Tiểu luận này gồm bản văn bài diễn giảng của Edith Stein dưới cùng tên tại hội nghị mùa thu của Hiệp Hội Các Nhà Học Thuật Công Giáo, tại Salzburg [Áo], ngày 30 tháng Chín năm 1930, chủ đề là “Chúa Kitô và Đời sống Nghề nghiệp của Con người Hiện đại”.
Nghĩa đen của hạn từ “ethos” theo nghĩa lâu đời của nó phải được hiểu trong mối liên hệ của nó với hành động của con người. Tôi không có ý nói đến một sắc lệnh được áp đặt lên con người từ bên ngoài mà đúng hơn là một điều gì đó hành động trong chính bản thân họ, một mô thức bên trong, một thái độ tâm linh thường hằng mà các nhà kinh viện gọi là thói quen [habitus]. Những thái độ tâm linh thường hằng như vậy mang lại một đặc tính đồng dạng nhất định cho việc thay đổi các mẫu tác phong, và các thái độ tự phát biểu qua đặc tính này trong hành động bên ngoài. Tính khí là một thói quen bẩm sinh, một thiên hướng tự nhiên và căn bản của linh hồn như vui vẻ hoặc u sầu. Có những thái độ thủ đắc được dựa trên các khuynh hướng tự nhiên; ở đây mọi năng khiếu và nhân đức tự nhiên đều quan trọng. Cuối cùng, có một thói quen đã thành cố định: trước hết, chính là những nhân đức thần linh tạo nên sự thánh thiện của một con người. Và các nhân đức này có thể thủ đắc được thế nào, thì chúng cũng có thể bị mất đi thế ấy; chúng không vĩnh viễn thuộc về linh hồn vì chúng dễ dàng bị sửa đổi.
Cùng với “ethos”, khái niệm tổng quát về thói quen này trở thành chuyên biệt nhờ tập chú vào các giá trị. Nói đến “ethos” là nói đến thói quen, một hoặc một số, có giá trị tích cực và đáp ứng các yêu cầu hoặc quy định khách quan nào đó.
Tôi hiểu triết lý thực hành nghề nghiệp [professionel ethos] là thái độ tinh thần lâu dài hoặc tính tổng thể của thói quen xuất hiện từ bên trong như là nguyên tắc đào tạo cuộc sống nghề nghiệp của một người. Chúng ta chỉ có thể nói về triết lý thực hành này khi cuộc sống nghề nghiệp chứng tỏ được một tính cách đồng dạng [uniform] nào đó một cách khách quan. Thật vậy, tính cách này xuất hiện như một lực lượng đạo đức từ bên trong; nó không bị áp đặt lên cuộc sống nghề nghiệp từ bên ngoài hoặc bởi tính chân chính của bản thân công việc hoặc bởi các quy định khác.
Lòng trung thành và sự ngay thẳng lương tâm là một trong những thái độ lâu dài có thể có tính quyết định đối với cuộc sống nghề nghiệp. Thái độ của một người đối với nghề nghiệp của họ rõ ràng giúp xác định kết quả đạt được trong nghề đó. Bất cứ ai coi công việc của mình như một nguồn thu nhập đơn thuần hoặc một trò tiêu khiển sẽ thực hiện nó khác với những người cảm thấy nghề nghiệp của mình như một ơn gọi đích thực. Nói một cách chính xác, chúng ta chỉ có thể chấp nhận thuật ngữ “triết lý thực hành nghề nghiệp” (professional ethos) trong trường hợp cuối cùng vừa kể mà thôi.
Cuối cùng, chúng ta phải nhìn nhận rằng mỗi ngành nghề đều có một triết lý thực hành đặc thù cho mục đích của nó. (Điều này phần nào giống như tính hay giúp đỡ của y tá, sự cẩn thận và quyết tâm của nhân viên nhà quàn v.v.) Triết lý thực hành có thể được biểu lộ qua bản chất của một người (nghĩa là họ có thiên hướng tự nhiên đối với nghề nghiệp của mình); hoặc, nó có thể phát triển trong họ qua việc thực hành liên tục các hoạt động nó đòi hỏi; và sau đó nó có thể trở thành một tiêu chuẩn cho hành vi độc lập đối với sự kiểm soát bên ngoài.
Khi chủ đề của buổi tối này được gợi ý cho tôi, nó khơi dậy hai giả thuyết: thứ nhất, một số thái độ lâu dài nào đó có tính độc đáo đối với linh hồn nữ giới và tạo thành cuộc sống chuyên nghiệp của người phụ nữ từ bên trong; thứ hai, chính bản chất của người phụ nữ đã lôi kéo họ vào một số ngành nghề nào đó. Bây giờ chúng ta hãy thảo luận về hai điểm này.
I. Ơn gọi tự nhiên của phụ nữ và Triết lý thực hành tương ứng của nó
Chúng ta có thể nói tới các ơn gọi có tính đặc biệt nữ giới hay không? Lúc khởi thủy của phong trào duy nữ, các nhà lãnh đạo cấp tiến đã phủ nhận điều này, cho rằng tất cả các ngành nghề đều phù hợp với phụ nữ. Các đối thủ của họ không chịu thừa nhận khái niệm này, họ chỉ công nhận một ơn gọi nữ giới mà thôi, ơn gọi tự nhiên của phụ nữ. Đề tài của chúng ta đòi thảo luận cả hai quan điểm. Để bắt đầu, chúng ta phải đặt câu hỏi: Có một ơn gọi nữ giới tự nhiên của người phụ nữ hay không? Nó đòi hỏi thái độ tâm linh nào?
Chỉ người mù quáng bởi đam mê tranh cãi mới có thể phủ nhận người phụ nữ trong linh hồn và thân xác được tạo thành cho một mục đích đặc thù. Lời Kinh thánh rõ ràng và không thể thu hồi đã tuyên bố điều mà kinh nghiệm hàng ngày vốn dạy từ thuở sơ khai của thế giới: người phụ nữ được định làm vợ và làm mẹ. Cả về thể chất lẫn tinh thần, họ đều được phú bẩm cho mục đích này, như thấy rõ ràng từ kinh nghiệm thực tế. Tuy nhiên, đặc điểm tâm linh ấy cũng phát xuất từ nguyên tắc của học thuyết Tôma, anima forma corporis [linh hồn là mô thức của thân xác]. Tất nhiên, phụ nữ có chung một bản chất căn bản của con người, nhưng xét về căn bản, các khả năng của họ khác với nam giới; do đó, một loại linh hồn khác hẳn cũng phải hiện hữu. Vì những điều căn bản của thái độ tâm linh đặc trưng nữ tính thường đã khá quen thuộc đối với chúng ta, nên chúng ta sẽ chỉ tìm hiểu sơ qua về nó mà thôi.
Người phụ nữ tự nhiên tìm cách nắm lấy những gì sống động, có bản vị và toàn bộ. Nâng niu, canh giữ, bảo vệ, nuôi dưỡng và thúc đẩy sự phát triển là hoài mong tự nhiên, có tính mẫu thân của họ. Vật thể vô sinh, tức sự kiện chỉ có thể làm họ lưu ý khi nó phục vụ điều sống động và có bản vị, chứ thông thường không phải vì nó. Liên quan đến vấn đề này là một vấn đề khác: trừu tượng hóa theo mọi nghĩa đều xa lạ đối với bản chất nữ giới. Điều sống động và có bản vị được họ lưu ý là một toàn bộ cụ thể và được bảo vệ và khuyến khích như một tổng thể; điều này không có nghĩa một bộ phận bị hy sinh cho một bộ phận khác, không phải tâm trí bị hy sinh cho thân xác hoặc một cơ năng tâm linh bị hy sinh cho một cơ năng khác. Họ khao khát sự toàn diện này trong bản thân mình và nơi những người khác. Các quan điểm lý thuyết và thực tế của họ tương ứng với nhau; dòng suy nghĩ tự nhiên của họ không quá có tính ý niệm và phân tích vì nó được điều hướng một cách trực giác và cảm xúc vào điều cụ thể. Thiên bẩm này cho phép người phụ nữ bảo vệ và dạy dỗ những đứa con của mình. Nhưng thái độ căn bản này không chỉ dành cho họ; họ cũng nên cư xử theo cách này với chồng mình và với tất cả những ai tiếp xúc với họ.
Hồng phúc làm mẹ này được kết hợp với hồng phúc làm bạn đồng hành. Hồng phúc và hạnh phúc của họ là được chia sẻ cuộc sống của một hữu thể nhân bản khác và thực sự, được tham gia vào mọi điều xảy ra với chàng, vào những điều lớn nhất và nhỏ nhất, vào niềm vui cũng như đau khổ, vào việc làm và vào các nan đề. Người đàn ông ngụp lặn trong “doanh nghiệp của họ”, và họ mong được những người khác quan tâm và giúp đỡ; nói chung, họ khó có thể can dự vào các hữu thể khác và các mối quan tâm của họ. Ngược lại, điều đó rất tự nhiên đối với phụ nữ, và họ có khả năng quan tâm một cách tương cảm đến các lĩnh vực nhận thức khác xa với mối quan tâm của bản thân và là các lãnh vực họ sẽ không lưu ý tới nếu không phải do sở thích bản thân đã lôi kéo họ tiếp xúc với chúng. Thiên bẩm này gắn liền với hồng phúc làm mẹ. Một mối thiện cảm tích cực dành cho những người rơi vào tầm mắt của họ đánh thức sức mạnh của những người này và nâng cao thành tích của họ. Đó là một chức năng liên hệ, có tính đào tạo và thực sự mẫu thân, là một chức năng chính người trưởng thành cũng cần đến. Chức năng này cũng được áp dụng vào chính con cái của họ, đặc biệt là khi chúng đã trưởng thành và người mẹ không còn phải chăm sóc thể lý cho chúng nữa.
Việc tham gia vào cuộc sống của chồng họ đòi hỏi sự phục tùng và vâng lời theo chỉ dẫn của lời Thiên Chúa. Đúng theo bản chất của họ, người đàn ông phục vụ mối quan tâm của họ một cách trực tiếp. Người vợ phục vụ chính nghĩa của chồng vì ông ta; và như thế, điều hợp lý là việc này diễn ra dưới sự hướng dẫn của ông. Việc nghĩa vụ vâng lời cũng mở rộng tới lãnh vực trực tiếp của người vợ - gia hộ và việc nuôi dạy con cái - có lẽ ít phát xuất từ cá tính nữ giới cho bằng từ ơn gọi tự nhiên của đàn ông như người hướng dẫn và bảo vệ vợ mình. Ơn gọi tự nhiên cũng tương ứng với xu hướng tự nhiên của người phụ nữ đối với sự vâng lời và phục vụ: “khi vâng lời, tôi cảm thấy linh hồn mình luôn tự do một cách đẹp đẽ nhất”.
Ngay từ đầu, bài trình bày về cá tính nữ giới tự nhiên này không bao gồm bất cứ đánh giá nào về giá trị. Điều hiển nhiên không cần giải thích chi tiết thêm rằng bản chất nữ tính được phát triển tinh ròng quả có bao gồm một giá trị cao cả có tính sinh tử. Điều chủ yếu đối với giá trị sinh tử này cũng như đối với giá trị đạo đức, mà chúng ta sẽ sớm xem xét, là bản chất nữ giới phải được phát triển cho tinh ròng, và điều này không xảy ra như một lẽ tất nhiên. Người ta thậm chí còn đi xa đến mức nói rằng nó chỉ như thế trong những trường hợp đặc thù. Vì thiên hướng nữ tính mắc phải khuyết điểm chung mà bản chất con người thừa hưởng từ tội nguyên tổ, một điều cản trở sự phát triển tinh ròng của họ, và là điều nếu không chống đối, sẽ dẫn đến sự đồi bại rất đặc trưng. Thông thường, cái nhìn về bản thân xem ra bị phóng đại một cách không lành mạnh; trước nhất, xu hướng tập chú cả các hoạt động của mình lẫn của người khác vào con người của chính họ được phát biểu qua trang điểm phù phiếm, muốn được khen ngợi và tâng bốc, và nhu cầu chuyện trò không hạn chế; mặt khác, người ta thấy nó trong việc họ lưu ý quá mức đến người khác qua tính tò mò, ngồi lê đôi mách và nhu cầu vô ý tọc mạch pha mình vào cuộc sống riêng tư của người khác. Quan điểm muốn đạt tới nét toàn bộ của họ dễ dàng dẫn tới việc phung phí các năng lực của họ: sự ác cảm của họ đối với việc ra kỷ luật khách quan cần thiết đối với các khả năng cá nhân dẫn đến việc họ bắt bẻ cách phiến diện trong mọi lĩnh vực. Và trong các mối liên hệ của họ với những người khác, người ta thấy nó được phát biểu qua việc hoàn toàn đồng hóa [absorption] với họ quá mức yêu cầu của chức năng người mẹ: người bạn đầy thiện cảm trở thành kẻ gây phiền phức ngăn cản người khác, không chịu đựng một sự phát triển thầm lặng, kín đáo; và vì điều này, họ không thúc đẩy sự phát triển mà đúng hơn cản trở và làm nó ra tê liệt. Việc thống trị đã thay thế việc phục vụ vui tươi. Biết bao nhiêu cuộc hôn nhân bất hạnh đã được quy cho sự bất thường này! Biết bao sự ra xa cách giữa người mẹ và những đứa con đang lớn lên và ngay cả những đứa con đã trưởng thành!
Để tương phản, nếu phải trình bày hình ảnh nhân cách phát triển tinh ròng của người phối ngẫu và người mẹ như lẽ ra họ phải là đúng theo ơn gọi tự nhiên của họ, chúng ta phải nhìn vào Đức Trinh Nữ Maria. Ở tâm điểm đời sống ngài là con trai của ngài. Ngài chờ mong sự ra đời của Người trong một niềm mong chờ hạnh phúc; ngài chăm chút thời thơ ấu của Người; dù gần hay xa, đúng thế, bất cứ nơi nào Người muốn, ngài cũng đi theo Người trên con đường của Người; ngài ôm thi thể bị đóng đinh trong vòng tay của mình; ngài thực hiện ý muốn của người đã ra đi. Nhưng ngài làm tất cả những điều này không phải như hành động của ngài: trong mọi sự, ngài là người tớ gái của Chúa; ngài chu toàn điều Thiên Chúa kêu gọi ngài làm. Và đó là lý do tại sao ngài không coi đứa con như tài sản của riêng mình: ngài đã chào đón Người từ bàn tay Thiên Chúa; ngài đặt Người trở lại bàn tay Thiên Chúa bằng cách dâng Người trong Đền thờ và ở với Người khi bị đóng đinh. Nếu phải coi Mẹ Thiên Chúa như người phối ngẫu, chúng ta sẽ tìm thấy một sự tín thác thầm lặng, vô hạn, một sự tín thác, ngược lại, lại phụ thuộc một sự tín thác vô hạn, một sự vâng phục âm thầm, và một sự hiệp thông hiển nhiên trung thành trong đau khổ. Ngài làm tất cả những điều này để phục tùng ý muốn của Thiên Chúa, Đấng đã ban cho ngài một người chồng như một người phàm bảo vệ và là người hướng dẫn hữu hình.
Hình ảnh Mẹ Thiên Chúa chứng tỏ thái độ tâm linh căn bản tương ứng với ơn gọi tự nhiên của người phụ nữ; mối liên hệ của ngài với chồng là mối liên hệ vâng lời, tín thác và tham gia vào cuộc sống của chồng khi ngài thúc đẩy các nhiệm vụ khách quan và sự phát triển nhân cách của ông; đối với đứa con, ngài dành sự quan tâm thực sự, khuyến khích và đào tạo các tài năng do Thiên Chúa ban tặng cho đứa con; ngài cung ứng cả hiến mình đầy vị tha lẫn sự rút lui trong yên lặng khi không còn được cần đến. Tất cả đều dựa trên quan niệm coi hôn nhân và việc làm mẹ như một ơn gọi từ Thiên Chúa; nó được thực hiện vì Thiên Chúa và dưới sự hướng dẫn của Người.
Làm thế nào người phụ nữ có thể đạt được triết lý thực hành cao cả này trong suy nghĩ và trong việc làm khi những động lực mạnh mẽ như vậy trong bản chất sa ngã của họ chống lại nó và thúc giục họ theo những cách khác? Một phương thuốc tốt tự nhiên chống lại tất cả các khuyết tật đặc trưng nữ giới là việc làm khách quan vững chắc. Điều này tự nó đòi hỏi phải kìm hãm một thái độ quá có tính bản thân. Nó kêu gọi chấm dứt sự hời hợt không những trong việc làm riêng của họ mà còn nói chung nữa. Vì nó đòi phải tuân theo các quy luật khách quan, nó là một trường dạy sự vâng lời. Nhưng nó không được dẫn đến việc từ bỏ thái độ bản thân tốt đẹp và tinh trong cũng như việc chuyên môn hóa một chiều và làm nô lệ cho một kỷ luật chỉ tiêu biểu cho sự đồi bại của bản chất nam giới. Có thể thấy phương thuốc tự nhiên của việc làm khách quan này cực kỳ hữu hiệu như thế nào ở việc trưởng thành và hài hòa của nhiều phụ nữ chứng tỏ có sự đào tạo trí thức cao hoặc được đào luyện bằng cuộc sống gian khổ trong kỷ luật lao động chuyên nghiệp vất vả. Ở đây chúng ta có sự song hành đối với hình ảnh chính nhân quân tử (gentleman) mà Newman từng phác họa trong The Idea of a University (Ý tưởng về một Trường Đại học): sự trau dồi nhân cách phần nào giống với sự thánh thiện thực sự. Nhưng trong cả hai trường hợp, đây chỉ là một vấn đề tương tự. Bản nhiên chỉ bị hạn chế bởi ảnh hưởng của giáo dục duy trì bề ngoài được trau dồi của nó chỉ đến một điểm nào đó; sau đó nó vượt qua mọi giới hạn. Chỉ sức mạnh của ân sủng mới có thể nhổ tận gốc và tái tạo ra bản chất đã sa ngã; nó diễn ra từ bên trong, không bao giờ từ bên ngoài. Điều này diễn ra như thế nào trong bản chất nữ giới, chúng ta sẽ xem xét ở phần sau.
II. Các ơn gọi tự nhiên khác của phụ nữ
Chúng ta tiến sang câu hỏi căn bản thứ hai: Có những ơn gọi nữ giới nào khác với ơn gọi tự nhiên không? Chỉ có ai ảo tưởng chủ quan mới có thể phủ nhận rằng phụ nữ có khả năng thực hành các ơn gọi khác ngoài vai trò làm người phối ngẫu và làm mẹ. Kinh nghiệm của những thập niên qua và thực sự, kinh nghiệm của mọi thời đại, đã chứng minh điều này. Người ta có thể nói rằng trong trường hợp cần thiết, mọi phụ nữ bình thường và khỏe mạnh đều có thể giữ một chức vụ. Và không có nghề nào mà người phụ nữ không thể làm được. Một người phụ nữ tự hy sinh có thể đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc khi đụng đến vấn đề phải thay thế vai trò tạo sinh kế cho những đứa con mồ côi cha, nâng đỡ những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc cha mẹ già yếu. Tuy nhiên, những thiên phú và xu hướng cá nhân cũng có thể dẫn đến những hoạt động đa dạng nhất. Thật vậy, không có phụ nữ nào chỉ là phụ nữ; giống như một người đàn ông, mỗi phụ nữ đều có chuyên môn và tài năng riêng, và tài năng này mang lại cho họ khả năng làm việc chuyên môn, bất kể là nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, v.v. Trong yếu tính, tài năng cá nhân có thể cho phép họ bắt tay vào bất cứ ngành nào, ngay cả những ngành xa vời với ơn gọi nữ giới thông thường. Trong những trường hợp như vậy, có lẽ người ta không nên nói tới một nghề nghiệp nữ giới. Khi sử dụng thuật ngữ “nghề nghiệp nữ giới” một cách có ý nghĩa, nó chỉ có thể biểu thị những nhiệm vụ khách quan được bản chất nữ giao phó. Điều này có nghĩa mọi nghề nghiệp phụ thuộc vào mối quan hệ thiện cảm như điều dưỡng, giáo dục, và công tác xã hội; do đó, cũng sẽ bao gồm ơn gọi làm bác sĩ và y tá, giáo viên và gia sư, người giúp việc nhà, và toàn bộ các dịch vụ xã hội hiện đại. Về mặt học thuật, đó sẽ là những ngành liên quan đến yếu tố cụ thể, sống động, bản vị tức là nghệ thuật và các chức vụ nhằm trợ giúp và phục vụ, chẳng hạn như dịch thuật, biên tập và có thể hướng dẫn công việc của một người lạ một cách trân trọng. Trong căn bản, cùng một thái độ tâm linh mà người vợ và người mẹ cần cũng cần ở đây, ngoại trừ việc nó được mở rộng ra một phạm vi làm việc rộng hơn và chủ yếu đối với một lãnh vực đang thay đổi của con người; vì lý do đó, viễn ảnh được tách khỏi mối liên hệ huyết thống có tính sinh tử và được nâng cao hơn tới bình diện tâm linh. Tất nhiên điều cũng đúng là có thể thiếu nhiều năng lực thúc đẩy tự nhiên, những sức mạnh hiện hữu trong sự hiệp thông sống động. Một sức mạnh lớn hơn để hy sinh bản thân là điều không thể thiếu cho thái độ tâm linh này.
Tuy nhiên, quá và trên điều này, người ta có thể nói rằng ngay cả những ngành nghề mà các yêu cầu khách quan không hài hòa với bản chất nữ giới, những ngành nghề được coi là đặc biệt của nam giới, vẫn có thể được thực hành một cách thực sự nữ tính nếu được chấp nhận như một phần của điều kiện nhân bản cụ thể. Cần điều chỉnh tư duy vật chất hoặc suy nghĩ trừu tượng, như trong việc làm ở nhà máy, văn phòng kinh doanh, công vụ quốc gia hoặc thành phố, cơ quan lập pháp, phòng thí nghiệm hóa học hoặc viện toán học. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, công việc được tiến hành với những người khác, ít nhất là với những người khác trong cùng một phòng; thường thì đó là sự phân công lao động. Và với nó một cơ hội trực tiếp được dành cho việc phát triển mọi nhân đức nữ tính. Người ta thậm chí có thể nói rằng việc phát triển bản tính nữ có thể trở thành một đối trọng cân bằng tốt lành chính ở đây, nơi mà mọi người đều có nguy cơ trở thành máy móc và đánh mất nhân tính của mình. Trong tinh thần của người đàn ông biết rằng sự giúp đỡ và thiện cảm đang chờ đợi họ ở nơi làm việc của họ, nhiều điều sẽ được đánh thức hoặc giữ được sức sống mà nếu không sẽ bị hao mòn đi. Đây là một cách để cuộc sống chuyên nghiệp được đào tạo bởi tính cách nữ tính; điều này thường khác với những gì người đàn ông làm. Có một khả thể khác. Mọi điều trừu tượng cuối cùng trở thành một phần của điều cụ thể. Mọi điều vô tri vô giác cuối cùng đều phục vụ cho điều sống động. Đó là lý do tại sao mọi hoạt động liên quan đến trừu tượng đều cuối cùng sẽ phục vụ cho một tổng thể sống động. Bất cứ ai nắm được tầm nhìn tổng thể này và làm cho nó hoạt động đều cảm thấy mình bị ràng buộc vào nó ngay cả trong việc làm trừu tượng buồn tẻ nhất. Và việc làm này sẽ trở thành có thể chịu đựng được nhờ tầm nhìn này và trong nhiều trường hợp, thậm chí trở nên tốt một cách hiển nhiên hơn là khi, vì một phần, mà đánh mất toàn bộ. Người đàn ông có lẽ sẽ nhắm vào hình thức pháp lý hoàn hảo nhất trong luật lệ hoặc lệnh lạc; và, khi làm như vậy, họ có thể cân nhắc rất ít các hoàn cảnh cụ thể rất tốt để giải quyết; trong khi phụ nữ, nếu họ mãi trung thành với bản chất của mình ngay cả trong Quốc hội hoặc dịch vụ hành chính, sẽ tìm kiếm mục tiêu cụ thể và điều chỉnh các phương tiện để đạt được mục đích.
Do đó, sự tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực chuyên môn đa dạng nhất có thể là một phúc lành cho toàn xã hội, bất kể là tư nhân hay công cộng, nếu triết lý thực hành có tính nữ một cách chuyên biệt được bảo tồn. Một cái nhìn về Mẹ Thiên Chúa lại trở thành dấu hiệu cho chúng ta một lần nữa. Chẳng hạn, tại đám cưới ở Cana, trong tầm nhìn yên lặng, đầy quan sát, Đức Maria đã tìm hiểu mọi sự và phát hiện ra những điều thiếu sót. Trước khi bất cứ điều gì được lưu ý, ngay cả trước khi sự bối rối bắt đầu, ngài đã cung cấp sẵn biện pháp khắc phục. Ngài tìm mọi cách và phương tiện, ngài đưa ra các chỉ thị cần thiết, làm mọi việc một cách âm thầm. Ngài không chú ý đến chính ngài. Hãy để ngài là nguyên mẫu của người phụ nữ trong đời sống chuyên nghiệp. Dù ở bất cứ nơi đâu, hãy để họ luôn thi hành công việc của họ một cách lặng lẽ và đúng bổn phận, không đòi được chú ý và đánh giá cao. Và đồng thời, họ nên khảo sát các điều kiện với một con mắt cảnh giác. Hãy để họ ý thức được ở đâu có nhu cầu và ở đâu cần được giúp đỡ, can thiệp và qui định bao lâu trong khả năng của mình một cách kín đáo nhất có thể. Rồi họ sẽ như một tinh thần tốt lành tỏa lan phước lành ra khắp nơi.
Còn tiếp