Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Trong bài phân tích nhan đề “2 Great Icons for the Great Jubilee: St. John Paul II and Blessed Stefan Wyszyński”, nghĩa là “2 Biểu tượng vĩ đại cho Đại Năm Thánh: Thánh Gioan Phaolô II và Chân phước Stefan Wyszyński” đăng trên tờ National Catholic Register ngày 31 tháng 12 Năm, 2024, ngài phân tích về khả thể Giáo Hội có Đại Năm Thánh Ngoại Thường 2033, kỷ niệm 2000 năm cuộc thương khó, cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Năm Thánh 2025 là năm thánh “bình thường”, được tổ chức 25 năm một lần. Tuy nhiên, năm này như thể nằm giữa năm thánh ngàn năm 2000, khi Đức Gioan Phaolô đặt việc kỷ niệm vào trọng tâm của Tân Phúc Âm hóa, và năm 2033, hai thiên niên kỷ kể từ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Thỉnh thoảng, các năm thánh “ngoại thường” được Đức Giáo Hoàng đương nhiệm triệu tập. Năm gần đây nhất là Năm Thánh Lòng Thương Xót 2015-2016, do Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban bố. Trước đó, đã có các năm thánh ngoại thường vào năm 1933 và 1983, được ban bố để đánh dấu kỷ niệm 1.900 năm và 1.950 năm Cứu Chuộc.
Những lễ kỷ niệm ngoại thường đó đã đặt ra tiền lệ cho “Đại lễ kỷ niệm 2033”, như tôi gọi. Cũng như trong lịch sử, mầu nhiệm cứu chuộc theo sau mầu nhiệm nhập thể, thì Đại lễ kỷ niệm 2033 cũng sẽ theo sau Đại lễ kỷ niệm 2000. Mầu nhiệm nhập thể phục vụ cho mục đích của ơn cứu chuộc; Giáng Sinh được hoàn thành vào Lễ Phục sinh.
Trong khi Vatican đang bận rộn với năm thánh hiện tại, họ đã chỉ ra rằng cần phải làm một điều gì đó lớn lao để đánh dấu năm 2033. Có thể tự tin dự đoán rằng đó sẽ là một năm thánh, mặc dù thuật ngữ “Đại Năm thánh” của tôi có được thông qua hay không vẫn còn phải chờ xem.
Thánh Gioan Phaolô đã tuyên bố một năm Thánh Mẫu đặc biệt vào năm 1987-1988 như một sự chuẩn bị cho Đại Năm Thánh 2000, được định thời gian gần đúng với lễ kỷ niệm 2.000 năm ngày Đức Mẹ Maria sinh hạ Chúa Cứu Thế. Tương tự như vậy, sẽ là điều không thể tưởng tượng được nếu năm 2031 không được tuyên bố là năm Thánh Mẫu — nhưng không phải là một đại lễ nghiêm ngặt — để đánh dấu 500 năm kể từ khi Đức Mẹ hiện ra tại Guadalupe. Từ Năm Thánh 2025 đến Năm Thánh Mẫu 2031 đến Đại Năm Thánh 2033, Giáo hội sẽ đánh dấu gần một thập niên dài của các sự kiện kỷ niệm ngoại thường.
Nói rộng hơn, Giáo hội đã sống khoảnh khắc thiên niên kỷ trong 45 năm, khi Đức Gioan Phaolô tập trung sự chú ý vào Năm Thánh mừng kính ngay từ những ngày đầu của triều đại giáo hoàng của ngài. Ngài đã dạy Giáo hội về các lễ mừng kính, dựa trên kinh nghiệm của ngài ở Ba Lan.
Những lời mở đầu trong thông điệp đầu tiên của ngài năm 1979 đã đề cập đến điều này, tuyên bố rằng, “Chúa Giêsu Kitô là trung tâm của vũ trụ và lịch sử” và rằng “thời điểm này… đã rất gần đến năm 2000”.
Khi Đức Gioan Phaolô II viết điều đó, thì còn 21 năm nữa mới đến năm 2000. Nhưng ngài đã biết rằng ngài sẽ dẫn dắt Giáo hội vào thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo. Làm sao ngài biết điều đó? Bởi vì ngài đã được một nhân vật vô cùng đáng tin cậy nói cho biết điều đó.
Trong mật nghị tháng 10 năm 1978, khi cuộc bỏ phiếu chuyển sang hướng của Hồng Y Karol Wojtyła của Kraków, vị Hồng Y người Ba Lan lớn tuổi và là giáo chủ của Ba Lan, Tổng giám mục Warsaw Stefan Wyszyński, đã nói chuyện với em trai của mình là Hồng Y người Ba Lan. Năm 1994, Đức Gioan Phaolô II tiết lộ, “Đức Hồng Y Wyszyński đã nói với tôi: 'Nếu Chúa đã gọi anh, anh phải đưa Giáo hội vào thiên niên kỷ thứ ba!'“
Để hiểu tại sao những lời đó, lời tiên tri đó, lại vang vọng trong sâu thẳm tâm hồn Công Giáo và Ba Lan của Hồng Y Wojtyła, cần phải biết đến hình ảnh của Hồng Y Wyszyński. Ba Lan đã cho chúng ta hai nhà lãnh đạo Công Giáo vĩ đại nhất của thế kỷ 20: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ở vị trí thứ nhất và Hồng Y Wyszyński ở vị trí thứ hai.
Cho đến năm 1978, Hồng Y Wojtyła là nhân vật cấp dưới của vị Hồng Y anh hùng. Tại các mật nghị năm 1978, giới truyền thông đã bị cuốn hút bởi vị Hồng Y đến từ Kraków, người đã đi trượt tuyết.
Đức Hồng Y Wojtyła trả lời câu hỏi của họ về việc liệu việc một Hồng Y trượt tuyết có phải là không phù hợp hay không: “Điều đó không phải là bất thường ở Ba Lan. Ở Ba Lan, 40% các Hồng Y trượt tuyết.” Khi các phóng viên chỉ ra rằng chỉ có hai Hồng Y ở Ba Lan, Đức Wojtyła giải thích. “Ở Ba Lan, Đức Hồng Y Wyszyński chiếm 60%.”
Đức Hồng Y Wyszyński, được phong chân phước vào năm 2021, đã đóng góp rất lớn trong cuộc chiến vĩ đại chống lại chủ nghĩa cộng sản vô thần. Thế giới biết về mối quan hệ đối tác tuyệt vời của Karol Wojtyła và Joseph Ratzinger. Cần phải biết nhiều hơn về mối quan hệ đối tác tuyệt vời trước đó, của Wyszyński và Wojtyła.
Đức Hồng Y Wyszyński là tổng giám mục Warsaw và là giáo chủ của Ba Lan từ năm 1948 đến năm 1981 — 33 năm chiến đấu hàng ngày với đế chế độc ác Liên Xô. Năm 1953, chế độ cộng sản Ba Lan đã bắt giữ Đức Hồng Y Wyszyński với những cáo buộc bịa đặt và giam giữ ngài tại gia trong ba năm.
Năm 1956, Đức Hồng Y Wyszyński được trả tự do. Ngài đã tận dụng thời gian bị giam giữ của mình một cách có ích. Khi được thả, ngài đã công bố một chương trình đầy tham vọng kéo dài một thập niên cho lễ kỷ niệm vào năm 1966 để mừng 1.000 năm đức tin Kitô của Ba Lan, từ lễ rửa tội năm 966 của Hoàng tử Mieszko I của triều đại Piast.
Đức Hồng Y Wyszyński đề xuất một “Đại Novena”: chín năm truyền giáo, giáo lý và đào tạo để chuẩn bị cho năm 1966, khi toàn thể Ba Lan sẽ tái cam kết với lời thề rửa tội của mình. Thông điệp rất rõ ràng: Ba Lan là một quốc gia Kitô giáo, bất kể chế độ đương nhiệm là một chế độ vô thần. Đức tin Công Giáo của họ sẽ được đổi mới trong Đại Novena; sự kháng cự về mặt văn hóa sẽ là sự bảo vệ của Giáo hội đối với người dân Ba Lan chống lại chế độ do Liên Xô áp đặt.
Năm 1966, Đức Hồng Y Wyszyński đã kỷ niệm thiên niên kỷ vĩ đại trước một cuộc tụ họp lớn tại Częstochowa, với Tổng giám mục Wojtyła của Kraków bên cạnh. Đức Hồng Y Wyszyński đã mời Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục tham dự lễ kỷ niệm thiên niên kỷ năm 1966; chế độ đã chặn lời mời.
Khi Đức Giáo Hoàng Đức Gioan Phaolô II lần đầu tiên đến Ba Lan vào tháng 6 năm 1979, ngài đã mở đầu bài giảng kết thúc Đế chế Xô Viết bằng cách nhắc đến thiên niên kỷ 1966. Ngài giải thích rằng ngài hiện đang làm những gì mà Thánh Phaolô Đệ Lục đã bị ngăn cản không được làm. Thiên niên kỷ Ba Lan đã hoàn tất.
Vào tháng 3 năm 1979, trong thông điệp đầu tiên của mình, Đức Gioan Phaolô II đã hướng tới thiên niên kỷ thứ hai vào năm 2000. Vào tháng 6 năm 1979, ngài thực hiện chuyến hành hương đầu tiên đến Ba Lan trong bối cảnh thiên niên kỷ 1966.
Lễ kỷ niệm năm 1966 vô cùng quan trọng đến nỗi Đức Hồng Y Wyszyński được biết đến đơn giản với tên gọi “Giáo chủ của Thiên niên kỷ”. Tại mật nghị vào tháng 10 năm 1978, giáo chủ của thiên niên kỷ Ba Lan đã trao ngọn đuốc cho giáo hoàng của thiên niên kỷ thứ ba.
Đức Gioan Phaolô đã viết vào năm 1994 rằng: “Việc chuẩn bị cho năm 2000 đã trở thành chìa khóa giải thích cho Triều đại Giáo hoàng của tôi”.
Vậy thì điều gì sẽ xảy ra nếu Đức Gioan Phaolô II bị sát hại 19 năm trước Đại Năm Thánh năm 2000?
Trong khi Đức Gioan Phaolô II nằm trong bệnh viện để hồi phục vết thương sau vụ ám sát ngày 13 tháng 5 năm 1981, Đức Hồng Y Wyszyński nằm trong bệnh viện Warsaw, hấp hối vì ung thư bụng. Hai vị giám mục Ba Lan vĩ đại đã nói chuyện qua điện thoại từ giường bệnh của mình. Vị giáo chủ, thở hổn hển, đã cầu xin Đức Thánh Cha ban phước lành. Chắc hẳn cả hai đều tự hỏi liệu lời tiên tri về thiên niên kỷ của Đức Hồng Y Wyszyński có được ứng nghiệm hay không. Đức Hồng Y Wyszyński sẽ qua đời vào ngày 28 tháng 5, là ngày mà bây giờ là ngày lễ của ngài.
Đức Gioan Phaolô II đã hồi phục, cho rằng sự sống sót của mình là nhờ sự chuyển cầu của Đức Mẹ Fatima, vào đúng ngày lễ của Đức Mẹ, vụ nổ súng đã diễn ra. Sau đó, giữa Năm Thánh, ngài đã trở lại Fatima. Mục đích bề ngoài của chuyến đi Fatima là để phong chân phước cho hai đứa trẻ chăn chiên, Jacinta và Francisco.
Lý do sâu xa hơn trở nên rõ ràng khi ngài đến đền thờ và quỳ xuống trước bức tượng và tặng một món quà, một chiếc hộp nhỏ, cho bức tượng Đức Mẹ Fatima. Đó là một chiếc nhẫn. Không phải chiếc nhẫn ngài đeo hàng ngày, mà là một chiếc nhẫn đặc biệt mà Đức Hồng Y của Thiên niên kỷ đã tặng ngài khi ngài được bầu làm giáo hoàng. Khi trao chiếc nhẫn một cách tượng trưng cho đền thờ Fatima, Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố rằng sứ mệnh đã hoàn thành. Chân phước Stefan Wyszyński đã trao cho ngài một sứ mệnh, và sứ mệnh đó đã bị đe dọa đến tính mạng vào ngày 13 tháng 5 năm 1981. Sự phục hồi kỳ diệu của ngài đã giúp hoàn thành sứ mệnh. Sự phục hồi đó là do Đức Maria thực hiện, như Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Một viên đạn đã được bắn ra; nhưng một bàn tay khác đã điều khiển viên đạn”.
Bàn tay dẫn dắt của Đấng Quan Phòng trong lịch sử là mục đích của những năm đại xá, để nhắc nhở rằng mọi thứ, kể cả món quà thời gian, đều là món quà từ Thiên Chúa — trên hết là từ Con của Người là Chúa Giêsu Kitô.
Vào nửa đêm giao thừa năm 1999, Đức Gioan Phaolô đã xuất hiện tại cửa sổ nhìn ra Quảng trường Thánh Phêrô và nói những lời này vào khoảnh khắc đầu tiên của thiên niên kỷ mới, những lời phù hợp cho mọi lễ kỷ niệm: “Chúng ta hãy bước vào năm 2000 với đôi mắt hướng về mầu nhiệm Nhập thể. Chúa Kitô, hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Thời gian và các thời đại thuộc về Người. Vinh quang và quyền thống trị thuộc về Người đến muôn đời. Amen!”
Những lời này được trích từ lời cầu nguyện khi làm phép nến Phục Sinh trong đêm vọng Phục Sinh và hướng sự chú ý ngay từ bây giờ tới Đại Năm Thánh 2033.
Source:National Catholic Register