III
Chúng ta đã nhấn mạnh rằng bản chất và ơn gọi nguyên thủy của người nam và người nữ có thể được tìm kiếm và phục hồi ra sao; chỉ với tư cách là con cái của Thiên Chúa, điều này mới có thể đạt được. Nếu, ngoài ra, chúng ta góp phần của mình vào, thì việc chúng ta được tái chấp nhận làm con cái Thiên Chúa sẽ được bảo đảm nhờ hành động cứu chuộc của Chúa Kitô. Dân Do Thái trong Cựu ước đã góp phần vào việc cứu chuộc khi họ chờ đợi Đấng Mêxia bằng sự tuân thủ Lề luật thực sự. Đối với phụ nữ, điều này có nghĩa là khiêm tốn phục tùng chủ quyền của người đàn ông, cảnh giác thận trọng để duy trì sự trong sạch của họ, ra kỷ luật cho giác quan khắc khổ hơn so với những gì được thực hiện bởi người đàn ông, khao khát hậu thế mà trong chúng họ có thể mường tượng ơn cứu rỗi của chính họ, và thực sự cố gắng nuôi dạy con cái của họ trong sự kính sợ Thiên Chúa. Đối với mỗi người đàn ông, điều này có nghĩa là trung thành với những lời cầu nguyện đã định và thờ phượng bằng tế lễ, tuân theo các giới luật luân lý và xã hội, chịu trách nhiệm trong tư cách chủ gia đình đối với vợ và con cái, quí mến người đàn bà như mẹ của con cái mình.
Trong Tân Ước, con người chu toàn phần của mình trong ơn cứu chuộc qua sự kết hợp bản thân gần gũi nhất với Chúa Kitô: qua đức tin bám lấy Người như con đường cứu rỗi, như sự thật được Người mạc khải, và như con đường dẫn đến hạnh phúc mà Người cung ứng; qua đức cậy chờ đợi với lòng tin tưởng tuyệt đối sự sống được Người hứa ban; qua đức mến vốn tìm mọi cách có thể để đến gần Người. Hữu thể nhân bản luôn tìm cách để biết Người một cách mật thiết hơn qua việc chiêm niệm về cuộc đời của Người và suy gẫm về lời của Người; Họ nỗ lực đạt tới việc kết hợp gần gũi nhất với Người trong Bí tích Thánh Thể; họ chia sẻ cuộc sống huyền nhiệm, phục sinh của Người qua việc tham gia vào Năm Giáo Hội và trong phụng vụ của Giáo Hội. Ơn cứu rỗi không thừa nhận bất cứ sự khác biệt nào giữa hai giới tính; đúng hơn, ơn cứu rỗi của mỗi người và mối liên hệ của họ với nhau đều phụ thuộc vào cùng một sự kết hợp bản thân chặt chẽ với Chúa Kitô.
Hành động cứu chuộc không khôi phục bản chất bị hư hỏng cái rụp. Chúa Kitô đã gieo hạt giống cứu rỗi trong nhân loại để hạt giống ấy có thể phát triển không chỉ trong đời sống bên trong và bên ngoài của Giáo hội, nhưng còn có thể phát triển đặc biệt trong linh hồn mỗi cá nhân. Chúng ta, những người đang “trên đường” trong cuộc hành hương về Giêrusalem trên trời, tự trải nghiệm trong mình cuộc xung đột giữa thiên nhiên băng hoại và ân sủng, một điều giống như một cây đang phát triển, có thể phát triển và nở hoa, chiến thắng mọi dịch bệnh.
Ở khắp nơi quanh chúng ta, chúng ta thấy, trong sự tương tác giữa các giới tính, những hậu quả trực tiếp của tội nguyên tổ dưới những hình thức đáng sợ nhất: một đời sống tình dục buông thả, trong đó mọi dấu vết của ơn gọi cao cả của họ dường như đã mất đi; một cuộc đấu tranh giữa hai giới tính, một bên đọ sức với bên kia, khi họ đấu tranh cho quyền lợi của mình và khi làm như vậy, dường như họ không còn nghe thấy tiếng nói của thiên nhiên và của Thiên Chúa nữa. Nhưng chúng ta cũng có thể thấy nó có thể khác ra sao bất cứ khi nào có sự hoạt động của sức mạnh ân sủng.
Trong hôn nhân Kitô giáo, người chồng, trong tư cách là đầu của gia đình, quan tâm đến sự lành mạnh của nó: không những họ phải nỗ lực theo khả năng của mình để kiếm sinh kế và “thành công” trần thế cho nó, mà còn phải đóng góp phần mình vào hạnh phúc thiêng liêng của nó nữa.
Điều này có nghĩa có lúc họ phải hướng dẫn và giúp đỡ, có lúc thấy cần phải nhín nhường một cách thận trọng, và thậm chí thỉnh thoảng còn phải có hành động ngăn ngừa hoặc chống đối. Họ phải hỗ trợ sự phát triển các tài năng và nghị lực của vợ con mình bất cứ khi nào có thể và bất cứ khi nào cần. Nếu họ phải xử lý với những bản chất yếu hơn và khả năng hạn chế, nếu họ quan sát thấy có sự thiếu can đảm và tự tin, họ phải cố gắng rút ra được các tài năng giấu ẩn. Một trong các nhiệm vụ của họ là củng cố đời sống tâm linh của vợ mình, không để nàng sa vào một cuộc sống chỉ biết nhục dục; điều này có thể được thực hiện bằng cách để nàng tham gia vào công việc sáng tạo của riêng chàng hoặc trong hoạt động độc lập của riêng nàng. Nếu nàng bị tước đoạt cả hai lựa chọn này, nếu chàng cố gắng giới hạn nàng vào một phạm vi quá hẹp so với các tài năng của nàng, hoặc chàng phó mặc nàng hoàn toàn cho cuộc sống nhục dục đơn thuần, chàng sẽ gánh một phần trách nhiệm lớn về hậu quả do đó mà ra: trách nhiệm đối với sự hao mòn cuộc sống cao hơn của nàng, đối với sự xáo trộn bệnh lý, đối với việc quá phụ thuộc vào chồng con, một sự phụ thuộc trở thành gánh nặng cho họ, và đối với cảnh hiu quạnh của cuộc đời nàng nếu một ngày nào đó nàng bị bỏ lại một mình xoay xở. Một điều tương tự cũng có thể xẩy ra trong mối liên hệ với con cái. Mặt khác, nghĩa vụ của chàng trong tư cách chủ gia đình là bảo đảm trật tự và sự hòa hợp của cuộc sống gia đình, lo sao cho mọi thành viên không chỉ quan tâm đến sự phát triển của cá nhân mình mà còn phải quan tâm đến những người khác và thực hành tính quên mình rất cần thiết để thi hành các nhiệm vụ gia hộ của mình. Và cuối cùng, nhờ sự quan tâm đến cuộc sống tự nhiên có trật tự của mỗi cá nhân và của toàn bộ gia hộ, chàng không được bỏ bê đời sống tâm linh của gia đình. Trong cộng đồng nhỏ bé của mình, người chồng nên noi gương Chúa Kitô làm người đứng đầu Giáo Hội; họ nên coi sứ mệnh lớn nhất của mình là dẫn dắt cả gia đình noi gương Chúa Kitô và, theo khả năng của mình, thúc đẩy mọi hạt giống ân sủng đang phát triển nơi các thành viên gia đình. Sự kết hợp của chính họ với Chúa càng mật thiết, thì họ càng thành công nhiều hơn.
Gánh nặng gia đình mà người chồng gánh chịu ngoài các nhiệm vụ chuyên môn sẽ có vẻ quá nặng nếu người bạn trợ giúp họ không đứng bên cạnh họ; nàng được kêu gọi theo bản chất của nàng để mang hơn một nửa gánh nặng này. Nàng khao khát một sự phát triển nhân cách không bị cản trở của mình cũng nhiều như nàng muốn giúp đỡ những người khác hướng tới cùng một mục tiêu đó. Và như vậy, người chồng sẽ thấy nàng có thể cho chàng những lời khuyên vô giá trong việc hướng dẫn cuộc sống của con cái cũng như của chính họ; thật vậy, thường thì chàng sẽ chu toàn tốt nhất các nhiệm vụ của mình trong tư cách người lãnh đạo nếu chàng chịu nhường nhịn nàng và để mình được nàng dẫn dắt. Một phần trong mối quan tâm nữ tính tự nhiên của nàng đối với sự phát triển đúng đắn của những con người xung quanh nàng bao gồm việc tạo ra một môi trường, trật tự và đẹp đẽ, giúp cho sự phát triển của họ.
Một phẩm tính độc đáo ở phụ nữ là sự nhạy cảm khác thường của nàng đối với các giá trị đạo đức và sự ghê tởm đối với tất cả những gì thấp kém và hèn hạ; phẩm tính này bảo vệ nàng chống lại những nguy cơ rù quyến và hoàn toàn đầu hàng trước nhục dục. Điều này được phát biểu qua lời tiên tri đầy mầu nhiệm, đã trở thành huyền thoại, rằng người phụ nữ sẽ dấn thân vào trận chiến chống lại con rắn; và lời tiên tri này được ứng nghiệm qua việc thắng điều ác đã giành được cho toàn thể nhân loại qua Đức Maria, nữ hoàng của mọi phụ nữ. Liên minh gần gũi với sự nhạy cảm này trước các giá trị đạo đức là sự khao khát thể thần linh của nàng và sự kết hợp bản thân nàng với Chúa, sự sẵn sàng và ước muốn của nàng được tràn đầy và được hướng dẫn hoàn toàn bởi tình yêu của Người. Đó là lý do tại sao, trong một cuộc sống gia đình có nề nếp, sứ mệnh giáo dục đạo đức và tôn giáo chủ yếu được trao cho người vợ. Nếu đời sống của nàng được hoàn toàn dựa vào Chúa Giêsu, thì nàng cũng sẽ được bảo vệ tốt nhất chống lại việc mất điều độ một cách nguy hiểm. Điều này có thể xảy ra khi nàng quá được bảo bọc bởi những người xung quanh nàng; hoặc ngược lại, điều đó có thể xảy ra khi nàng chỉ quan tâm tới chính nàng và cắt hết đất ở dưới chân nàng, đất mà nàng phải đứng nếu muốn có khả năng hỗ trợ và giúp đỡ người khác. Hoạt động nghề nghiệp của nàng làm cân bằng nguy cơ muốn pha mình quá gần gũi vào cuộc sống của người khác và do đó hy sinh chính cuộc sống bản thân; tuy nhiên, mối bận tâm chuyên nhất với hoạt động nghề nghiệp của nàng sẽ mang đến nguy cơ ngược lại là không chung thủy đối với ơn gọi nữ tính của nàng. Chỉ những ai phó mình hoàn toàn trong tay Chúa mới có thể tin tưởng rằng họ sẽ tránh được thảm họa giữa Scylla và Charybdis. Bất cứ điều gì được phó cho Người đều sẽ không bị mất đi nhưng được cứu vớt, thanh tẩy, nâng cao và được làm cho cân đối theo đúng kích thước của chúng.
Chúng ta được những lời bình luận vừa kể trên dẫn đến câu hỏi về ơn gọi được thực hành bên ngoài gia đình và về mối liên hệ giữa người nam và người nữ trong cuộc sống nghề nghiệp. Nay, vì sự phát triển của những thập niên vừa qua và những năm gần đây, hiển nhiên chúng ta phải coi như đã đóng lại kỷ nguyên lịch sử từng đưa ra sự dị biệt hóa tuyệt đối giữa các nhiệm vụ của hai giới, tức là phụ nữ phải đảm đương các nhiệm vụ nội trợ còn đàn ông phải đấu tranh cho một kế sinh nhai. Ngày nay, không quá khó để chúng ta hiểu được quá trình tiến hóa này đã diễn ra như thế nào. Những thành tựu của khoa học tự nhiên và kỹ thuật từng thay thế dần sức lao động của con người bằng các phương tiện máy móc đã mang lại cho phụ nữ một sự giải phóng lớn lao và mong muốn sử dụng các năng lực mới phát sinh của họ một cách khác. Trong giai đoạn chuyển tiếp, nhiều năng lực không được sử dụng đã bị lãng phí một cách vô nghĩa trong la cà trống rỗng; và vì điều này, năng lực quý giá của con người đã bị lãng phí. Những thay đổi cần thiết chỉ được đưa ra sau một loạt các cuộc khủng hoảng khó khăn. Những cuộc khủng hoảng này một phần được gây ra bởi niềm đam mê quá mức, cả về phía những người tiên phong của phong trào duy nữ lẫn đối thủ của họ, mặc dù cả hai thường đấu tranh với những lý lẽ nhân đạo. Một phần, những cuộc khủng hoảng này là do sự chống đối thụ động của quần chúng trì trệ vốn có xu hướng bám vào những cách thức quen thuộc của quá khứ mà không xem xét chúng một cách khách quan. Cuối cùng, các điều kiện sau chiến tranh ở Đức đã mang lại những thay đổi cách mạng ngay cả trong lĩnh vực này; và sự suy thoái kinh tế kèm theo đã buộc ngay cả những người cho đến lúc đó vẫn chưa có ý nghĩ nào về việc đào tạo chuyên môn để làm việc kiếm sống. Do đó, điều kiện trong đó chúng ta tự thấy mình hiện diện ngày nay là một điều bất thường và không tạo cơ sở thích hợp để phân tích từ nền tảng.
Trên hết, đối với lời giải thích trước đây, chúng ta phải hỏi: Nhìn chung, cuộc sống chuyên nghiệp của người phụ nữ bên ngoài gia đình có vi phạm trật tự của tự nhiên và ơn thánh không? Tôi tin rằng người ta phải trả lời "không" cho câu hỏi này. Đối với tôi, dường như tính sáng tạo chung trong mọi lĩnh vực đều đã được chỉ rõ trong trật tự nguyên thủy, ngay cả khi điều này được thực hiện với sự phân bổ các vai trò cách khác nhau. Sự thay đổi trong trật tự nguyên thủy diễn ra sau cuộc Sa Ngã không có nghĩa nó bị chấm dứt hoàn toàn; do đó thiên nhiên cũng không bị biến chất hoàn toàn mà vẫn duy trì được các năng lực như cũ, bây giờ chỉ là suy yếu và dễ dàng bị lầm lỗi. Sự kiện tất cả các năng lực mà người chồng sở hữu cũng hiện diện trong bản chất nữ giới - mặc dù nói chung, chúng có thể xuất hiện ở các mức độ và mối liên hệ khác nhau - là một dấu chỉ cho thấy chúng nên được sử dụng vào hoạt động tương ứng. Và bất cứ nơi nào phạm vi các bổn phận nội trợ quá hẹp để người vợ có thể sở đắc được một sự đào tạo trọn vẹn cho các năng lực của họ, cả bản chất lẫn lý trí đều đồng ý để nàng vươn ra ngoài phạm vi này. Tuy nhiên, tôi thấy có một giới hạn đối với các hoạt động nghề nghiệp như vậy bất cứ khi nào nó gây nguy hiểm cho cuộc sống gia đình, tức là cộng đồng sự sống và đào tạo bao gồm cha mẹ và con cái. Thậm chí đối với tôi, có vẻ như mâu thuẫn với trật tự thần linh khi các hoạt động nghề nghiệp của người chồng leo đến mức cắt đứt hoàn toàn với cuộc sống gia đình. Điều này càng đúng hơn đối với người vợ. Bất cứ điều kiện xã hội nào cũng là một điều kiện không lành mạnh khi buộc phụ nữ đã kết hôn phải tìm kiếm công ăn việc làm có lương và khiến họ không thể quản lý tổ ấm của họ. Và chúng ta nên chấp nhận là bình thường việc người phụ nữ đã kết hôn được giới hạn vào cuộc sống gia đình vào lúc các nhiệm vụ gia đình của họ đòi hỏi hết mọi năng lực của họ.
Sau cuộc Sa Ngã, người phụ nữ buộc phải quan tâm đến những nhu cầu ban sơ nhất của cuộc sống, vốn khiến cho các năng lực của họ bị rút ngắn nghiêm trọng; về mặt này, họ đã được hưởng lợi nhờ các điều kiện do thay đổi văn hóa mang lại. Hơn nữa, sự thay đổi trong số phận của họ ngụ ý họ phải phục tùng người đàn ông: mức độ và loại hoạt động của họ trở thành tùy thuộc vào ý chí của người đàn ông; và, vì phán đoán và ý chí của chàng không phải là không thể sai lầm, nên không hề có bảo đảm gì là sự kiểm soát của chàng đối với nàng sẽ được điều chỉnh bởi lý trí đúng đắn. Hơn nữa, vì sự hòa hợp giữa hai giới bị xáo trộn bởi cuộc Sa Ngã, nên vấn đề phục tùng của người phụ nữ đã liên hệ đến một cuộc xung đột gay gắt liên quan đến các hoạt động phù hợp với bản chất hư hỏng của nam tính cũng như nữ tính.
Trật tự cứu chuộc đã khôi phục mối liên hệ nguyên thủy; càng nhiều ơn cứu chuộc được đích thân tiếp nhận, thì càng có thể tạo ra một sự hợp tác hài hòa và một thỏa thuận liên quan đến việc phân bổ các vai trò ơn gọi. Nó gây ra một sự thay đổi căn bản hơn nữa về tư thế của người phụ nữ bằng việc khẳng định lý tưởng khiết trinh. Điều này phá vỡ quy tắc của Cựu ước vốn cho rằng người phụ nữ chỉ thể hiện được ơn cứu rỗi của mình bằng cách sinh con. Và trong những trường hợp đặc thù khi các phụ nữ cá thể như Deborah và Judith được Thiên Chúa kêu gọi đạt tới những thành tựu phi thường cho dân Thiên Chúa, thì ngay cả tiêu chuẩn của Giao ước Cũ cũng đã bị thay đổi. Giờ đây, một cách thức mới cho thấy phụ nữ có thể dâng mình chuyên nhất để phụng sự Thiên Chúa, và họ có thể phát triển một hoạt động đa dạng trong việc phụng sự Người. Ngay cả Thánh Phaolô, người mà các trước tác thường xuyên mạnh mẽ nhắc lại các quan điểm của Cựu Ước cũng đã tuyên bố rõ ràng rằng, theo quan điểm của ngài, điều tốt là đàn ông cũng như đàn bà nên kết hôn nhưng không kết hôn vẫn tốt hơn. Và đây đó, ngài nhấn mạnh đến thành tích đáng khen ngợi của phụ nữ trong việc phục vụ các cộng đồng mục vụ đầu tiên (45).
Trước khi xem xét ơn gọi chung của nam giới và nữ giới trong việc phụng sự Thiên Chúa, chúng ta muốn xem xét vấn đề phân bổ các ơn gọi theo trật tự tự nhiên. Có nên chỉ dành một số chức vụ nào đó cho nam giới mà thôi, những chức vụ khác chỉ dành cho nữ giới và có lẽ một số chức vụ được dành cho cả hai không? Tôi tin rằng câu hỏi này cũng phải được trả lời một cách tiêu cực. Sự khác biệt cá thể mạnh mẽ hiện hữu ở cả hai giới tính phải được tính đến. Nhiều phụ nữ có đặc điểm nam tính cũng giống như nhiều đàn ông có đặc điểm nữ tính. Thành thử, mọi nghề nghiệp được gọi là “nam tính” có thể được thực hiện bởi nhiều phụ nữ cũng như nhiều nghề nghiệp “nữ tính” được thực hiện bởi một số đàn ông nào đó.
Do đó, hình như đúng là không nên có bất cứ rào cản pháp lý thuộc bất cứ loại nào. Thay vào đó, người ta có thể hy vọng rằng một sự lựa chọn ơn gọi tự nhiên có thể được thực hiện nhờ vào sự dưỡng dục, giáo dục và hướng dẫn phù hợp với bản chất của mỗi cá nhân; những yếu tố không phù hợp cần được loại bỏ bởi những yêu cầu khách quan khắt khe. Các khác biệt giữa bản chất nam tính và nữ tính cho thấy rõ ràng rằng mỗi người có một năng khiếu chuyên biệt đối với một số ngành nghề nào đó. Vì vậy, việc lựa chọn một nghề nghiệp thường tự giải quyết lấy.
Các ơn gọi của nam giới thường đòi hỏi sức mạnh cơ thể, khả năng suy nghĩ chủ yếu trừu tượng và khả năng sáng tạo độc lập: xin đơn cử một thí dụ, chúng ta có thể trích dẫn lao động chân tay nặng nhọc cần thiết trong ngành kỹ nghệ, thương mại và nông nghiệp; hoặc, xin trích dẫn một thí dụ khác, sy nghĩ trừu tượng cần thiết trong các lĩnh vực kỹ thuật như toán học và vật lý lý thuyết; và cuối cùng, điều này có thể được thấy ngay ở tính chính xác cần thiết trong công việc hành chính và văn thư, vốn có bản chất không cần suy nghĩ, và trong một số ngành nghệ thuật nào đó. Những phẩm tính nữ tính thực sự đều được cần đến ở bất cứ nơi nào cảm giác, trực giác, sự tương cảm và khả năng thích ứng đóng vai trò quan trọng. Trên hết, hoạt động này liên quan đến toàn bộ con người trong việc chăm sóc, vun đắp, giúp đỡ, hiểu và khuyến khích các năng khiếu của người khác. Và vì người phụ nữ chủ yếu quan tâm đến việc phục vụ người ta và cung ứng cho họ, nàng có thể hoạt động tốt trong tất cả các ngành nghề giáo dục và y tế, trong mọi công tác xã hội, trong các khoa học nhân văn, trong nghệ thuật mô tả nhân tính, cũng như trong thế giới kinh doanh và trong nền quản lý nhà nước và giáo xứ.
Trong thời kỳ kinh tế cùng cực như thời chúng ta, sẽ không khả thi hoặc khả thể phân biệt được nghề nam giới và nghề nữ giới; mọi người phải nhận bất cứ công việc nào ngay sau khi nó được cung ứng, cho dù nó có phù hợp với tài năng cá nhân chuyên biệt của họ hay không. Ngày nay, gần như trung bình, mọi người đang ở trong những “ơn gọi” mà họ không được kêu gọi theo bản chất; người ta gần như có thể coi đó là một cú may mắn trong khi thực sự ngược lại. Sau đó, không còn gì khác ngoài việc tận dụng tối đa tình huống: các yêu cầu chuyên môn thích đáng phải được thỏa mãn nhưng không phải trả giá bằng cách phủ nhận bản chất riêng của người ta bằng cách để nó hao mòn đi; thay vào đó, nó nên đóng góp vào thiện ích của các người cùng cộng tác với mình. (Thí dụ, điều này có thể có nghĩa là người phụ nữ được tuyển làm công việc cơ khí sẽ tỏ ra có thiện cảm và bác ái với các đồng nghiệp của nàng; còn người đàn ông bị dính vào một công việc không phù hợp tuy nhiên vẫn cho thấy những phẩm tính sáng tạo trong việc tổ chức việc làm của mình). Tất nhiên, điều này đòi hỏi một mức độ trưởng thành bản thân cao và một thiện chí vô điều kiện trong việc nỗ lực hết mình trong bất cứ tình huống nhất định nào. Khó có thể đạt được quan điểm như vậy nếu không hiểu rằng các hoàn cảnh của cuộc sống là do Thiên Chúa ban, việc làm của người ta là phục vụ Thiên Chúa, và các ơn phúc do Thiên Chúa ban phải được phát triển để vinh danh Người trong việc làm này. Điều này có giá trị không những đối với các ơn gọi thánh hiến cho Thiên Chúa mà còn đối với mọi ơn gọi; và tuy nhiên, ơn gọi được chỉ định là được thánh hiến cho Thiên Chúa thực sự nổi bật như có ý nghĩa đặc biệt.
Trong cách sử dụng phổ biến, chúng ta nói rằng các linh mục và tu sĩ phải được kêu gọi đặc biệt, có nghĩa là một lời kêu gọi đặc thù phải được Chúa gửi đến cho họ. Có sự khác biệt nào giữa ơn gọi ngỏ cùng người đàn ông và ơn gọi ngỏ cùng người đàn bà hay không? Nữ giới cũng như nam giới luôn được kêu gọi vào bậc tu trì. Và khi chúng ta xem xét các biểu hiện đa dạng của đời sống tu trì đương thời, khi chúng ta thừa nhận rằng các công việc bác ái vô cùng đa dạng trong thời đại của chúng ta cũng được thực hành bởi các Dòng và tu đoàn nữ, chúng ta chỉ có thể thấy một sự khác biệt chủ yếu vẫn tồn tại trong thực tế: công việc linh mục thực sự được dành riêng cho nam giới. Bây giờ, điều này dẫn chúng ta vào một câu hỏi khó khăn và được tranh luận nhiều về chức linh mục cho phụ nữ.
Nếu chúng ta xem xét thái độ của chính Chúa, chúng ta hiểu rằng Người đã chấp nhận sự phục vụ đầy tự do yêu thương của phụ nữ đối với chính Người và các Tông đồ của Người và các phụ nữ là những môn đệ và những người bạn tâm giao thân thiết nhất của Người. Tuy nhiên, Người đã không ban cho họ chức linh mục, thậm chí không ban cho cả Mẹ của Người, Nữ Vương các Tông Đồ, người được tôn vinh trên toàn thể nhân loại trong sự hoàn hảo nhân bản và viên mãn ân sủng.
Trong Giáo hội sơ khai, các phụ nữ đóng một vai trò tích cực trong các tổ chức bác ái khác nhau của Giáo Hội, và việc tông đồ tích cực của họ với tư cách là những vị hiển tu và tử đạo đã có một ảnh hưởng sâu sắc. Sự tinh trong trinh tiết được cử hành trong phụng vụ, và đối với các phụ nữ, cũng có một chức vụ thánh hiến trong Giáo hội — chức phó tế với việc phong chức vụ đặc biệt của nó (46) — nhưng Giáo hội cũng không đi xa đến mức nhận họ vào chức linh mục. Và trong những diễn biến lịch sử sau này, các phụ nữ đã bị thay thế khỏi những chức vụ này; ngoài ra, dường như dưới ảnh hưởng của các khái niệm tư pháp Do Thái và La Mã, tư thế giáo luật của họ đã bị suy giảm dần dần. Chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi được quyết định ở đây trong thời gian gần đây: các năng lực nữ giới hiện đang được yêu cầu mạnh mẽ nhằm giúp một tay trong các tổ chức bác ái của Giáo Hội và công việc mục vụ. Trong các phong trào đấu tranh gần đây, các phụ nữ đòi cho các hoạt động của họ được công nhận một lần nữa như một thừa tác vụ thụ phong trong giáo hội, và rất có thể một ngày nào đó người ta sẽ chú ý đến những yêu cầu của họ. Như thế, cuối cùng, câu hỏi là liệu đây có phải là bước đầu tiên trên con đường dẫn các phụ nữ vào chức linh mục hay không.
Đối với tôi, dường như việc thực thi như thế của Giáo hội, cho đến nay tuy chưa từng được nghe đến, nhưng không thể bị cấm đoán bởi tín điều. Tuy nhiên, tính thực tế của một khuyến nghị như vậy mang lại nhiều lập luận khác nhau cả ủng hộ lẫn phản bác. Toàn bộ truyền thống chống lại nó ngay từ đầu. Nhưng theo ý kiến của tôi, điều quan trọng hơn là sự kiện mầu nhiệm được nhấn mạnh trên đây - rằng Chúa Kitô đã đến thế gian với tư cách là Con Trai của Con Người (Son of Man). Tạo vật đầu tiên trên trái đất được tạo dựng trong một ý nghĩa vô song như hình ảnh của Thiên Chúa, do đó, là một người đàn ông; điều đó dường như cho tôi thấy rằng Người chỉ muốn chọn những người đàn ông làm đại diện chính thức của Người trên trái đất. Tuy nhiên, Người ràng buộc chính Người một cách mật thiết với một người phụ nữ như không với ai khác trên trái đất: Người đã dựng nên bà rất gần với hình ảnh của chính Người như không có một con người nào khác trước hay sau; Người đã trao cho bà một vị trí trong Giáo hội một cách vĩnh viễn như đã không trao cho một con người nào khác. Và chính vì vậy, Người đã kêu gọi các phụ nữ trong mọi thời đại kết hợp mật thiết nhất với Người: họ phải là sứ giả của tình yêu Người, những người công bố ý muốn của Người cho các vị vua chúa và giáo hoàng, và là những tiền hô của Vương quốc của Người trong trái tim các người đàn ông. Được làm Người phối ngẫu của Chúa Kitô là một ơn gọi cao cả nhất đã được ban cho, và bất cứ người đàn bà nào nhìn thấy con đường này rộng mở trước mắt mình sẽ không còn khao khát con đường nào khác nữa.
Ơn gọi của mỗi Kitô hữu, chứ không phải chỉ của một số ít người được tuyển chọn, là thuộc về Thiên Chúa trong một sự phó thác tự do của tình yêu và phụng sự Người. Dù nam hay nữ, dù được thánh hiến hay không, mỗi người đều được kêu gọi noi gương Chúa Kitô. Cá nhân càng tiếp tục đi xa trên con đường này, họ sẽ càng trở nên giống như Chúa Kitô. Chúa Kitô là hiện thân của lý tưởng hoàn thiện nhân bản: nơi Người mọi thành kiến và khiếm khuyết đều bị loại bỏ, và các nhân đức nam tính và nữ tính được hợp nhất và các yếu điểm của họ được cứu chuộc; do đó, các môn đệ chân chính của Người sẽ được nâng cao dần dần vượt trên các giới hạn tự nhiên của họ. Đó là lý do tại sao chúng ta thấy nơi những người đàn ông thánh thiện một sự dịu dàng của phụ nữ và một lo lắng đầy tình mẫu tử thực sự dành cho những linh hồn được giao phó cho họ trong khi nơi những người phụ nữ thánh thiện có sự táo bạo, thành thạo và cương quyết của đàn ông.
Do đó, nhờ việc noi gương Chúa Kitô, chúng ta được dẫn dắt tới chỗ phát triển ơn gọi nhân bản nguyên thủy của chúng ta, đó là trình bầy hình ảnh của Thiên Chúa trong chính chúng ta: Chúa của sự sáng tạo, như một người bảo vệ, gìn giữ và thăng tiến mọi tạo vật trong phạm vi riêng của họ; người Cha, trong tư cách sinh ra và giáo dục con cái cho vương quốc của Thiên Chúa qua tư cách làm cha và làm mẹ thiêng liêng. Vượt trên các giới hạn tự nhiên là hiệu quả cao nhất của ân sủng; tuy nhiên, điều này không bao giờ có thể đạt được bằng một cuộc chiến võ đoán chống lại tự nhiên và bằng cách phủ nhận các giới hạn tự nhiên mà chỉ bằng cách khiêm tốn phục tùng trật tự do Thiên Chúa ban cho.
Ghi Chú
(1) St 1:26
(2) Đd 1:27.
(3) Đd 1:28.
(4) St 2:7tt.
(5) Đd.2:20.
(6) Đd.2:18.
(7) Đd.2:23.
(8) Đd.2:24.
(9) Đd.2:25.
(10) St 3:12.
(11) Đd.3:17.
(12) Đd.3:18.
(13) Đd.3:19
(14) Đd.3:16.
(15) Đd.3:21.
(16) Đd.3:15.
(17) Mt.19:1-12; Mc.10:1-12.
(18) 1Cr 11:3-4.
(19) Đd.11:5.
(20) Đd.11:7.
(21) Đd.11:8.
(22) Đd.11:9.
(23) Đd.11:11.
(24) Đd.11:16.
(25) 1Cr 7:14, 16.
(26) Eph 5:22tt.
(27) Đd.5:22-23.
(28) Đd. 5:24.
(29) Đd.5:25.
(30) Đd. 5:26.
(31) Đd.5:27.
(32) Đd.5:28.
(33) Đd.5:29.
(34) Đd.5:30.
(35) Đd.5:31.
(36) Đd.5:32.
(37) Đd.5:33.
(38) 1Tm 2:9.
(39) Đd.2:11.
(40) Đd.2:12.
(41) Đd.2:13.
(42) Đd.2:14.
(43) Đd. 2:15.
(44) Gl 3:23-24,28.
(45) 1Cr 6.
(46) V.Borsinger, Rechtstellung der Frau in der Katholischen Kirche (Leipzig,1931).
Kỳ tới: Tiểu luận III: Linh đạo Phụ nữ Kitô giáo