Có nhiều dữ kiện xác định Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Chúng không phải là bằng chứng của sự sống lại, nhưng chúng có điểm chung. Điểm chung đó nói đến sự hiện hữu của Đức Kitô Phục Sinh. Dữ kiện thứ nhất đến từ chính Thiên Chúa. Dữ kiện thứ hai đến từ sứ giả, thiên thần của Thiên Chúa, và dữ kiện thứ ba đến từ loài người. Hai dữ kiện đầu ta không thể kiểm chứng nhưng dữ kiện thứ ba đến từ loài người ta có thể kiểm chứng. Những bà phụ nữ mang Tin Vui Đức Kitô Phục Sinh. Khi ra đi thăm mộ vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lòng các bà buồn vời vợi. Các bà còn nói với nhau ai giúp dời tảng đá lớn che cửa mộ. Những điều này cho biết các bà hoàn toàn không hề biết chút xíu nào về tin Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Mục đích của chuyến đi là đi ướp xác người bạn thân, xác Đức Kitô. Các bà mang theo hương vị dùng để ướp xác Đức Kitô, người đã chết. Điểm này nói lên trong thâm tâm các bà, Đức Kitô đã thực sự chết và cần tẩm liệm đàng hoàng.

An táng Ngài cách vội vã vào tối thứ Sáu, lúc đó ai cũng vội vàng bởi trời gần tối; hơn nữa lại sắp bước sang ngày Sabath là ngày không được làm việc. Thương nhớ, sầu muộn, nước mắt vắn dài còn nóng trên má. Đau khổ hơn nữa, ra đến mộ, cửa mộ đã mở tan hoang; lòng các bà quặn đau khi nhìn vào, chỉ còn chỗ Ngài đã nằm, còn xác người thân biến mất. Các bà vội báo tin cho môn đệ Đức Kitô. Tin lời các bà, các ông vội chạy ra mộ và thấy đúng như những gì các bà đã tường thuật.

Nắng đã lên, giờ thiên hạ đi làm việc. Các bà trở lại mộ lần thứ hai trong ngày, lần này các bà gặp một người, tưởng đó là người làm vườn. Các bà hỏi nếu ông có lấy xác bạn tôi làm ơn nói để ở đâu để chúng tôi đến lấy xác Ngài. Người đó gọi tên bà, Mary. Cái tên đơn giản đó, bà nhận ngay ra người bà tưởng là người làm vườn, ngở đâu lại chính là Thầy mình, Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Ngài nói với bà hãy đi thông báo cho anh em Ta là Ta sẽ gặp họ tại Galilê. Các bà báo tin cho môn đệ lần thứ hai, lần này là tin vui. Các ông tin lời các bà như đã tin hồi sáng sớm. Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông. Sự kiện xảy ra khi Tôma không có mặt lúc đó. Khi ông trở về, anh em báo Tin Vui nhưng ông đòi bằng chứng. Không ai có thể thoả mãn điều Tôma yêu cầu. May thay, tám ngày sau, lúc đó có mặt Tôma, Đức Kitô hiện đến với các ông, Ngài nói với Tôma, 'Đưa tay đây, xỏ ngón tay vào lỗ đinh nơi bàn tay Thầy'.

Tôma vội thưa,

'Lậy Chúa tôi, lậy Thiên Chúa của tôi'. Đức Kitô nói với ông, 'Bởi anh thấy Thầy, nên anh mới tin, phúc cho ai không thấy mà tin'.

Môn đệ Đức Kitô nhận đức tin nhờ vào lời thông báo của các bà phụ nữ, và nhờ vào chính mắt chứng kiến Đức Kitô Phục Sinh. Tất cả chúng ta tin vào Đức Kitô Phục Sinh, không phải vì thấy mà chính là vì nghe. Như thế câu Đức Kitô nói,

'Phúc cho ai không thấy mà tin'

chính là nói đến chúng ta và niềm tin của chúng ta. Không ai trong chúng ta thấy Đức Kitô Phục Sinh bởi Ngài về trời trong ngày lễ Chúa lên trời. Như thế câu trên Đức Kitô còn ngụ í nói trong tương lai Ngài sẽ về cùng Chúa Cha và cũng là Chúa của chúng ta, những kẻ tin theo Đức Kitô.

Trước khi biết tin Đức Kitô sống lại, môn đệ như người mất hồn, nửa sống, nửa chết, không tương lai, không hy vọng, không sức sống. Đức Kitô đến ban bình an cho các ông, ban sức sống mới cho các ông. Các ông trở thành con người mới, sức sống mới, niềm tin mới, niềm tin Phục Sinh. Từ sợ hãi, rụt rè, nhút nhát sang can đảm, mạnh dạn phi thường. Môn đệ sợ hãi, trốn trong nhà, Đức Kitô hai lần đến với các ông. Lần nào Ngài cũng chào ban bình an cho các ông. Ngài ban bình an, sau đó ban sức sống qua thở hơi trên các ông. Hơi thở của Thiên Chúa đây nhắc nhớ hình ảnh của việc Chúa sáng tạo vũ trụ. Sau khi nặn xong hình ảnh con người; hình ảnh đó chưa có sự sống; Thiên Chúa thở hơi vào hình đất đó và hình đất có sự sống. Đức Kitô thở hơi trên các tông đồ, biến các ông thành tạo vật mới, sức sống mới. Ngài gọi Tôma xỏ ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Ngài và rồi chính Ngài ăn cá nướng trước mắt các ông. Những điều này cho biết Đức Kitô bị đóng đanh thực sự sống lại từ cõi chết. Đây không phải là hình bóng, mơ mộng mà chính là con Người Kitô thật sự.

Sau khi biến môn đệ thành người tràn đầy sức sống, Đức Kitô trao trong tay các ông sứ mạng chính Ngài nhận từ Chúa Cha.

'Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. '

Các ông đi rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Các ông không chỉ rao giảng suông bằng lời nói mà còn hy sinh tự nguyện chịu đau khổ, bắt bớ, giam cầm, cuối cùng đổ hết máu mình ra làm chứng cho Tin Mừng các ông rao giảng. Các ông làm được việc đó bởi các ông biết mình làm vì Đức Kitô và làm cho Đức Kitô. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ môn đệ, các tông đồ trao sứ mạng đó lại cho Giáo Hội, cho chính chúng ta tiếp tục công việc của các tông đồ. Mang Tin Vui cho toàn thể nhân loại. Tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết.

Tôma, một vì lí do nào đó không có mặt khi Đức Kitô hiện ra. Khi nghe bạn nói Đức Kitô đã sống lại. Tôma không tin lời các bạn hữu. Điều này cho biết Kitô hữu cần cộng đoàn đức tin nâng đỡ, hỗ trợ, bảo bọc, sưởi nóng niềm tin Kitô. Không có cộng đoàn đức tin, Kitô hữu rất dễ lơ là, bỏ niềm tin sang một bên. Niềm tin đó sẽ nguôi dần, nguôi dần trước khi biến thành niềm tin lạnh nhạt, thụ động. Ta có thể lí luận Lời Chúa và cầu nguyện giúp sưởi nóng đức tin, ban sức mạnh cho niềm tin. Điều này rất đúng, nhưng đức tin sống lẻ loi rất dễ bị nguội lạnh. Vì thế cần cộng đoàn đức tin. Kitô hữu cần cộng đoàn đức tin để đức tin được sưởi ấm, có sức sinh hoạt, đức tin có sức ấm của cộng đoàn nâng đỡ. Thiếu cộng đoàn đức tin, đức tin đó sống thoi thóp.

Chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã tin tưởng trao trong tay chúng ta sứ mạng rao giản Tin Mừng và chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan làm tròn nghĩa vụ trao phó.

TiengChuong.org

Behind locked door

There are different sources confirming Jesus is alive. First, it comes from God, the Risen Lord Jesus. Second, it comes from the heavenly agents, the angels. And lastly, it comes from humans, the women who were the first to bring the Great News that Jesus is alive. It is obvious that Jesus' faithful friends didn't expect to meet Him alive on the first day of the week. Due to the Sabbath's restrictions, they had no time to prepare His body prior to the burial. On the first day of the week, the women brought the spices to the tomb for Jesus' body. They were crying. Their tears reveal that deep in their hearts they mourned the death of their friend, Jesus. Mary Magdalene found the tomb was emptied. She quickly returned from the tomb; and was the first person who broke the message that frightened the disciples: Jesus' body was stolen. It was the same Mary, who returned to the tomb for the second time on the same day. This time she encountered the angel, who confronted her by asking, 'Why look among the dead for someone who is alive? He is not here; he is risen' Lk 24,5. For Mary, Jesus remained dead. Out of the tomb, Jesus appeared to her in person. She didn't recognize him, until Jesus called her by name and asked her to deliver the Great News to others that he is alive. The same Mary Magdalene, with her second message, enlightened the minds and hearts of Jesus' disciples: Lord has risen, she said. And, 'I have seen the Lord'. Her second message negates her first message. From frightened to enlighten was the personal experience of those who love Jesus dearly.

The second and primary source of information came from Jesus himself. The disciples were hiding behind the locked door. Jesus had no trouble going through the locked door. He appeared to the apostles. He gave them His peace and Spirit; and showed them His hands. It is unmistakable that Jesus has risen. The Risen Lord opened both doors: the physical door of the house where the apostles dwelled; and also the door of their hearts. His peace and Spirit penetrated their hearts, and they came alive with great joy. We recall the words, Jesus cried out loud on the cross, 'Father into your hands I commend my spirit. With these words, he breathed his last' Lk 23,46. A dead person ceases to breathe, only the alive one does. Jesus breathing on the apostles is a clear sign that he is alive and active. No one commission a dead person, but only the alive ones. Giving the apostles new life, Jesus commissions them to bring the Good news to others. The commissioning implies that they are no longer mourning his death; but joyfully proclaiming: Jesus is truly alive. The Father commissioned Jesus to bring the Good News to the world; He now hands over the work to his apostles and the apostles handed it down to us, the next generation of believers. We give thanks to Jesus for trusting us, and entrusting his own mission into our hands. Before returning to the Father, Jesus promised to give His Church the Holy Spirit who will in his Holy Name guide the Church in her mission. We pray to be faithful to the task given and believe that Jesus who is invisible among us, whose spirit will guide and direct our lives.