959) của Võ Thanh; Trái Cam Máu (1959) của Nguyễn Duy Tôn và Xóm Giáo (1965) của Hà Châu. Mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm chợt ẩn chợt hiện, lẻ loi, hoa trôi bèo dạt.
Mãi đến thập niên 1962 – 1974 – thời đại nở rộ của báo chí Công Giáo – trên tờ Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hoặc nhật báo Xây Dựng, Hòa Bình mới thấy xuất hiện trang mục dành cho người làm thơ viết truyện ngắn Công Giáo. Một nhóm thập phương tứ xứ chúng tôi, là linh mục, tu sĩ, giáo dân – dưới trướng của những chủ bút Hồng Phúc, Đào Hiến Toàn, Chân Tín – bỗng dưng không hẹn mà gặp. Xuân Ly Băng, Trăng Thập Tự, Đình Quang, Thanh Huệ, Từ Khang Yến, Lý Thụy Ý, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nhất Tuấn, Minh Quân, Phạm Hữu Phước, Thụy Anh, Đình Bảng, Nguyễn Thạch Kiên, Lệ Khánh, Ngọc Phương, Nguyễn Tầm Thường, Đơn Phương đã ươm trồng được một khu vườn văn học Công Giáo khá chất lượng, đông vui. Riêng tờ Nguyện san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp thì đã mở ra được hai cuộc “quần hùng tụ hội”, quy tụ nhiều tên tuổi, nhiều thể loại sáng tác có giá trị1. Thế rồi, từ buổi ấy đến nay, chẳng hiểu sao đời sống văn học nghệ thuật Công Giáo Việt Nam bỗng dưng im hơi lặng tiếng đến khó ngờ…
2. VẪN HẮT HIU MỘT NỖI NHỚ
Nhiều lần, qua các buổi hội thảo, tọa đàm về văn hóa Công Giáo ở nhiều cấp độ2 hoặc trong những chuyện trò ngẫu hứng ở nơi này nơi khác, bản thân tôi xót xa khi nghe các bạn văn thơ ngoài đời bảo, Công Giáo các ông làm gì có thiểu thuyết và truyện ngắn! Trong khi đó, Phật giáo cứ là bao la bát ngát; còn làng văn làng báo thì trăm hoa đua nở, hết thế hệ này sang thế hệ kia. Mấy năm trở lại đây, vẫn còn thấy cái bóng xum xuê của những cây đa cây đề như Nguyễn Khải, Xuân Sách, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Chu Lai. Rồi bỗng vụt sáng lên những ngôi sao Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Quế Hương, Phan Triều Hải, Nguyên Hương và mới đây hiện tượng Cánh Đồng Bất Tận của nhà văn nữ trẻ tuổi ở miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long, Nguyễn Ngọc Tư. Không phải họ trên trời rớt xuống đâu. Cũng chẳng phải họ xuất thân từ trường lớp đào tạo chuyên môn nào cả đâu3 Thực tế là họ đều phải kinh qua một quá trình tự thân để trải nghiệm rèn luyện và sáng tạo, kể cả mang vác khổ giá trên thân mình.
Nói thế, không ngụ ý che chắn, ngụy biện. Nhưng là để chúng ta – những người cầm bút – cảm thông với Hội Thánh, với các đấng bậc chuyên trách. Bao đời rổi, Hội Thánh chúng ta yêu cứ như đứng chênh vênh giữa hai bờ sông, bên này là rao giảng Đức Tin bằng Bí Tích – Phụng Vụ - Mục Vụ dày đặc thánh thiêng và bên kia là số phận ngoài lề của văn hóa nghệ thuật. Chúng mình hiểu nỗi thao thức của Hội Thánh và chia sẻ đến tận cùng cả nỗi riêng tây khuất tất, u ẩn của những người trót nặng nợ cầm bút Công Giáo. Họ khát khao cháy bỏng một “sân chơi”, một “đất hứa” để ương ấp, gieo trồng, gặt hái, phơi phong, làm chứng tá cho “Lời Chúa đã mặc xác phàm và ở giữa chúng ta” Nhưng nhìn quẩn quanh, đìu hiu vài tờ báo khô khan, lạc lõng mà bản thân cũng chẳng ưa gì thơ văn. Có chăng là sự bố thí, là sự lấp đầy những trang giấy còn bỏ trống. Vậy đấy…
3. NÉN BẠC CHÚA TRAO VÀO TAY BẠN
Từ suy nghĩ ấy và để kế thừa truyền thống rất hào hiệp của nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Ban tổ chức – Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế - Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và Nhà Sách Đức Mẹ - đã chủ động khởi xướng “Giải Văn Học Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – Cuộc thi viết Truyện Ngắn 2006”.
Trong thời gian mở và khóa sổ (từ 08-09-2006 đến 31-05-2007), chúng tôi vui mừng đã nhận được 163 tác phẩm gởi về dự thi, từ các địa phương, ở mọi độ tuổi, ngành nghề, viết chuyên và không chuyên. Con số 163 tuy rất khiêm tốn so với 400 của năm 1969, nhưng với bước đầu thử nghiệm, ít nhất, chúng tôi đã có được một gặp gỡ, trao đổi thật quý báu, ngoài dự tưởng. Gần 200 tác phẩm của gần 200 tác giả dự thi, qua thông tin rất hạn hẹp của một xứ đạo – nhà sách, (trong số đó có người gửi tới 2,3 hoặc 4,5 tác phẩm), thiết nghĩ, đã khiến chúng tôi hạnh phúc đến nao lòng.
Bởi đã tìm đúng mạch ngầm, đã sới lên một vỉa quặng và khơi được những tia nước mát lành. Để hợp lưu thành dòng chảy đủ sức tưới tắm cho thời vụ mùa màng của Hội Thánh, là công việc tiếp sức chung chung tay của các bạn. Những mong sao có được những tác giả, tác phẩm, những tuyển tập truyện ngắn Công Giáo in ấn trang nhã, xứng tầm và được phát hành rộng rãi đến cho mọi người yêu truyện. Được như thế, một phần nào, các bạn cùng chúng tôi đã gieo vãi trồng cấy, đức tin bén rễ sâu gốc bền vào dòng chảy chung, phản ánh sinh động hơi thở đời sống Công Giáo đương đại trong văn hóa nghệ thuật của cộng đồng dân tộc VN thân yêu này vậy.
Bởi vì mấy trăm năm trước đây – trong hoàn cảnh và điều kiện lịch sử, xã hội còn khó khăn phức tạp trăm bề - tiền nhân ông cha ta đã sớm bắc được một nhịp cầu hội nhập văn hóa bằng cách chuyển dịch, biên tập và sáng tác cả một kho tàng kinh sách, ca vãn, tuồng truyện. Vô vàn cảm ơn các thế hệ tiên phong đã có công khai phá, gầy dựng, đặt cơ sở cho hôm nay và mai sau. Từ Majorica, Đắc Lộ, Bentô Thiện, các Thầy Giảng; từ Lữ Y Đoan, Đặng Đức Tuấn, Philipphê Bỉnh, Phan Văn Minh; từ Petrus Ký, Paulus Của, Nguyễn Trọng Quản, L.Cadière; Trần Lục, Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Thiện Bá, Nguyễn Văn Thích, đến Hàn Mạc Tử, Tống Viết Toại, Mai Lâm, Long Giang Tử, Hồ Dzếnh, Bàng Bá Lân, Phạm Đình Khiêm, Võ Long Tê, Nguyễn Thế Thuấn, G.Gagnon, Cao Vĩnh Phan, Xuân Ly Băng, Trương Đình Hòe và cả chúng ta ngày nay nữa4.
Cơm gạo nuôi ta phần xác, Đức tin văn hóa nghệ thuật nuôi ta phần hồn. Các bạn đã và đang đồng hành với chúng tôi trên lộ trình ấy của Hội Thánh. Không lẽ chúng ta mãi cất giấu đi những nén bạc Chúa cho? Phải sinh sôi nảy nở bằng năm bằng mười, để chia sẻ với mọi người. Đấy là mối phúc là điều răn; là lời mời gọi của Thiên Chúa và Hội Thánh muốn gửi gắm chúng ta. Copiosa apud Nos Redemptio.
Ơi những người bạn: Nguyễn Thị Diệm, Bích Duyên, Thảo Nguyên, My La, Văn Dũng, Đặng Ngọc Hạnh, Nguyễn Công Kha, Trịnh Quế Hương, Anh Nhàn, Thái Quý, Quốc Tâm, Thi Nguyễn, Thanh Trường, Hoàng Thùy Trang, Ngọc Yến…
4. TRUYỆN NGẮN VÀ TRUYỆN NGẮN Công Giáo
Trở lại câu chuyện của chúng ta. Truyện ngắn và truyện ngắn Công Giáo.
Thế nào là truyện ngắn? Đơn giản là một tác phẩm văn xuối, viết ngắn về một “chốc lát”, về một “khoảnh khắc” nào đó trong cái “thường ngày” của đời sống. Tự giới hạn về thời gian, không gian, nhân vật và sự kiện, nên truyện ngắn có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời, về con người5. Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu6, truyện ngắn là một thể loại giống như một anh chàng vừa dễ tính, vừa khó tính. Nó vẫy gọi những người mới tập tễnh cầm bút, nhưng cầm bút đến lúc về già lại đâm ra sợ nó, vì thấy quá khó.
Về hình thức, nói đến truyện ngắn là nói đến nghệ thuật của bố cục và sự hàm súc. Nó có gì giống như kỹ thuật của người làm pháo. Dồn nén tư tưởng vào trong một cái cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên. Những người viết truyện ngắn bậc thầy đều cao tay trong kỹ thuật dựng truyện và tinh xảo trong ngôn ngữ. Về nội dung, chỉ trong vài trang giấy, người viết phải truyền đến cho người đọc cái điều mà anh vừa khám phá thấy trong đời sống thường nhật của những người xung quanh anh. Vài trang giấy ít ỏi kia sẽ mãi mãi sống với người đời, nếu cái điều anh đề cập là mới mẻ, độc đáo và thực là thiết thân đối với đông đảo mọi người…
Tôi thường hình dung truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoảng gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc. Với truyện ngắn, điều chính yếu là kêu gọi sự liên tưởng của người đọc. Tôi thích những người viết truyện ngắn có tư tưởng cao sâu mà câu chuyện vẫn dung dị, thoải mái, nội dung, chi tiết vẫn là nội dung, chi tiết của đời sống thường ngày. Tôi cũng thích những truyện ngắn chẳng nói điều gì to tát, thậm chí chẳng có gì mới mẻ lắm, mà chỉ nói sâu vào điều người khác đã nói nhưng văn hay, chân thực, ý tình toát ra trong từng câu chữ.
Còn truyện ngắn Công Giáo thì sao?
Không phải cứ chấm phá, thêm thắt một hai từ ngữ, vài ba hình ảnh, chi tiết về Chúa, Đức Mẹ, thánh giá, nhà thờ, lễ lạy kinh hạt, linh mục, tu sĩ, con chiên là ta đã có được một tác phẩm Công Giáo đâu. Trong thế giới ca từ của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Nguyễn Văn Quỳ, Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Việt, Trịnh Công Sơn, ta gặp thiếu gì những “Chiều bên giáo đường, tiếng chuông nhà thờ, đức tin, hạt bụi hóa kiếp”. Huy Cận, Chế Lan Viên, Đinh Hùng, Kiên Giang, Quách Thoại, Nguyễn Việt Hà, hơn một lần đã viết về “Thượng Đế, ngày hằng sống, Chúa trên cao, thiên đàng, hỏa ngục, cơ hội của Chúa”.
Thế nhưng, liệu các nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật có dám khẳng định họ là những nhạc sĩ viết thánh nhạc, thánh ca, là những nhà thơ, nhà văn Công Giáo? Trộm nghĩ, đấy chỉ là những vang bóng, những thanh âm, những sắc màu ẩn dụ khơi gợi cảm xúc chủ quan rất đáng trân trọng của tác giả hơn là cảm xúc thật của tôn giáo, của tín đồ. Trong khi đó, vang động lòng ta thế nào, khi va chạm vào ngôn ngữ thơ Công Giáo của Hàn Mạc Tử:
Đây rồi, đây rồi chuỗi ngọc vàng kinh
Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý
Trượng phu lời và Tông đồ triết lý
Là nguồn trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh.
(Ave Maria)
Và thật ngẫu nhiên khi đi sâu vào đời và nghiệp của Hồ Dzếnh, bản thân tôi đã bắt gặp ở ông, chân dung một con chiên ngoan đạo mang tên thánh Paul Thérèse, một nhà văn viết truyện rất giàu tính Công Giáo. Không khiên cưỡng, gò bó, không máy móc, áp đặt. Rất nhẹ nhàng mà sâu lắng như Thạch Lam7 và Mai Thảo8 đã nhận định là “Hồ Dzếnh tìm trú ẩn trong tôn giáo”. Tính Công Giáo của Hồ Dzếnh phơi mở trong những truyện ngắn và cả trong những tùy bút đăng trên tạp chí Thanh Niên, trong tác phẩm Đầu Xuân9 Ta thử đọc và ngẫm nghĩ đôi hàng tự sự của ông nhé.
“Nhà thờ rộng mênh mông và sâu thăm thẳm. Những người đi lễ đã về hết… Tôi quỳ lâu lắm, không biết đã đọc những kinh gì, nhưng chắc chắn là đã đọc nhiều”
(Mơ về Nước Chúa, trg 88)
“Bây giờ tôi đã đi đạo, vì tôi xét ra là tôn giáo rất cần cho sự tìm hiểu cái nghĩa tinh thần của cuộc sống. Hằng ngày đọc kinh, hằng tuần quỳ trước tòa giải tội, tôi thấy tôi trong sạch hơn lên”.
(Vừa Một Kiếp Người, trg 90)
“Khi nhìn lên tượng Chúa, thấy từ đấy tỏa ra một lẽ thiêng liêng, nhân từ và đẹp đẽ”.
(Vừa Một Kiếp Người, trg 116)
Để kết luận, tôi thấy câu nói của văn hào Guenter Grass vẫn đúng. Rằng cho dù thế giới này tiến bộ đến đâu, có thực dụng đến mấy thì “chẳng có gì có thể thay thế văn hóa đọc”. Vậy đấy, thưa các bạn việt truyện ngắn Công Giáo. Con đường phía trước rộng mở thênh thang. Mời bạn cầm bút, viết và viết, bạn nhé. Một công chúng đông đảo đang khấp khởi đợi chờ, để đọc, để cảm và để mừng với nhau.
Ngoại ô, mùa mưa, 7-2007.