Tiến sĩ Carrie Gress là nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Đạo đức học và Chính sách công và là một học giả tại Viện Sinh thái Nhân bản của Đại Học Công Giáo America, đồng thời là chủ bút của tập san phụ nữ Theology of Home và đồng tác giả của loạt sách của tập san này, trên trang mạng National Catholic Register ngày 6 tháng 6, 2023, nhận định rằng các ý tưởng nâng đỡ phong trào LGBT+ có nguồn gốc cũ xưa hơn người ta tưởng, cương lĩnh của nó đã được ấn định nhiều thế ký trước đây, ít nhất cũng từ những thời kỳ sớm sủa nhất của phong trào duy nữ.



Phong trào LGBTQ+ đã có những bước tiến đáng kể trong thập niên qua. Rất ít tổ chức và tập đoàn lớn đã chống lại được áp lực mạnh mẽ phải ủng hộ nghị trình của nó, treo cờ của nó và nói các đại danh từ của nó.

Phong trào chuyển giới là hư cấu mới nhất đang được lén lút áp đặt lên chúng ta, khi những người đàn ông sinh học san ủi các phụ nữ sinh học. Chúng ta giả thiết phải làm ngơ trò hề và khẳng định rằng những người đàn ông này “thực sự là phụ nữ”. “Chuyển đổi” theo hướng khác cũng đang được khuyến khích mạnh mẽ, khi phụ nữ trẻ chấp nhận tiêm testosterone và phẫu thuật “phần ngực” [top].

Những sự chuyển đổi lớn về văn hóa khỏi bất cứ thứ gì giống với đạo đức Kitô giáo có cảm giác như thể chúng bùng phát mà không có chút cảnh cáo nào. Ngay cả Tucker Carlson cũng phải vò đầu bứt tai tìm câu trả lời. Gần đây, người dẫn chương trình trò chuyện [talk-show] đã chỉ ra rằng đã từng có “những cuộc tranh luận hợp lý về cách đạt được kết quả mà các bên đã thống nhất,” chẳng hạn như thịnh vượng và tự do. Những cuộc tranh luận này đã trở thành một thứ hoàn toàn khác, chẳng hạn như thiến thế hệ tiếp theo và cắt xén bộ phận sinh dục trẻ em. Carlson nói, “Tôi xin lỗi, đó không phải là một cuộc tranh luận. Điều đó không liên quan gì đến chính trị. Đâu là kết quả chúng ta đang mong muốn ở đây? Một dân số ái nam ái nữ? Chúng ta có tranh cãi vì điều đó không?”

Thực tế là những ý tưởng làm nền tảng cho đống đổ nát xã hội của chúng ta lâu đời hơn hầu hết chúng ta nghĩ. Cương lĩnh chi tiết của nó đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước, bắt đầu từ những giai đoạn đầu tiên của phong trào duy nữ.

Nhiều nhà văn duy nữ đã tuyên bố rằng, trong các thập niên 1960 và 1970, phong trào này đã tạo ra một bước đột phá đáng kể so với một thương hiệu cũ của phong trào duy nữ tốt hơn, nhưng nếu xem xét kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy một câu chuyện khác, mà những phát hiện của nó tìm thấy trong cuốn sách sắp xuất bản của tôi, The End of Woman: How Smashing the Patriarchy Has Destroyed Us [Kết liễu Người Đàn bà: Việc đập tan chế độ gia trưởng đã hủy hoại chúng ta như thế nào] (Regnery, tháng 8 năm 2023).

Nghiên cứu của tôi gây sửng sốt vì tôi thấy nhiều ý tưởng triết học từng làm sinh động chủ nghĩa duy nữ đương thời đã xuất hiện từ những ngày đầu tiên. Những gì đã xảy ra trong các thập niên 1960 và 1970 - và những gì đang xảy ra bây giờ - chỉ là sự mở rộng hợp luận lý của tư tưởng triết học duy nữ thời kỳ đầu.

Chủ nghĩa duy nữ, thậm chí từ cuối thập niên 1700, đã bắt đầu với một câu hỏi sai. Nó không hỏi, "Làm thế nào để chúng ta giúp đỡ phụ nữ như phụ nữ?" mà là hỏi, "Làm thế nào để chúng ta giúp phụ nữ trở nên giống đàn ông hơn?"

Câu trả lời của các nhà duy nữ cho câu hỏi này liên quan đến sự kết hợp của ba yếu tố tạo nên kết cấu của phong trào: bí ẩn [occult], yêu tự do và tái cấu trúc xã hội - hay còn gọi là “đập tan chế độ phụ hệ”. Những yếu tố này, ở các mức độ khác nhau, phổ biến trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa duy nữ, kể cả các tác phẩm của Elizabeth Cady Stanton và Susan B. Anthony.

Khi phong trào tiến triển, ba ý tưởng này - bí ẩn [occult], yêu tự do và tái cấu trúc xã hội - chồng chéo với các lý tưởng cộng sản về yêu tự do, tái cấu trúc xã hội và chủ nghĩa vô thần. Sự chồng chéo này khiến họ trở thành đồng minh tự nhiên và chủ nghĩa duy nữ trở thành nền tảng chính, thậm chí là con ngựa thành Troy, để các nhà cách mạng cộng sản bí mật kích động tìm đường đi vào các định chế Hoa Kỳ.

Sự đan xen giữa chủ nghĩa duy nữ và chủ nghĩa cộng sản bắt đầu từ những năm 1940. Cụ thể, nó bắt đầu với một tổ chức có tên là Đại hội Phụ nữ Mỹ (CAW). Về căn bản là tuyên truyền của Liên Xô, công việc của CAW cuối cùng đã thu hút sự chú ý của Quốc hội Hoa Kỳ và bị Ủy ban Hoạt động Phi Hoa kỳ của Hạ viện điều tra. Quốc hội đã giải tán CAW vào năm 1950.

Tuy nhiên, trước cuộc giải thể đó, nhiều phụ nữ có ảnh hưởng lớn đã can dự vào, bao gồm cả vợ của một chủ cửa hàng bách hóa lớn và nhiều nữ học giả. Cũng trong số những phụ nữ này có Betty Friedan trẻ tuổi, người mà ảnh hưởng đối với phong trào duy nữ không hề bị nói quá.

Friedan luôn cho rằng bà chỉ là một bà nội trợ đơn giản và không biết gì về chủ nghĩa cộng sản. Nhưng người nội trợ giản dị này đã tiếp tục viết cuốn sách The Feminine Mystique vào năm 1963. Nó đã bán được 3 triệu bản trong vài năm đầu tiên. Ảnh hưởng của nó, đặc biệt là tuyên bố rằng gia đình là một “trại tập trung thoải mái”, đã ảnh hưởng đến gần như mọi phụ nữ trong thế giới văn minh.

Theo chân Marx và Engels, Friedan có niềm tin sâu sắc rằng phụ nữ sẽ chỉ được tự do nếu chúng ta rời khỏi mái ấm. Có lẽ, một cách vô tình, bà đã bị ảnh hưởng bởi câu nói nổi tiếng của Hitler tại Auschwitz: Arbeit macht frei (“việc làm giúp bạn tự do”).

Friedan, người nghiên cứu tâm lý học, rất giỏi trong việc thuyết phục phụ nữ rằng gia đình là một nơi tồi tệ. Bà kêu gọi cảm thức của chúng ta về tư cách nạn nhân. Tóm lại, bà đã dạy chúng ta suy nghĩ như những người theo chủ nghĩa Mácxít.

Chủ trương Mácxít về phụ nữ bắt đầu với Friedan tăng cường nhờ ảnh hưởng của một nhóm học giả Mácxít, Frankfort Thinkers, tại Đại học Columbia danh tiếng. Một trong số họ, Wilhelm Reich, đã viết cuốn sách có tầm ảnh hưởng sâu rộng The Sexual Revolution [Cuộc cách mạng tình dục] vào năm 1936, là bản thiết kế cho những gì chúng ta biết ngày nay là cuộc cách mạng tình dục.

Những ý tưởng mang tính cách mạng của các Nhà tư tưởng Frankfort về cơ bản đã ảnh hưởng đến các nhà duy nữ cấp tiến như Kate Millett và Angela Davis, những người đã phổ biến ý tưởng của họ sâu rộng trong giới học thuật và có lẽ quan trọng nhất là trong lãnh vực văn hóa đại chúng trong các thập niên 1960 và 1970. Từ đó, cuộc chiến giai cấp của chủ nghĩa Mácxít đã biến thành cuộc chiến giữa hai giới. Đàn ông là những kẻ áp bức có thương hiệu rộng rãi. Phụ nữ mặc nhiên trở thành kẻ bị áp bức. Tình dục quyết định tất cả.

Với một cuộc chiến giữa hai giới được tuyên bố, các nhà duy nữ coi hình thức phụ nữ và các mối quan hệ phụ nữ vượt trội hơn so với các mối quan hệ dị giới. Đương nhiên, chủ nghĩa đồng tính nữ không liên quan đến việc mang thai và nó không yêu cầu phụ nữ phải phục vụ đàn ông. Một nhà hoạt động duy nữ giải thích trong cuốn sách The Sisterhood Is Powerful [Tình Tỉ Muội Mạnh mẽ], một người đồng tính nữ “không phải làm những công việc vặt vãnh cho họ (ít nhất là ở nhà), cũng không phục vụ cho cái tôi của họ, cũng không phục tùng những cuộc gặp gỡ tình dục vội vàng và cẩu thả. Nàng thoát khỏi nỗi sợ mang thai ngoài ý muốn và nỗi đau khi sinh nở, cũng như khỏi sự cực nhọc của việc nuôi dạy con cái”.

Các nhà nữ quyền khác đã có những bước tiến xa hơn trong thập niên 1970, với khuyến nghị rằng nam giới nên bị loại bỏ hoàn toàn, như Tuyên ngôn SCUM của Valerie Solanas, hay Hiệp hội Cắt bỏ Đàn ông, tiếp theo đó là ý tưởng xóa bỏ hoàn toàn giới tính và tính linh hoạt của giới tính. Đàn ông không còn cần thiết nữa vì phụ nữ đã đủ quyền lực để sống thiếu họ; thông qua ý thức hệ duy nữ, phụ nữ đã trở nên tốt hơn họ. Biên tập viên Emily McComb của Huffington Post gần đây đã nghe thấy nhiều tiếng vang về điều này: “Nghị quyết của Năm mới: 1. Vun đắp tình bạn nữ; 2. Liên kết với nhau để giết tất cả đàn ông".

Những tiến bộ về kỹ thuật, chẳng hạn như thuốc tránh thai, càng làm tăng thêm ảo tưởng rằng phụ nữ có thể “giống như đàn ông” bằng cách ngừa thai hoặc loại bỏ việc mang thai ngoài ý muốn. Mang thai và làm mẹ (thậm chí là làm mẹ về tâm lý và tinh thần) đã trở thành tùy chọn, giống như lấy bằng lái xe, thay vì là một thuộc tính thiết yếu của phụ nữ. Nhưng nó không dừng lại ở đó. Kỹ thuật cuối cùng đã đạt được khả năng biến phụ nữ thành nam giới (đại loại như vậy). Chích testosterone, phẫu thuật “phần ngực” [top] và “phần dưới” [bottom] được đưa ra như những lựa chọn để sửa chữa “cơ thể sai lầm”, mặc dù không thể xóa hoàn toàn các yếu tố nhiễm sắc thể XX có trong hầu hết các tế bào cơ thể của phụ nữ.

Không ai có thể ngạc nhiên khi ý thức hệ duy nữ cuối cùng cũng gặp khủng hoảng - như đã xảy ra với tất cả các ý thức hệ. Một rạn nứt lớn đã phát triển giữa những nhà duy nữ ủng hộ chuyển giới và các đối thủ của họ, TERF, tức Những Nhà Duy nữ Cấp tiến Loại trừ Chuyển giới [Trans-Exclusionary Radical Feminists], chẳng hạn như J.K. Rowling. Đó là sự chia rẽ ở đỉnh cao của một phong trào ngầm mong muốn phụ nữ trở thành giới tính được thèm muốn hơn: đàn ông. Nhiều nhà duy nữ cấp tiến, giữ quan điểm 200 năm tiến bộ về ý thức hệ, dường như nghĩ rằng tình dục nên bị bãi bỏ, trong khi những người khác, nhận thấy phong trào đã đưa họ đến đâu, không muốn thấy phụ nữ bị xóa bỏ hoàn toàn. Trong khi đó, nhiều phụ nữ ngày nay không còn có thể liệt kê những đặc điểm xác định của phụ nữ hay ý nghĩa của việc trở thành phụ nữ.

Mặc dù nhiều người thắc mắc chuyện gì đã xảy ra, nhưng câu trả lời là những phụ nữ ưu tú đã dần dần và đều đặn phục vụ ý thức hệ của họ trong một thời gian cho những phụ nữ rất dễ tiếp thu trong một thực tế song song mà ít người nhận thấy cho đến gần đây. Họ cung cấp giấc mơ thành công, trao quyền và tham vọng. Họ bảo đảm với chúng ta, những điều này sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc. Chúng ta sẽ không còn cần đến đàn ông, một ngôi nhà hay “cơn cực nhọc” có con. Người phụ nữ được cho biết, tất cả những điều này sẽ chỉ cản trở chúng ta. Thế nhưng, các số liệu thống kê lại kể một câu chuyện rất khác: trầm cảm, ly hôn, bệnh lây truyền qua đường tình dục, phá thai và tự tử đã trở thành những chi tiết tiểu sử phổ biến của nhiều phụ nữ. Một số phụ nữ đã có thể phục hồi từ chủ nghĩa duy nữ. Thiệt hại mới này, tức việc triệt sản phụ nữ và nam giới trẻ tuổi, có thể, một cách bi thảm, không thể gỡ bỏ được.

Có lẽ chi tiết đáng lo ngại nhất về phong trào duy nữ là, trong số tất cả những bạo chúa đẫm máu của thế kỷ 20, ý thức hệ duy nữ đã giết chết nhiều hơn tất cả những tên bạo chúa đó cộng lại thông qua tai họa phá thai. Một nghiên cứu của Guttmacher năm 2022 đã báo cáo 73 triệu ca phá thai hàng năm trên toàn thế giới, loại bỏ gần như toàn bộ dân số của Vương quốc Anh (69 triệu). Đây không phải là chuyện lính giết lính, mà là một người mẹ đã tin rằng giết con mình là vì lợi ích của chính mình.

Như tôi đã nói trong cuốn sách của mình:

“Để tiến lên phía trước, phụ nữ phải nhận ra sức mạnh thực sự của mình nằm ở đâu và hiểu cách sử dụng nó thật tốt. Chúng ta cũng phải chấm dứt sự phỉ báng đàn ông và tiến tới khôi phục lại gia đình. Nếu chúng ta làm những điều này, thế giới sẽ không kết thúc — hoàn toàn ngược lại, giống như một khu vườn cằn cỗi, nó sẽ từ từ xuất hiện, sống lại, để hồi sinh với những yếu tố mà chúng ta đã nắm bắt được nhưng đã bỏ lỡ.”

Cho đến khi chúng ta nhận ra những thiệt hại khủng khiếp do chủ nghĩa duy nữ gây ra cho nền văn hóa của chúng ta, chúng ta sẽ không thể hạn chế sức mạnh của phong trào LGBTQ+. Pandora phải được đặt lại trong hộp của nó. Con cái chúng ta và các thế hệ tương lai phụ thuộc vào nó.

Phụ nữ có sức mạnh phi thường. Elizabeth Cady Stanton đã dự đoán rằng phong trào phụ nữ sẽ mở ra “cuộc cách mạng vĩ đại nhất mà thế giới từng chứng kiến,” và bà đã không lầm, nếu người ta muốn nói đến quy mô và ảnh hưởng hơn là sự tốt lành về mặt đạo đức. Nếu chúng ta mạnh mẽ, nền văn hóa của chúng ta sẽ không bao giờ sa vào sự thiệt hại do chủ nghĩa duy nữ và “cuộc cách mạng vĩ đại” của nó gây ra. Vấn đề là chúng ta chưa sử dụng đúng quyền lực của mình.